Cậu có còn mang cái tên đó nữa không? Đến hôm nay tớ mới nhận ra còn biết bao nhiêu điều tớ chưa biết tới và tớ cố tìm mọi cách để đẩy lui những giới hạn của sự trống rỗng vẫn vây quanh tớ kể từ ngày cậu ra đi. Mỗi khi nỗi cô đơn kéo tới làm u ám cuộc đời, tớ thường nhìn lên trời, rồi nhìn xuống đất và có một cảm giác mãnh liệt rằng cậu vẫn còn ở đâu đó quanh đây. Và cứ như vậy trong suốt nhiều năm, tớ vẫn tin vào điều đó, duy chỉ có tớ và cậu không thể gặp nhau, không thể nghe thấy tiếng của nhau.
Dường như chúng ta còn có thể đi ngang qua nhau mà không nhận ra nhau.
Tớ vẫn không ngừng đọc kể từ ngày cậu ra đi, tớ đã đi rất nhiều nơi để tìm kiếm cậu, tìm cách để hiểu một điều gì đó. Và những trang cuộc đời cứ càng mở ra, tớ càng nhận thấy rằng sự hiểu biết càng rời xa tớ, giống như trong những cơn ác mộng mà mỗi bước tiến lên lại là một bước lùi.
Tớ đã đi khắp các gian phòng của những thư viện lớn, những con đường trong thành phố đã từng là của chúng ta, nơi chúng ta đã từng chia sẻ với nhau biết bao kỷ niệm từ thời thơ ấu. Hôm qua, tớ đã thả bộ dọc bờ song, trên những con đường lát gạch trong khu chợ không có mái che mà cậu từng yêu thích. Tớ đã dừng lại chỗ này, chỗ khác, có cảm giác như cậu vẫn đang đi cùng tớ, rồi tớ quay về cái quán rượu nhỏ gần cảng như mỗi ngày thứ sáu hàng tuần. Cậu có còn nhớ không? Chúng ta vẫn thường xuyên gặp nhau ở đó vào lúc chiều buông xuống. Chúng ta đã vui vẻ tán dóc với nhau rất lâu về tất cả những niềm đam mê mà chúng ta cùng chia sẻ. Và chúng ta đã bàn luận hàng giờ liền về những bức tranh đã làm cuộc sống của chúng ta trở nên sống động hơn và cho phép chúng ta vượt thời gian để quay về những thời đại khác nhau trong quá khứ.
Chúa ơi, tớ và cậu đã cùng yêu hội họa biết bao! Tớ vẫn thường đọc những cuốn sách cậu đã viết, đã gặp lại trong đó văn phong của cậu cũng như những gì cậu từng yêu thích.
Jonathan, tớ ko biết cậu đang ở đâu. Tớ ko biết tất cả những gì chúng ta đã từng có với nhau có ý nghĩa gì không, không biết sự thật có tồn tại hay ko, nhưng nếu một ngày cậu đọc được lá thư này, thì khi đó cậu sẽ biết tớ đã thwcj hiện lời hứa với cậu.
Tớ biết rằng khi đứng trước bức tranh, cậu sẽ chắp tay sau lưng, cậu sẽ nheo mắt lại như mỗi khi gặp điều gì đó ngạc nhiên, rồi cậu sẽ mỉm cười. Nếu mọi chuyện đúng như tớ hằng mong ước, cô ấy sẽ đừng bên cậu, cậu sẽ ôm cô ấy trong vòng tay, cậu và cô ấy sẽ cùng ngắm nhìn bức tranh tuyệt tác mà chúng ta đã có đặc quyền chia sẻ cùng nhau, và rồi có thể, rất có thể cậu sẽ nhớ ra. Khi đó, nếu mọi chuyện đã diễn ra đúng như vậy, đến lượt tớ yêu cầu cậu một điều, cậu còn nợ tớ điều đó. Mà thôi, hãy quên đi điều tớ vừa viết ra, trong tình bạn không ai nợ ai điều gì cả. Nhưng đây là điều tớ muốn:
Hãy nói với cô ấy, nói với cô ấy rằng ở đâu đó trong trái tim này ở rất xa hai người, tớ đã từng cùng cậu đi qua những con phố, cùng cậu ngồi cười đùa quanh một chiếc bàn, và vì những phiến đá sẽ tồn tại thật lâu, hãy nói với cô ấy rằng trên những phiến đá nơi chúng ta đã cùng nhìn và cùng đặt bàn tay lên, sẽ còn mãi một phần câu chuyện của chúng ta. Hãy nói với cô ấy, Jonathan, rằng tớ đã từng là bạn cậu, rằng cậu đã từng là một người anh em của tớ, và có thể còn hơn thế nữa vì chúng ta đã chọn nhau, hãy nói với cô ấy rằng sẽ không bao giờ có điều gì có thể chia rẽ tớ và cậu, kể cả sự ra đi vô cùng đột ngột của hai người.
Kể từ hôm ấy, không một ngày nào trôi qua tớ không nhớ tới hai người và luôn cầu mong cho hai người được sống hạnh phúc bên nhau.
Giờ tớ đã là một ông già, Jonathan ạ, giờ ra đi của tớ sắp điểm, nhưng nhờ có hai người, tớ đã trở thành một ông già với trái tim ngập tràn ánh sang, thứ ánh sang khiến nó trở nên thanh thản. Tớ đã yêu! Có chăng mỗi con người đều có thể ra đi với điều may mắn vô giá ấy?
Một vài dòng nữa thôi và rồi cậu sẽ gấp lá thư này lại, cậu sẽ yên lặng cất nó vào túi áo, sau đó cậu sẽ chắp hai tay sau lưng và cậu sẽ mỉm cười, cũng giống như tớ khi đang viết những dòng cuối cùng này cho cậu. Tớ cũng vậy, Jonathan, tớ đang cười, và nụ cười chưa bao giờ tắt trên môi tớ.
Chúc hai người hạnh phúc.
Bạn của cậu, Peter.
-Tớ đây, tớ chuẩn bị rời Stapledon và sẽ tới trước nhà cậu trong nửa tiếng nữa, hy vọng cậu có nhà chứ? Cái máy nhắn tin chết tiệt! Tớ tới ngay đây.
Peter bực dọc gác máy, lục trong túi áo tìm chum chìa khóa cho đến khi nhớ ra hôm trước anh đã đưa nó cho tài xế. Anh nhìn đồng hồ, chuyến bay tới Miami sẽ cất cánh khỏi sân bay Logan vào cuối buổi chiều, nhưng trong thời buổi nhộn nhạo này, các quy định mới về an ninh buộc hành khách phải tới sân bay tối thiểu hai tiếng trước giờ khởi hành. Anh khóa cửa căn hộ nhỏ và lịch sự nằm trong một khu phố tài chính mà anh đã thuê cả năm, rồi đi theo dãy hành lang phủ thảm dày. Anh ấn ba lần lên nút gọi thang máy, một cử chỉ nóng ruột chưa bao giờ khiến thang máy đến nhanh hơn. Còn những mười tám tầng nhà phía dưới, rồi anh vội vã bước qua mặt ông Jenkins, người gác cổng toàn nhà, và thông báo với ông rằng anh sẽ trở về vào ngày mai. Anh đặt cạnh cửa quầy gác một túi quần áo để hiệu giặt là bên cạnh tòa nhà sẽ cho người sang lấy. Ông Jenkins cất vào ngăn kéo cuốn Văn học và nghệ thuật của nhà xuất bản Boston Globe mà ông đang đọc dở, ghi lời yêu cầu của Peter vào quyển đăng kí dịch vụ, rồi rời quầy gác chạy theo anh và mở cửa.
Ra tới bậc thềm, ông mở một chiếc ô thật to và che cho Peter khỏi những giọt mưa rào nhẹ đang rơi trên thành phố.
-Tôi đã gọi xe cho ông, ông thông báo, mắt chăm chăm nhìn đường chân trời mờ mịt.
- Ông thật tốt bụng, Peter trả lời giọng khô khốc.
- Bà Beth, hàng xóm cùng tầng với ông, hiện đang vắng nhà, nên khi nhìn thấy thang máy dừng lại ở tầng đó, tôi đã đoán được…
-Tôi biết bà Beth là ai rồi, Jenkins!
Người gác cổng nhìn những dải mây xám và trắng lơ lửng trên đầu họ.
-Thời tiết thật đáng ghét phải không ông? Ông tiếp lời.
Peter không trả lời. Anh dị ứng với những tiện nghi đời sống ở một khu nhà sang trọng. Mỗi lần đi qua quầy gác của ông Jenkins, anh lại có cảm giác một phần riêng tư của mình bị xâm phạm. Đằng sau quầy gác đối diện với những cánh cửa lớn hai chiều, người đàn ông với cuốn sổ ghi chép kiểm tra mọi lượt đi về của từng người sống trong tòa nhà. Peter tin chắc rằng cuối cùng thì người gác cổng này sẽ biết rõ mọi thói quen của anh hơn phần đông bạn bè anh. Một hôm, với tâm trạng không vui, anh rời tòa nhà theo lối cầu thang dẫn ra khu để xe. Khi trở về, anh ngạo nghễ đi ngang qua Jenkins, trong khi ông thì lại nhã nhặn đưa cho anh một chiếc chìa khóa đầu tròn. Khi anh sững sờ nhìn lại, Jenkins nói giọng thản nhiên:
- Nếu ông muốn quay lại bằng đường đã đi ra, thì nó sẽ rất hữu dụng với ông. Các cửa nối hành lang và cầu thang ở mỗi tầng đều được khóa từ bên trong, nó sẽ giúp ông đối phó với vấn đề bực mình này.
Trong thang máy, Peter đã hứa danh dự với bản thân không bao giờ để lộ bất cứ cảm xúc nào, vì biết chắc Jenkins sẽ không bỏ qua mảy may một thái độ nào của anh nhờ vào camera theo dõi. Và đến khi, sáu tháng sau, khi anh có mối quan hệ ngắn ngủi với một cô tên là Thaly, một nữ nghệ sĩ trẻ đang lên, anh đã ngạc nhiên khi thấy mình qua đêm tại khách sạn vì thích không ai nhận ra mình. Còn hơn là phải nhìn cái vẻ mặt sáng lên của người gác cổng, tâm trạng vui vẻ bất di bất dịch mỗi sáng của ông ta khiến anh khó chịu hơn bao giờ hết.
-Tôi nghĩ mình đã nghe thấy tiếng động cơ xe của ông. Ông sẽ không phải đợi lâu đâu, thưa ông.
- Ông còn nhận ra từng chiếc xe qua tiếng động cơ của chúng cơ à, Jenkins? Peter buột miệng nói hơi xấc.
- Ồ, không phải tất cả các xe, nhưng chiếc Ăng-lê cũ của ông, ông sẽ thừa nhận với tôi thôi, có những tiếng lách cách nhè nhẹ phát ra từ thanh truyền, nghe như “Đa đê đô”, gợi nhớ đến âm điệu tuyệt vời của những người họ hàng chúng tôi ở bên Anh.
Peter nhướn mày, anh nổi cáu. Jenkins thuộc loại người cả đời chỉ mơ được sinh ra là một công dân của Nữ hoàng, một sự vượt trội về đẳng cấp trong cái thành phố đặc sệt truyền thống Ăng-lê này. Đôi đèn pha tròn của chiếc hộp hiệu Jaguar XK 140 lóe sáng từ cổng nhà xe. Người tài xế dừng chiếc xe trên hàng vạch trắng được vẽ chính giữa bậc thềm.
-Thật vậy sao, Jenkins thân mến! Peter thốt lên và tiến tới cánh cửa xe mà người tài xế đã mở sẵn cho anh.
Vẻ mặt nhăn nhó, Peter ngồi vào sau vô-lăng, khởi động máy làm chiếc xe Ăng-lê cũ gầm gừ, đồng thời khẽ đưa tay vẫy Jenkins.
Anh nhìn qua kính chiếu hậu để kiểm chứng rằng ông ta, theo thói quen, sẽ chờ anh rẽ ở góc đường rồi mới tự cho phép mình quay vào.
- Bộ xương già! Lão sinh ra ở Chicago, cả gia đình lão đều ra đời ở Chicago! Anh lẩm bẩm.
Anh đặt chiếc điện thoại di động vào giá gác và ấn phím tắt lưu số điện thoại nhà Jonathan. Anh ghé vào chiếc micro được gắn vào tấm chắn nắng và hét lên:
- Tớ biết cậu có ở nhà! Cậu không thể hình dung được cái thiết bị chặn cuộc gọi của cậu làm tớ khó chịu thế nào đâu. Dù cậu có đang làm gì đi nữa, thì cậu cũng chỉ còn chín phút nữa thôi. Đấy. tốt nhất là cậu nên ở nhà.
Anh cúi người để thay đổi tần số chiếc radio được đặt trong hộc đựng găng. Khi ngẩng lên, anh phát hiện ra trước mũi xe anh một quãng, một bà lão đang đi qua đường. Tập trung hơn một chút anh nhận ra bà đang đi bằng bước chân đôi khi nặng trĩu bởi tuổi già. Lốp xe để lại một vài vệt đen trên mặt đường trải nhựa. Khi chiếc xe đã dừng hẳn, Peter mở choàng mắt. Bà cụ vẫn tiếp tục sang đường bình thản. Hai tay vẫn còn bấu chặt lấy vô-lăng, anh hít một hơi, tháo dây bảo hiểm và khom người bước xuống xe. Anh rảo bước và luôn miệng nhận lỗi, khoác tay dìu bà đi nốt vài mét còn lại cho tới vỉa hè.
Anh đưa bà cụ tấm các của mình và lại xin lỗi. Bằng tất cả sự quyến rũ của mình, anh thề rằng sẽ còn ân hận vì đã gây ra cho bà cụ nỗi sợ hãi nhường ấy hàng tuần lễ. Bà cụ tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên. Bà trấn an anh bằng cách huơ huơ chiếc gậy trắng. Chắc chắn bà nặng tai nên mới giật mình rồi nén lại được khi anh nhã nhặn nắm lấy khuỷu tay để giúp bà qua đường. Peter lấy đầu ngón tay nhặt một sợi tóc vương trên áo mưa của bà cụ và để bà đi tiếp, còn mình thì quay trở lại xe. Anh trấn tĩnh lại trong mùi da cũ quen thuộc tràn ngập chiếc xe cổ. Anh tiếp tục lái chầm chậm trên còn đường dẫn tới nhà Jonathan. Đến ngã tư thứ ba, anh đã bắt đầu huýt sáo.
Jonathan leo những bậc thang của ngôi nhà xinh đẹp nơi anh sống trong khu cảng cũ. Đến tầng cuối cùng, cửa cầu thang mở ra dẫn tới căn xưởng ốp kính nơi người bạn gái sống cùng anh đang vẽ tranh. Anna Valton và anh gặp nhau trong một buổi tối khai mạc triển lãm. Một hội do một nhà sưu tầm nữ giàu có và kín đáo trong thành phố sáng lập đã giới thiệu các tác phẩm của Anna. Xem những bức tranh được trưng bày của Anna, anh có cảm giác tranh của cô luôn ẩn chứa một phong thái trang nhã của tác giả. Phong cách của cô thuộc về một thế kỷ mà anh đã dành cả sự nghiệp để nghiên cứu. Phong cảnh trong tranh của Anna dường như vô tận, không cùng, và anh đã bình luận với cô bằng những lời lẽ chọn lọc và xác đáng. Tình cảm của một nhà chuyên môn tên tuổi và uy tín ỡ như Jonathan đã đi thẳng vào trái tim của cô gái lần đầu được triển lãm tranh.
Từ đó, họ gần như không rời nhau và đến mùa xuân năm sau, họ đã dọn đến sống trong ngôi nhà do Anna chọn ở gần bến cảng cũ này. Căn phòng nơi cô ở phần lớn thời gian ban ngày và đôi khi cả ban đêm có cả một khoảng rộng ốp kính. Ngay từ những giờ đầu tiên của buổi sớm, ánh sáng đã tỏa khắp gian phòng, bao phủ nó bằng một bầu không khí nhuốm màu kì diệu. Mặt sàn mênh mông vàng óng với những dải gỗ rộng trải dài từ chân tường gạch trắng tới tận các cửa sổ lớn. Mỗi khi rời cọ vẽ, Anna thích đốt một điếu thuốc, tới ngồi bên một trong những bậu cửa sổ bằng gỗ, nơi tầm nhìn trải rộng ra khắp bãi vịnh. Bất kể thời tiết thế nào, cô cũng nâng những cánh cửa sổ có thể kéo lên dễ dàng nhờ những sợi dây kéo bằng gai, và hít lấy không khí êm dịu pha trộn giữa mùi thuốc lá với cái ẩm ướt do biển mang lại.
Chiếc Jaguar của Peter đậu dọc bên lề đường.
- Em nghĩ bạn anh đến đấy, cô nói khi nghe thấy tiếng Jonathan phía sau.
Anh tiến lại gần và ôm cô trong vòng tay, vùi đầu vào khoảng tối nơi cổ cô với một nụ hôn. Anna rùng mình.
- Anh sẽ làm Peter phải chờ mất!
Jonathan luồn tay qua cổ chiếc váy sợi bông và kéo nó trượt xuống ngực Anna. Những tiếng còi xe lại réo lên, cô vui vẻ đẩy anh ra.
- Người làm chứng của anh hơi phiền phức đấy, anh đi đi, đi nhanh tới cái hội thảo của anh đi, anh càng đi nhanh thì sẽ càng sớm về.
Jonathan lại hôn cô và đi giật lùi ra. Khi cánh cửa đã sập lại, Anna lại châm một điếu thuốc mới. Từ phía dưới, bàn tay của Peter thoáng hiện khỏi xe để chào cô khi chiếc xe đi xa dần. Anna thở dài và đưa mắt nhìn về phía bến cảng cũ nơi trước kia có biết bao nhiêu người di cư đã cập bến.
- Sao cậu chẳng khi nào đúng giờ thế? Peter hỏi.
- Giờ của cậu ấy à?
- Không, giờ máy bay cất cánh, giờ người ta hẹn nhau để ăn trưa hoặc ăn tối, giờ hiển thị trên đồng hồ của chúng ta, nhưng cậu có thèm đeo đồng hồ đâu!
- Cậu là nô lệ của thời gian, còn tớ chống lại nó.
- Khi cậu nói một điều như thế với bác sĩ tâm lý của cậu, cậu có biết ông ta sẽ chẳng thèm nghe thêm bất cứ lời nào cậu thốt ra sau đó không? Ông ta sẽ tự nhủ, không biết nhờ cậu, liệu ông ta có thể mua được chiếc xe hằng mơ ước loại nào, xe hộp hay mui trần.
- Tớ không có bác sĩ tâm lý!
- Vậy thì cậu nên suy nghĩ lại. Cậu thấy thế nào?
- Còn cậu, điều gì khiến cậu phấn chấn thế?
- Cậu đã đọc các tập san Văn học và Nghệ thuật của Nhà xuất bản Boston Globe chưa?
- Chưa, Jonathan trả lời vừa nhìn qua cửa kính xe.
- Đến Jenkins còn đọc chúng rồi! Tớ vừa bị báo chí cho lên thớt rồi!
- Thế hả?
- Cậu đọc nó rồi!
- Một chút xíu thôi, Jonathan trả lời.
- Một lần hồi còn đi học, tớ hỏi cậu có từng ngủ với Kathy Miller mà tớ mê mệt chưa, cậu cũng trả lời: “Một chút thôi”. Cậu có thể định nghĩa cho tớ biết điều cậu muốn nói bằng “một chút thôi” không? Từ hai mươi năm nay tớ vẫn thắc mắc đấy…
Peter đập tay vào vô-lăng.
- Không thể được, cậu có thấy cái tiêu đề chèo kéo: “ Những buổi bán đấu giá gần đây của chuyên gia đấu giá Peter Gwel thật đáng thất vọng!” Ai đã từng phá vỡ kỉ lục vô song đáng nhớ trong vòng mười năm trở lại đây cho một tác phẩm của Seurat? Ai đã bán tranh của Renoir cao giá nhất từ mười năm nay? Rồi bộ sưu tập của Bowen với tranh của Jongkind, của Monet, của Mary Cassatt và những bức khác? Và ai là một trong những người đầu tiên bảo vệ Vuillard? Cậu thấy giờ ông ta có giá thế nào chưa?
- Peter, cậu cáu làm gì, nghề phê bình là phải phê bình, thế thôi.
- Trong máy nhắn của tớ có đến mười bốn tin nhắn đầy lo lắng của những người hùn vốn với tớ ở Christie’s, đó là điều làm tớ bực đấy!
Anh dừng lại trước ngã tư đèn đỏ và tiếp tục cáu kỉnh. Jonathan chờ vài phút và vặn nút radio. Giọng nói của Louis Amstrong vang lên trong xe. Jonathan chợt nhìn thấy một chiếc hộp đặt trên băng sau.
- Gì thế kia?
- Chẳng gì sất! Peter lẩm bẩm.
- Jonathan quay lại và liệt kê những thứ bên trong, vẻ hớn hở.
- Một máy cạo râu, ba chiếc sơ mi rách, hai ống quần ngủ, ống nọ tách rời khỏi ống kia, một đôi giày thiếu dây buộc, bốn lá thư bị xé nát, tất cả đều dính đầy xốt cà chua…Cậu chia tay rồi hả?
Peter vặn người đẩy chiếc hộp các-tông xuống sàn.
- Cậu chưa bao giờ có một tuần lễ xui xẻo nào hả? Peter vừa đáp lại vừa vặn to âm thanh của chiếc radio.
Jonathan nhận thấy mối lo của bạn tăng dần, anh liền góp ý.
- Cậu chẳng có gì phải lo lắng cả, cậu đối đáp tài lắm kia mà!
- Đó chính là loại suy nghĩ ngu xuẩn khiến con người ta lao thẳng vào tường.
- Tớ đã bị một vố sợ chết khiếp khi lái xe rồi, Peter nói.
- Bao giờ?
- Ban nãy, lúc vừa ra khỏi nhà tớ.
Chiếc Jaguar vọt lên và Jonathan nhìn những dãy nhà cũ của khu bến cảng lướt qua cửa kính xe. Họ đi theo đường tắt dẫn tới sân bay Quốc tế Logan.
- Jenkins thân mến ra sao rồi? Jonathan hỏi.
Peter đưa xe vào chỗ đậu đối diện với chòi gác. Anh kín đáo luồn một tờ giấy bạc vào tay người gác trong khi Jonathan vớ lấy chiếc túi cũ để phía sau. Họ đi lên theo lối để xe, bước chân âm vang. Như mọi lần đi máy bay, Peter mất hết tính kiên nhẫn khi người ta yêu cầu anh tháo thắt lưng và cởi giày bởi anh đã làm cửa kiểm tra an ninh réo chuông ba lần khi đi qua. Anh lẩm bẩm vài lời không mấy nhã nhặn và nhân viên phụ trách liền kiểm tra hành lý của anh cho đến từng chi tiết nhỏ nhất. Jonathan ra hiệu rằng mình sẽ chờ tại quầy báo như thường lệ. Khi Peter đuổi kịp Jonathan, anh đang vùi đầu vào một cuốn sách của Milton Mezz Mezrow, một tuyển tập nhạc jazz. Jonathan mua cuốn sách. Họ lên máy bay mà không gặp thêm trở ngại gì và chuyến bay khởi hành đúng giờ. Jonathan từ chối khay thức ăn mà tiếp viên hàng không mang đến, hạ lá trập của cửa kính máy bay, bật chiếc đèn sáng dịu và miệt mài đọc những ghi chép chuẩn bị cho hội thảo mà anh sẽ dự trong vài giờ nữa. Peter xem lướt cuốn tạp chí của hãng hàng không, rồi tới bảng chỉ dẫn an toàn, và cuối cùng là cuốn bán hàng trên máy bay mà anh đã thuộc long. Rồi anh đu đưa người trên ghế.
- Cậu chán hả? Jonathan hỏi mà không rời mắt khỏi tập tài liệu đang xem dở.
- Tớ đang suy nghĩ đấy chứ!
- Tớ đã bảo mà, cậu đang chán.
- Cậu thì không thế chắc?
- Tớ đang ôn lại cho buổi hội thảo.
- Cậu đúng là bị lão ta ám ảnh mất rồi, Peter trả đũa và lại với tay lấy chỉ dẫn an toàn của chiếc 737.
- Bị mê hoặc chứ!
- Với tình trạng đắm đuối đến mức đó, bạn yêu quý, tớ xịn phép nhấn mạnh tới bản chất áp đặt trong mối quan hệ giữa cái lão nghệ sỹ người Nga ấy với cậu.
- Vladimir Radskin đã qua đời từ cuối thế kỷ thứ XIX, tớ chẳng có mối quan hệ nào với ông ta, mà chỉ với tác phẩm của ông ta thôi.
Jonathan lại mải miết đọc, một khoảng im lặng ngắn ngủi bao trùm.
- Tớ vừa thoáng thấy cái cảm giác “đã từng gặp”, Peter ranh mãnh nói qua đầu môi, những cũng có thể đó là do đây là lần thứ một trăm chúng ta bàn về chuyện này rồi.
- Thế cậu làm gì trong máy bay này nếu cậu không bị nhiễm cùng loại virus với tớ, hả?
- Thứ nhất, tớ đi theo cậu, thứ hai, tớ trốn những cú điện thoại của các đồng nghiệp đang phát hoảng vì bài báo của một thằng ngốc trên Boston Globe, và thứ ba, tớ đang buồn.
Peter lấy một chiếc bút dạ từ trong túi áo vét và gạch một dấu thập lên tờ giấy kẻ ô vuông trên đó Jonathan đã trân trọng viết những ghi chép của mình. Không rời mắt khỏi tập ảnh đang nghiên cứu dở, Jonathan vẽ một dấu tròn bên cạnh dấu thập của Peter. Ngay lập tức, Peter đánh trả lại một dấu thập khác và Jonathan gạch dấu tròn tiếp theo theo đường chéo…
Chuyến bay hạ cánh sớm mười phút so với dự định. Họ không có hành lý gửi theo và chiếc taxi đưa họ thẳng tới khách sạn. Peter nhìn đồng hồ và thông báo họ có hơn một tiếng trước khi hội thảo bắt đầu. Sau khi đã hoàn thành thủ tục tại quầy lễ tân, Jonathan lên phòng thay quần áo. Cánh cửa phòng khép lại sau lưng anh không một tiếng động. Anh đặt túi lên chiếc bàn giấy bằng gỗ gụ kê đối diện cửa sổ và với tay lấy điện thoại. Khi Anna nhấc máy, anh nhắm mắt, để long mình cuốn theo giọng nói của cô, cảm giác như anh đang ở cạnh cô trong xưởng vẽ. Đèn trong xưởng đã tắt hết. Anna đang ngồi trên bậu cửa sổ. Phía trên cô, qua những ô kính rộng, một vài ánh sao lấp lánh trong quầng sáng yếu dần của ánh đèn thành phố, trông như những điểm sáng nhẹ được thêu trên một tấm vải nhạt màu. Những làn gió ẩm ướt của biển quất vào các cửa kính cũ, đọng lại trên các gờ cửa bằng chì. Thời gian gần đây, Anna xa cách với Jonathan, giống như một nỗi sợ hãi trước sự cam kết cho cả cuộc đời. Thế nhưng, chính cô là người mong muốn nghi lễ này hơn cả. Thành phố của họ cũng bảo thủ giống như môi trường nghệ thuật mà họ đang tham dự. Sau hai năm sống chung, đã đến lúc cần hợp thức hóa mối quan hệ của họ. Các khuôn mặt của xã hội Boston nhắc nhở họ điều đó vào mỗi buổi tiệc rượu thời thượng, mỗi dịp khai mạc triển lãm, mỗi buổi bán đấu giá quy mô.
Jonathan và Anna đã chịu thua sức ép của giới thượng lưu. Vẻ bề ngoài đẹp đẽ của cặp uyên ương chính là bằng chứng cho sự thành công trong sự nghiệp của Jonathan. Phía đầu dây bên kia, Anna im lặng, anh nghe tiếng thở của cô và đoán xem cô đang làm gì. Những ngón tay dài của Anna đang lùa trong mái tóc dày. Nhắm mắt lại, dường như anh có thể cảm thấy da thịt cô. Vào cuối ngày, mùi nước hoa của cô lẫn với mùi thơm của gỗ tràn ngập mọi ngóc ngách của xưởng vẽ. Cuộc nói chuyện của họ kết thúc bằng sự im lặng, Jonathan gác máy và mở mắt ra. Phía dưới cửa sổ phòng anh, một hàng xe hơi nối đuôi nhau thành dải băng dài màu đỏ. Cảm giác cô độc xâm chiếm anh, giống như mọi lần xa nhà. Anh thở dài, tự hỏi tại sao mình lại nhận lời mời tới buổi hội thảo này. Một giờ trôi qua, anh với tay dỡ hành lý ra và chọn lấy một chiếc sơ mi trắng.