Vào ngày xuất chinh, Hoắc Khứ Bệnh thay quân phục, vừa mở cửa
phòng thì thấy vẻ mặt lo lắng của mẫu thân.
“Khứ Bệnh”, Vệ Thiếu Nhi thở dài, “Mẫu thân biết con có chí
hướng của mình, là người có bản lĩnh khiến cữu cữu của con cũng phải coi trọng.
Mẫu thân không thể ngăn cản con xuất chinh, cũng không muốn ngăn cản, chỉ cần
khi con giết giặc ở trên chiến trường luôn ghi nhớ mẫu thân ở thành Trường An, ở
trong phủ Thiếu chưởng sứ này chờ con trở về là được rồi.”
Vệ Thiếu Nhi nhìn dáng vẻ oai hùng của con trai đang dắt ngựa
rời đi lại không an lòng, dù sao lần này cũng không giống năm Nguyên Sóc thứ
sáu có đệ đệ Vệ Thanh bảo hộ, việc nó ra sa trường chỉ là cưỡi ngựa xem hoa. Lần
này Khứ Bệnh phải tự mình cầm quân ra chiến trường chém giết bằng đao thật kiếm
thật vô cùng hung hiểm. Hơn nữa bà cũng hiểu con mình to gan lớn mật không sợ
trời, không sợ đất, chỉ e nó lại cứ tìm nơi nào nguy hiểm nhất để xông vào.
“Quan Quân hầu”, Hoắc Khứ Bệnh vừa ra khỏi phủ Thiếu chưởng
sứ thì có nội thị từ phía đông đi tới, tay nâng khay tựa như vừa thừa lệnh
Hoàng thượng gọi giật lại.
Hoắc Khứ Bệnh nhíu mày, “Có chuyện gì?” Đừng bảo là có biến cố
gì đó làm chậm trễ việc hắn xuất chinh.
Nội thị cười nói, “Cũng không có chuyện gì. Hôm qua Công
chúa Duyệt Trữ hồi cung, nghe nói mấy ngày nữa Hầu gia sẽ xuất chinh nên một mực
đòi Hoàng thượng tới tiễn nhưng không được chuẩn y. Công chúa liền sai nô tài
mang tặng Hầu gia lá bùa cầu phúc cho người bình an trở về.” Tiếp đó, nội thị
vén tấm lụa phủ bên trên, lấy ra một chiếc túi gấm.
Trong tâm trí Hoắc Khứ Bệnh hiện lên hình ảnh cô bé có khuôn
mặt linh lợi. Đến hôm nay, hắn đã không còn cách nào thuyết phục bản thân làm
ngơ trước những tình cảm tốt đẹp dành cho cô. Đó là cô công chúa nhỏ được sủng
ái nhất của Hoàng đế nhưng không hề đanh đá kiêu căng ngạo mạn mà lại rất thấu
hiểu lòng người. Hắn mỉm cười nhận lấy, lên ngựa rồi nói, “Ta biết rồi, hãy
chuyển lời cảm tạ của ta tới Công chúa Duyệt Trữ.”
Vệ Thiếu Nhi đứng ở của phủ trông thấy bèn nhíu mày, xem chừng
tiểu công chúa của Trần gia vẫn có quan hệ tốt với Khứ Bệnh. Bà biết Khứ Bệnh rất
bưởng bỉnh, đã quyết định việc gì thì ngay cả bà là mẫu thân cũng không thể lay
chuyển được. Những câu nói của Vệ Tử Phu năm đó ở đình nghỉ chân trong cung Vị
Ương hiện lên trong lòng bà.
“Muội muội”, bà thầm nghĩ, “Muội tất không ngờ đến kết quả
ngày hôm nay. Khứ Bệnh vốn cao ngạo, rốt cuộc cũng là người phàm, chỉ sợ người
nó yêu thương lại chính là cô bé chưa đầy tám tuổi đó.”
Hoắc Khứ Bệnh lên đường, tách đại quân với Liễu Duệ rồi mỗi
người đi một hướng. Hắn dẫn Triệu Phá Lỗ, Tiết Thực, Triệu Tín mang theo một vạn
kỵ binh với tốc độ nhanh như chớp ra Lũng Tây, vượt dãy núi Ô Sao tới hành lang
Hà Tây[1].
[1] Hành lang Hà Tây hay còn gọi là hành lang Cam Túc, về cơ
bản là một chuỗi các ốc đảo nằm dọc theo rìa phía bắc cao nguyên Thanh – Tạng.
Phía nam là cao nguyên Thanh – Tạng cao vút và hoang vắng, phía bắc là sa mạc
Gobi và vùng đồng cỏ Ngoại Mông. Ở cực tây, tuyến đường phân làm ba, hoặc đi về
phía bắc hoặc phía nam của Thiên Sơn ở hai bên lòng chảo Tarim. Ở cực đông là
các dãy núi bao quanh Lan Châu trước khi đến thung lũng Vị Hà và Trung Quốc bản
thổ.
“Khứ Bệnh”, Triệu Phá Lỗ thúc ngựa tới bên cạnh hắn, khẽ báo
cáo, “Bộ lạc Hung Nô ở ngay phía trước rồi.”
“Ừ.” Hoắc Khứ Bệnh gật đầu. Thảo nguyên dưới nắng xuân khiến
cho lòng người ngây ngất nhưng kỵ binh không mang nhiều quân nhu nên phải lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh. Trên khuôn mặt tuấn tú trẻ trung của hắn thoáng
hiện lên một tia sát khí, hắn hạ lệnh: “Giết, không để một ai sống sót. Lấy đủ
khẩu phần lương thực và nước uống, thiêu hủy toàn bộ những gì còn lại.”
Đây là chiến trường nên không cho phép có lòng từ bi. Từ bi
trên chiến trường chính là tàn nhẫn với bản thân mình, đó là đạo lý tất cả mọi
người đều hiểu. Không một ai dị nghị, khi kỵ binh cưỡi khoái mã mang giáp sắt
công phá xóm làng thì bộ lạc chỉ còn toàn những người Hung Nô già yếu không hề
có phản ứng. Rất nhanh, tất cả hóa thành biển máu. Một lúc lâu sau, đại quân lại
rời đi cũng nhanh như lúc đến, để lại sau lưng là một biển lửa hoang vắng và
thê lương. Chỉ qua sáu ngày ngắn ngủi, Hoắc Khứ Bệnh đã liên tục triệt phá năm
bộ lạc Hung Nô. Trước khi người Hung Nô kịp báo tin đến vương đình thì kỵ binh
Đại Hán đã vượt qua núi Yên Chi tiến thẳng vào nội địa Hung Nô.
“Khứ Bệnh, nếu chiến bại thì một vạn kỵ binh chúng ta sẽ phải
vùi thây ở thảo nguyên, không thể trở về quê hương”, Tiết Thực cưỡi trên tuấn
mã lo lắng nói.
“Sợ?” Tiết Thực bị hắn kích liền bộc lộ hào khí, “Lão tử sống
đến hôm nay vẫn còn chưa biết chữ sợ viết như thế nào!”
Bọn họ phi ngựa ngược chiều gió. Gió thảo nguyên thổi vù vù
tạt vào mặt, lúc đầu họ còn cảm thấy đau rát nhưng dần dần không cảm giác gì nữa.
Mỗi người chỉ mang theo khẩu phần lương thực và nước uống đủ cho một ngày, đến
nơi nào có nước thì nghỉ ngơi một lát, trên đường hễ gặp bộ lạc Hung Nô nào
cũng không hề buông tha. Thảo nguyên bốn bề đều giống nhau, dần dà không còn
phân biệt được phương hướng.
“Hay bị lạc đường?” Ngay cả Triệu Phá Lỗ cũng lo lắng, trên
vùng thảo nguyên vốn xa lạ đối với người Hán này thì rõ ràng quân Hung Nô chiếm
ưu thế hơn hẳn. Nổi tiếng như Phi tướng quân Lý Quảng còn hết lần này đến lần
khác bị lạc đường, nếu không có Trường Tín hầu Liễu Duệ thì e rằng cho đến hôm
nay vẫn còn đau khổ vật lộn trên con đường phong hầu của mình.
“Không đâu.” Bọn họ đang nằm ngủ dưới bầu trời sao của vùng
thảo nguyên. Tiết Thực chỉ vào ngôi sao Bắc Cực sáng rõ trên bầu trời, “Trường
Tín hầu từng nói rằng cho dù con người có ở đâu thì vì sao kia vẫn vĩnh viễn chỉ
về phương bắc, chỉ cần có nó ở trên trời thì chúng ta sẽ không bao giờ bị lạc
đường.”
“Trường Tín hầu đúng là thông tuệ.” Triệu Tín mỉm cười, “Đôi
khi ngay cả ta là người Hung Nô cũng không bằng, bản thân ta cũng chưa từng đặt
chân tới vùng đất này.”
“Năm đó, nếu không có Trương Tín hầu thì e rằng ta đã đầu
hàng Hung Nô từ lâu rồi”, hắn nói đầy cảm khái.[2]
[2] Triệu Tín vốn là một tiểu vương Hung Nô, nhưng đã hàng
Hán, quay lại đánh Hung Nô.
“Từ núi Yên Chi đi theo hướng tây bắc là đến núi Cao Lan”,
Triệu Tín nghiêm nghị nói, “Người xưa tương truyền núi Cao Lan là thánh địa của
người Hung Nô, ở đó tất sẽ gặp đại quân của bọn chúng.”
“Tốt!” Hoắc Khứ Bệnh hào sảng ghé miệng vào bình tu nước ừng
ực rồi quăng chiếc bình ra xa, buông gọn, “Ngày mai tiếp tục hành quân!”
Mặc dù thiết kỵ của quân Hán hành quân nhanh như chớp, trên
đường đi gặp bất kỳ người Hung Nô nào đều đuổi giết, tuyệt không để một ai sống
sót, nhưng bọn họ đi cả nghìn dặm trên thảo nguyên nên khi tới được dưới chân
núi Cao Lan thì đối phương cũng đã biết là có một đạo thiết kỵ binh như vậy. Dưới
chân núi Cao Lan, Hoắc Khứ Bệnh lần đầu tiên kể từ khi rong ruổi trên thảo
nguyên đối mặt với một đạo quân Hung Nô hùng mạnh gồm bốn vạn người do những
thanh niên trai tráng của hai bộ lạc Hồn Tà, Hưu Đồ tạo thành.
Một vạn kỵ binh giáp chiến với bốn vạn người Hung Nô nhưng
không một ai cảm thấy sợ hãi. Những ngày hành quân cấp tốc và tiễu trừ các bộ lạc
Hung Nô vừa qua đã làm bùng phát tính hiếu chiến ẩn sâu trong lòng mọi người.
Chính những người Hung Nô này đã xâm phạm đất nước họ, hãm hiếp đàn bà con gái
trên quê hương họ, giết người nhà của họ. Cuối cùng, cũng có một ngày người Hán
tấn công tới tận sào huyệt, tựa như một lưỡi đao sắc bén đâm vào bụng bọn
chúng, vậy thì còn có lý do gì để không hăng hái đánh một trận thật sự. Đó cũng
chính là mục đích khiến bọn họ hành quân ngàn dặm xa nhà tới đây.
Vào lúc ý niệm “không thành công thì cũng thành nhân” hiện
lên trong đầu mỗi binh lính quân Hán thì trận ác chiến bắt đầu nổ ra. Người
Hung Nô kinh ngạc trước sức chiến đấu ngoan cường mãnh liệt của quân Hán. Đám
người Hán vẫn luôn yếu ớt, chỉ cần dí ngón ty cũng có thể xô ngã trong ký ức đột
nhiên mạnh mẽ hung hãn hơn cả đàn sói của Trường Sinh Thiên, khi vó ngựa giày
xéo lên tim người Hung Nô thì họ không thể không thừa nhận đây là một đội ngũ
hùng mạnh hơn hẳn so với tưởng tượng của mình. Từ lúc giáp chiến đến lúc tạm ngừng,
hai bên vẫn duy trì thế giằng co.
Hoắc Khứ Bệnh hạ lệnh cho mọi người nghỉ ngơi dưới chân núi
Cao Lan. Hắn đứng một mình trong đêm nhìn lên ngọn núi sừng sững giữa bóng tối.
Công bằng mà nói thì ngọn núi Cao Lan này thật ra không hiểm trở bằng Hoa Sơn
mà hắn từng vượt qua. Hoắc Khứ Bệnh nhớ lại lời mẫu thân nói trước lúc ra đi. Hắn
là đứa con độc nhất của người, nếu không chiến thắng thì hắn sẽ không thể sống
sót trở về đoàn tụ, thế nên chỉ được phép thắng, không được thất bại.
Chiếc túi gấm mềm mại vẫn đeo trên ngực hắn trong suốt cuộc
hành trình dài dằng dặc từ Lũng Tây đến nay. Hắn không nhớ về những vui buồn
cùng ba cô em họ công chúa tôn quý mà chỉ nhớ tới cô bé không thích giết chóc
kia. Đáng tiếc rằng, hắn lại là kẻ trời sinh ra để giết chóc. Ngựa xéo Hung Nô
là giấc mộng của hắn. Giờ ước mơ đó sắp được thực hiện khiến hắn không thể ngủ
nổi. Hắn nghĩ tới rất nhiều chuyện. Ví như chuyện tranh đấu mãi mãi không ngừng
trong hậu cung ở thành Trường An và khuôn mặt phảng phất nét cười của Hoàng thượng.
Cữu cữu nói rằng hai cậu cháu nhờ may mắn gặp được một Hoàng thượng như vậy nên
mới có cơ hội cưỡi ngựa cầm binh bảo vệ biên cương. Nhưng cữu cữu đã bị liên lụy
vào cuộc chiến trong cung đình, đến nỗi phải sống những ngày buồn tẻ, không thể
dẫn đại quân tiến vào lãnh thổ của người Hung Nô lần nữa.
Hắn nhớ tới lễ thành thân của Vệ Trường công chúa hồi tháng
trước. Hắn cũng đã đến tuổi kết hôn, trước ngày xuất chinh, mẫu thân đã bắt đầu
lựa chọn tiểu thư thế gia quý tộc để hắn thành gia lập thất, nhưng giấc mộng của
hắn lại nằm ở vùng thảo nguyên này. Vì giấc mộng của mình, hắn chưa bao giờ chuẩn
bị sẵn sàng để trở về quê hương. Người như hắn thì làm sao có thể nắm tay một
người con gái, hứa hẹn dâng cho nàng cả cuộc đời?
“Khứ Bệnh”, Triệu Phá Lỗ gọi hắn với giọng trong trẻo quen
thuộc, “Nghỉ thôi. Hành quân liên tục như vậy cũng mệt mỏi lắm rồi. Nếu không đủ
tinh thần thì làm sao chém giết bọn Hung Nô được chứ?”
Hoắc Khứ Bệnh nhìn về hướng doanh trại của quân Hung Nô, đôi
mắt đen nhánh ánh lên vẻ kiên quyết, “Ta sợ rằng chỉ cần nghỉ một chút là mình
sẽ không còn tinh thần nữa.” Hắn mỉm cười đáp rồi phi thân lên ngựa, hô vang,
“Tất cả huynh đệ, chuẩn bị xuất kích.”
Trận đánh thứ hai do quân Hán phát động còn kịch liệt hơn cả
trận đánh đầu tiên. Người Hung Nô luôn miệng chửi rủa quân Hán xảo trá đã đánh
lén khi trời còn chưa sáng, nhưng dưới ánh đao loang loáng như tuyết thì mọi lời
oán trách đều trở nên vô nghĩa. Bộ mặt tàn khốc của chiến tranh đã hiện ra trước
hai dân tộc, trong số những người đã ngã xuống có kẻ địch, cũng có cả chiến hữu
của mình.
Hoắc Khứ Bệnh phất tay ra lệnh, một đội nỗ binh[3] tiến lên,
giương nỏ liên hoàn nhằm bắn quân Hung Nô. Trong bóng tối, quân Hung Nô cho đó
là cung tên nên không coi trọng. Tên bay vun vút như châu chấu, hàng loạt quân
Hung Nô nối nhau lớp lớp ngã gục. Thủ lĩnh quân Hung Nô hoảng sợ rút lui, Hoắc
Khứ Bệnh dò theo đấu chân, thúc ngựa đuổi theo. Ngựa phi như bay trên thảo
nguyên, tiếng vó dồn dập kích động tâm hồn mỗi người. Tướng bại trận trước hết
là thua ở khí thế, chỉ lát sau đã bị Hoắc Khứ Bệnh đuổi kịp.
[3] Nỗ binh: Đội quân chuyên dùng nỏ.
Hoắc Khứ Bệnh đánh cho gã từ trên lưng ngựa ngã vật xuống đất,
lạnh lùng quát hỏi, “Ngươi cũng xứng làm người Hung Nô sao? Không phải người
Hung Nô coi việc chiến bại bỏ chạy là nhục nhã sao?”
Trận này tiêu diệt năm ngàn quân địch, bắt sống con trai của
Hồn Tà vương và chém chết một vương gia Hung Nô khác. Quân Hán mệt mỏi rã rời,
tựa sát vào nhau ngủ gà ngủ gật. Ánh dương dần tỏa rạng, soi tỏ vùng thảo nguyên
hỗn độn những đống thi thể. Hỗn Tà vương dẫn quân tới cứu con trai, hai bên đều
đã kiệt sức.
“Các huynh đệ”, Hoắc Khứ Bệnh tung người nhảy lên ngựa, trầm
giọng nói, “Đánh xong trận này, chúng ta về nhà.” Chúng ta sống trở về nhà, có
cận kề cái chết mới biết sống là chuyện tốt đẹp đến nhường nào.
Quân Hán anh dũng vùng lên, chiến đấu quyết tử, ánh mặt trời
ở cuối chân trời đỏ rực như máu người Hung Nô đã đổ xuống, tính mạng ở nơi này
không đáng giá một xu.
Cuối cùng quân Hán cũng thắng lợi, ba trận ác chiến tiêu diệt
gần chín nghìn quân địch. Từ nay, Hoắc Khứ Bệnh trở thành một truyền thuyết bất
bại trong quân đội Đại Hán, cùng với cữu cữu của mình là Trường Bình hầu Vệ
Thanh và Trường Tín hầu Liễu Duệ được xưng tụng là ba đại danh tướng tuyệt thế
triều Hán Vũ Đế, làm mờ nhạt danh vọng của những lão tướng như Trình Tri Tiết,
Lý Quảng…
Khi Hoắc Khứ Bệnh dẫn theo những kỵ binh còn sống trở về
lãnh thổ Đại Hán, quân Phiêu kỵ bộc phát hoan hô. Phía đông, Trường Tín hầu Liễu
Duệ cũng báo tin chiến thắng. Từ đầu đến cuối, triều Hán Vũ Đế là thời đại của
những anh hùng.
Rất nhiều năm sau, mọi người nhìn lại giai đoạn lịch sử này
đều cảm khái, tiếc không sinh ra sớm ba trăm năm để được ngắm cảnh huy hoàng cường
thịnh đó.
Ngày mồng năm tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, Liễu Duệ dẫn
chủ lực quân Hán gồm hai vạn kỵ binh tới hữu Bắc Bình. Không ai biết Trường Tín
hầu Liễu Duệ đã phân nhiệm vụ gì cho Trấn Viễn hầu Lý Quảng ở trong trướng
nhưng ngày hôm sau Lý Quảng đã dẫn một vạn kỵ binh của hữu Bắc Bình và của các
địa phương xung quanh điều tới biến mất không còn tung tích. Trường Tín hầu Liễu
Duệ chỉ huy trung quân từ từ tiến về cánh trái của Hung Nô, nơi nào đi qua cũng
thẳng tay tiêu diệt các bộ lạc của đối phương.
Ngày mười ba tháng Tư, đại quân gặp quân tiên phong của Hung
Nô do Tả Hiền vương Mãng Thái chỉ huy ở Ô Lan Ba Thác, phân cách bởi bờ sông
Nhược Lạc. Mãng Thái cưỡi tuấn mã Hung Nô nhìn sang bờ sông bên kia, thấy trong
trướng quân Hán dựng lá cờ thêu chữ Liễu.
“Không được khinh thường Liễu Duệ.” Thiền vu Y Trĩ Tà của
Hung Nô đích thân cầm quân xuất chinh lần này đã từng dặn hắn ta trước khi tới
đây: “Trong chiến dịch Mạc Nam năm xưa, hắn và bộ hạ đã tự tay bắt được Hữu Hiền
vương Lạc Cổ Tư ở Hà Nam. Trung Hành Thuyết từng giao chiến với hắn cũng phải
khen ngợi hắn là một nhân tài.” Lúc ấy, hắn ta bĩu môi cho rằng Liễu Duệ chẳng
qua lại là một tướng lĩnh bám váy nữ nhân có quan hệ với hoàng đế triều Hán giống
như Vệ Thanh trước đây. Hắn ta không thể tin hoàng đế triều Hán ngồi ở thành
Trường An phồn hoa xa xôi kia lại may mắn đến như vậy, người thân của những người
phụ nữ trong tay y đều là cao thủ hành quân đánh trận. Đứa con út Ngạc La Đa mà
hắn ta thương yêu nhất đã chết chính ở trong tay Liễu Duệ năm đó nên hắn ta nhớ
kỹ mối thù này suốt hai năm qua. Hắn ta cũng không tin rằng nếu chém giết công
bằng trên chiến trường thì người Hung Nô có Trường Sinh Thiên che chở lại thua
người Hán yếu ớt chỉ ăn lúa gạo lớn lên.
Ngày mười bốn tháng Tư, hai quân hội chiến.
Quân Hán cưỡi tuấn mã vượt sông, bọt nước bắn tung tóe lên
người nhau, trong nháy mắt đã chảy xuôi xuống theo áo giáp. Mãng Thái dũng mãnh
hơn người, quát lớn một tiếng rồi đứng ở bờ sông hò hét, “Các dũng sĩ Hung Nô,
không cho đám người Hán man rợ này bước qua bờ sông Nhược Thủy của chúng ta nửa
bước.” Hắn ta quát xong liền vung đao chém vào đùi ngựa một quân Hán khiến con
ngựa hoảng sợ chồm vó trước lên. Người lính Hán kia không thể khống chế được
dây cương ngã nhào xuống, trong giây lát bị người phía sau giẫm lên. Cũng không
ai rảnh rỗi để ý, cho dù chỉ một khắc.
Từ trong trung quân, quân Hán tách ra một tuấn mã trắng tuyền,
tướng quân trên ngựa đội mũ giáp màu xám, oai phong lẫm liệt. Người này hừ lạnh
một tiếng, đón lấy cây cung cứng từ hộ vệ phía sau, giương cung lắp tên nhắm
chuẩn Mãng Thái bắn tới. Mũi tên rít lên xé gió bắn trúng tay phải của Mãng
Thái, đầu mũi tên cắm vào tận xương. Mãng Thái đau điếng, suýt nữa đánh rơi cả
thanh loan đao đang cầm trên tay, vừa ngẩng đầu thì liền biến sắc, giọng run
lên, “Lý Quảng?”
Phi tướng quân Lý Quảng! Viên tướng quân kia chính là Lý Quảng
được truyền tụng qua hai câu thơ:
“Ví thử Long Thành Phi tướng trấn
Ngựa Hồ đâu dám vượt Âm Sơn.”
Quân Hán tức thì hoan hô như sấm động, sĩ khí dâng cao. Lý
Quảng nhìn chăm chú vùng chiến trường thuộc về mình, chờ đợi bao lâu mới mở ra
được cơ hội trời cho này? Trong khoảnh khắc quyết định sinh tử trên chiến trường,
dù biết không thể nhưng ông vẫn bất giác nhớ lại lời mà Trường Tín hầu Liễu Duệ
đã từng nói khi hai người bí mật họp bàn trong trướng.
“‘Phùng Đường chóng già, Lý Quảng khó phong’, Lý Quảng, ông
có biết vì sao mình lại khó được phong hầu như thế hay không? Thân là thống
soái ba quân nhưng lại thích cái dũng của kẻ thất phu. Cho dù là dẫn trăm người
truy kích Hung Nô hay là tìm đường sống trong cõi chết, chẳng qua cũng chỉ là mạo
hiểm. Một người chỉ biết mình thì lấy đâu ra quân sĩ đồng lòng?”
Lý Quảng nín lặng. Ông có tính cách tự phụ, trước giờ vốn
chưa từng nghe ai. Nhưng người đối diện chính là Trường Tín hầu Liễu Duệ, nếu
như không có Liễu Duệ chỉ điểm trong cuộc chiến Mạc Nam vào năm Nguyên Sóc thứ
sáu thì ông cũng không thể nào được phong danh hiệu Trấn Viễn hầu. Nửa đời ông
chinh chiến trên lưng ngựa, cuối cùng được phong hầu lại là nhờ một người mới
chỉ điểm. Nhưng chính vì ông là quân nhân, hiểu rõ đạo lý quân tử không được phụ
dù chỉ một lần ân huệ, nên ngay cả tộc đệ Lý Thái trở thành thừa tướng nhờ vào
hôn lễ với Vệ Trường công chúa mà mơ hồ ủng hộ Vệ gia thì ông vẫn nhớ tới ân
tình của Liễu Duệ nên không chịu hùa vào.
“Ta giao hai vạn kỵ quân cho ông. Để xem khi Lý Quảng có chiến
trường thì sẽ lập nên chiến tích huy hoàng thế nào?”
Lý Quảng chia quân Hán thành bốn phần, luân phiên vượt sông
phát động tiến công nhưng chỉ giao chiến một lát thì lui về. Lúc mới bắt đầu,
người Hung Nô tin là thật, vất vả ứng phó, rốt cuộc sau mấy lần bị lừa mới tỉnh
ra. Mãng Thái ở bờ bên kia giậm chân mắng chửi nhưng toàn tiếng Hung Nô nên
quân Hán không hiểu, cũng không thèm để ý. Đến lúc tối mịt,người Hung Nô đã mỏi
mệt thì Lý Quảng hạ lệnh toàn lực tiến công. Khi người Hung Nô vừa có phản ứng
thì tốp kỵ binh đi đầu của quân Hán đã tới được giữa dòng Nhược Thủy.
Đó là cuộc chiến cực kỳ gian khổ, quân Hán lớp trước ngã xuống
lập tức có lớp sau tiến lên, không sợ hy sinh, đạp trên thi thể đồng đội để vượt
qua. Thế công mãnh liệt của thiết kỵ Đại Hán đã chia cắt đội hình của người
Hung Nô, tiếp đó là cận chiến khốc liệt. Quân Hán vượt trội ở sĩ khí hung mãnh,
lại có Phi tướng quân danh chấn Hồ Hán chỉ huy, một mình một ngựa dẫn đầu chém
giết rất nhiều binh lính Hung Nô. Máu tươi đổ xuống dòng Nhược Thủy rồi chầm chậm
xuôi về hạ du, càng lúc càng nhạt. Người Hung Nô tử thương nặng nề, Mãng Thái dẫn
tàn quân liều chết chạy trốn về hướng tây bắc.
“Thôi được rồi.” Lý Quảng ngẩng đầu nhìn Mãng Thái đang bỏ
chạy, cười hào sảng, “Hắn có thể chạy thoát trận này nhưng phía trước còn có
thiết kỵ của Trường Tín hầu chờ hắn.”
Nếu chỉ huy trung quân là Phi tướng quân Lý Quảng, vậy thì
Trường Tín hầu Liễu Duệ đi đâu? Quân Hán quay mặt nhìn nhau, không một ai biết
đáp án.
Lúc này Trường Tín hầu Liễu Duệ đang dẫn một vạn kỵ binh dưới
trướng Lý Quảng, trong đó có cả kỵ binh Khâu Trạch do chính tay hắn đào tạo
nên, nổi danh khắp Đại Hán, được xưng Đại Hán song hùng cùng với Phiêu kỵ quân
của Hoắc Khứ Bệnh, từ trước đến giờ vẫn chỉ hành quân trong nước, chưa bao giờ
đặt chân lên vùng thảo nguyên Mạc Bắc.
Vừa tới thảo nguyên một ngày, Liễu Duệ ngồi trên lưng ngựa
ngoảnh lại nhìn mặt trời vừa nhú lên ở phía sau. Người đời đều nói Hoắc Khứ Bệnh
dũng cảm mạo hiểm nhưng không biết rằng lá gan của Liễu Duệ còn lớn hơn cả Hoắc
Khứ Bệnh.
Liễu Duệ dũng cảm nhưng không mạo hiểm, tất cả mưu lược của
hắn đều dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về giai đoạn lịch sử này. Nếu như không
có chuyện Triệu Tín quy hàng người Hồ thì sau cuộc chiến Mạc Nam, Y Trĩ Tà vẫn
nghe theo đề nghị của Trung Hành Thuyết dời vương đình về Mạc Bắc. Vì thế lần
này Y Trĩ Tà có thể yên tâm dẫn quân tiến về phía trước, không lo vương đình bị
tập kích. Thế nhưng giới hạn xa nhất của việc luồn sâu tập kích là do con người
lập nên, chỉ sợ chính bản thân người Hung Nô cũng không thông thạo thảo nguyên
bằng Liễu Duệ có ký ức thời hiện đại.
Liễu Duệ luồn sâu tập kích còn thông thạo hơn cả Hoắc Khứ Bệnh
về mặt che giấu dấu vết. Vì thế khi hắn lội qua sông Khắc Lỗ Luân, vượt qua núi
Sắc Lặc tiến sát tới vương đình Hung Nô thì vương đình không hề hay biết. Cho
dù Y Trĩ Tà có chủ ý phân bổ quân lực để đối phó với cánh quân Hán bố trí không
biết để làm gì này thì tuyệt đối cũng không ngờ rằng mục đích của quân Hán là
nhằm vào sào huyệt của mình.
“Truyền lệnh xuống”, Liễu Duệ không sợ hãi bất kỳ nguy hiểm
nào nên không thèm che đậy dấu vết, ra lệnh, “Hễ là người Hung Nô thì đều giết
sạch.” Hung Nô là một dân tộc dũng mãnh như cỏ dại, lửa thiêu không hết sẽ lại
sinh sôi khi gió xuân về. Lúc này hắn đành phải quên đi những gì được giáo dục
từ nhỏ mà nhẫn tâm ra quyết định như vậy.
“Nhớ kỹ!” Hắn nghiêm nghị hạ lệnh, “Lưu ý có tin tức của
công chúa trưởng Nam Cung thì không được làm tổn hại.”