“Ứng cử viên đảng Dân chủ hứa hẹn sẽ để chính phủ liên bang thực hiện chính sách mới, giúp mọi người thoát khỏi khủng hoảng kinh tế; Đảng Cộng hòa vẫn khăng khăng giữ vững chính sách kinh tế “tự do phóng nhiệm”… Rốt cuộc nỗ lực của đảng Dân chủ trong các hoạt động chính phủ sẽ phá hủy nước Mỹ, hay là đảng Cộng hòa quá bảo thủ? Rốt cuộc ai sẽ đạt được đa số phiếu bầu của 48 tiểu bang?”
Hoài Chân đọc báo xong, cau mày suy nghĩ một lúc, phát hiện quả nhiên mình đã nhớ nhầm lịch sử rồi, ngày 7 tháng 3 mới bắt đầu chiến dịch tranh cử tổng thống, còn phong trào Đại Bàng Xanh diễn ra sau khi Roosevelt nhậm chức, tức tháng 3 năm 1933.
Cô đã gọi điện báo bình an từ sớm, đến khi gọi điện về lại thành phố San Francisco lần nữa, Vân Hà buồn bực hỏi cô, đến Hương Cảng rồi, cảm thấy đồng tiền Hương Cảng không đáng giá đúng không?
Hoài Chân hỏi cô ấy, hôm nay có tin gì về chuyện thuyên chuyển đến lãnh sự quán ở Hương Cảng không?
Vân Hà nói không có.
Hoài Chân lại hỏi, Wildman là người của đảng Dân chủ đúng không?
Vân Hà đáp phải.
Hoài Chân lại vui vẻ. Dù anh không đến Hương Cảng, nhưng đi theo đúng người là tốt rồi.
Cô gọi cuộc điện thoại này tại máy điện thoại bỏ tiền ở Cục báo chí thương mại Trung tâm, sáu giờ sáng, cô đi chuyến xe buýt đầu tiên đến trường ghi danh, vừa kết thúc đã lập tức xuống núi mua tờ báo ngày hôm nay.
Cuộc gọi đó với thêm hai cuốn sách lịch sử ở Viễn Đông, tốn cả thảy một đồng Hương Cảng, vốn cô không biết được đồng Hương Cảng do người Anh phát hành, đưa ra năm đồng, ông chủ tự động thối lại cô bốn đồng, còn gói lại đặt vào túi giấy cho cô.
Ôm túi giấy ở Cục báo chí thương mại ra về, đến dưới núi ở đường Pok Fu Lam đi xe buýt, cô ngồi ở vị trí gần cửa sổ, có một cô gái mặc sườn xám màu hồng phấn in hoa anh túc đến bắt chuyện, nói mình là người gốc Hương Cảng, tên là Aldrin Hoàng, là tân sinh viên của khoa nghệ thuật, cũng ở ký túc xá giáo hội, hy vọng có thể làm bạn với cô.
Hoài Chân ngửi thấy mùi trong chiếc túi giấy cô ấy cầm, hỏi, “Là gì vậy? Thơm quá.”
“Tiệm bách hóa Johnston cạnh Cục Báo chí thương mại đang giảm giá, ở đó gì cũng bán, vú giả, nước hoa, tất, đồ bơi, đều là hàng Mỹ. Ở đây cực kỳ ưa chuộng đồ Mỹ, nếu cậu có thiếu gì thì cũng có thể đến xem.”
“Lúc ở đó, mình có thấy cậu đọc báo ngoài cửa. Cậu đọc báo gì vậy?”
Rồi cô ấy dịch lại gần, nhìn tờ “Báo chiều Công thương Hương Cảng” trong tay Hoài Chân.
“Tin tức chính trị! Người Hoa kiều đều thế cả hả?”
“Tranh cử tổng thống là chuyện lớn.”
“Đến thống đốc Hương Cảng là ai mình còn không quan tâm.” Aldrin nói rồi lại hỏi cô, “Cũng đã chọn môn rồi, sao lại có nhiều sách vậy? Mình thấy tiết học ở trường Hoa kiều rất ít.”
“Ít hơn ba tiết tiếng Anh cơ bản so với học sinh bản xứ, nhưng tăng thêm giờ học tiếng Trung. Mình chọn thêm hai môn, tiết kiệm được khoản học phí 50 đô cho môn tự chọn ở đại học tư ở Mỹ.”
Aldrin rất khéo nói, kể cho cô hay những điều nên biết khi sống ở Hương Cảng, ví dụ như bánh mì ở Lane Crawford ăn ngon nhất; nhà hàng ở vịnh Repulse là nhà hàng đắt nhất Hương Cảng; ở nội thành chỉ có hai con phố buôn bán, một ở Trung tâm, một ở đường Nathan; chỉ có ba rạp chiếu phim là có máy lạnh; không được bàn đến “tư tưởng yêu nước”, nếu không sẽ bị người khác chê cười; còn nữa, mùa mưa cũng sắp tới rồi, nhớ khép kín cửa sổ, không thì liên tiếp mấy tháng trong phòng sẽ có mùi ẩm mốc.
Aldrin còn rủ cô đi dạo phố, nhưng từ khi Hoài Chân bắt đầu chương trình học thì hầu như không có thời gian rảnh rỗi, không đi dạo phố với Aldrin lần nào. Chủ nhật cũng không đến nhà giáo sư ở Cửu Long, vì bắt đầu từ thứ sáu trời đã đổ mưa rả rích suốt ngày đêm.
Chưa khai giảng, trong ký túc xá toàn là vợ của những nhà truyền giáo, chỉ có cô và Aldrin là con gái trẻ; một tuần sau đó, càng lúc càng có nhiều nữ sinh viên đại học chuyển đến ở. Aldrin dần dần thân thiết với các cô gái bản xứ, tạo thành mạng lưới nhỏ; Hoài Chân lại chỉ quen mỗi Aldrin, vì sáng nào cô cũng dậy sớm nhất, lúc đi xe buýt sáu giờ rưỡi đến thư viện thì mọi người trong ký túc xá vẫn chưa dậy; đến tối lại là người về muộn nhất, chỉ thỉnh thoảng đụng mặt một hai người mới.
Lúc đi ngang qua Trung tâm, cô thường đến Cục báo chí Thương mại mua một tờ báo Công thương buổi chiều đọc, những khi rảnh sẽ đi bộ trong vườn hoa Trung tâm, lãnh sự quán của Mỹ nằm ngay gần đó. Vân Hà vẫn không gọi điện đến. Cô cũng không gọi về nhà nữa, chỉ chờ cô ấy thấy tin tức rồi thông báo với mình sau. Ngày 7 tháng 3 đã trôi qua từ rất lâu, hy vọng như đồng hồ cát trên bàn, từ từ cạn dần.
Buổi chiều tan học sớm, cô cũng chẳng buồn tán gẫu cùng các cô gái mà về phòng nằm ngủ. Mặt trời trên biển hắt lên người cô cánh cửa kính không có rèm che. Cô tỉnh giấc, mở mắt ra, nhìn eo biển trắng và rư. Khi tôi thức dậy, tôi mở mắt ra và nhìn vào eo biển xanh thẳm nổi lên sắc trắng cùng rừng rậm ở ngoài khung cửa, hy vọng trong lòng lại dâng lên. Cô cảm thấy, phong cảnh như thế này, sao anh có thể bỏ qua?
Tuần thứ hai đến trên đảo, trừ mấy lần nói chuyện với Aldrin ra, thì bất kể là ở trường hay ký túc xá, Hoài Chân gần như không qua lại với một ai.
Trong ký túc xá được dạy dỗ như nhau, những cô gái Hương Cảng nhiệt tình nhanh chóng kết bạn, tuy coi Hoài Chân là bạn song vẫn cảm thấy cô “quá lạnh lùng” “đi một mình về một mình” và “không dễ chơi”. Cô không qua lại với những cô gái Hoa kiều vênh váo hống hách trong trường, cũng không đến những nơi người ta thường đến, đi sớm về muộn chỉ biết cắm đầu đọc sách, nhưng nói là mọt sách thì lại không phải.
Có người miệng lưỡi sắc bén, gọi đùa cô là chuối tiêu đông lạnh.
Aldrin nói, so với những cô Hoa kiều trong trường thì cô ấy không hề kiêu ngạo, tính tình cũng tốt hơn nhiều.
Người kia xấu hổ nói lại, có lẽ quốc ngữ của cô ấy không tốt.
Lại có người bảo, cô ấy biết nói tiếng Quảng.
Mọi người tổng kết, có lẽ chỉ là tính nết kiêu ngạo thôi.
Nhưng ai ai cũng khen vẻ bề ngoài xinh đẹp thùy mị của cô, trong trẻo như giọt nước, trông rất giống người miền Nam, chỉ là da trắng hơn mà thôi.
Ở ký túc xá cũng có con gái Giang Bắc, Thượng Hải và Thiên Tân, cũng có những cô gái đến từ Malaysia, Ấn Độ và Indonesia.
Con gái nhiều, ở với nhau hơn một tuần, mọi người dần bắt đầu nhắc đến con trai ở trường, nhắc đến những nam sinh người Anh, Hoa kiều hoặc con lai đẹp mã, hoặc là con trai của tước sĩ nổi tiếng nào đó.
Một hôm nào đó, có người nhắc đến trên bàn ăn tối, “Ngày hôm ấy ở dưới núi, tôi thấy cháu của Hà tước sĩ và Lila Triệu hôn nhau sau bồn hoa đấy!”
Tất cả mọi người khoa trương hỏi ngược lại, “Thật hả?”
Mới đầu Hoài Chân còn không hiểu, hôn nhau thì có gì đáng ngạc nhiên?
Về sau mới biết, con gái Hương Cảng được dạy dỗ còn bảo thủ hơn cả người trong nước, không có kinh nghiệm yêu đương, thấy người khác hôn nhau thì không tránh khỏi khó chịu, dù sao phim trong nước cũng không có cảnh hôn, chỉ có Hollywood mới có.
Con gái Ấn Độ và Indonesia cũng phải gả cho người cha mẹ trưởng bối cho phép, hẹn hò với con trai là đại kỵ.
Trái lại hai cô gái phương Bắc rất thường xuyên đi ra ngoài chơi với bạn khác phái, đến khi về Lucy Chu còn mời bạn trai lên lầu ngồi, về sau nghe nói đó là vị hôn phu đã đính hôn từ lâu.
Trong ký túc xá cũng có mấy phu nhân luống tuổi, chồng ra ngoài truyền giáo, dẫn theo con gái đến ở ký túc xá. Bọn họ cũng là nhân vật có máu mặt, thường xuyên được tước sĩ Hương Cảng hoặc danh nhân nước Anh mời tới nhà làm khách, nên không thường xuyên qua lại với các cô gái trẻ.
Các cô gái người Hương Cảng được dạy dỗ rất nghiêm khắc, không thể đồng ý đi hẹn hò với con trai; cho nên thường chỉ có con gái Thượng Hải và Giang Bắc qua lại với con trai trong trường.
Trong phòng của các cô gái không có phòng tắm, muốn tắm phải đến nhà vệ sinh chung nằm ở tầng ba; Hoài Chân xấp xỉ tuổi tác với các cô ấy, thậm chí còn trẻ tuổi hơn, thế mà lại có phòng tắm riêng, thành ra có mấy cô gái kiêu găng không vui, hỏi các xơ và Lucy Chu, “Vì sao Hoài Chân có phòng tắm riêng?”
Các xơ nói, “Cô Quý có học bổng của Harvard. Đây là phòng Harvard thuê cho cô ấy.”
Các cô gái á khẩu không trả lời được.
Có người thấy cô đeo nhẫn, vậy là lén lút bình luận.
“Cô ấy đính hôn rồi sao? Đối tượng là ai?”
“Chắc chắn không phải người trong nước hay dân bản xứ rồi.”
“Nhưng tôi chưa thấy cô ấy từng qua lại với ai cả, thậm chí cũng không điện thoại.”
“Hay là không có cách liên lạc? Kiểu dáng chiếc nhẫn cũ như thế, có lẽ hôn phu rất lớn tuổi, không tiện gặp người có khi.” Bọn họ mơ hồ suy đoán Hoài Chân là nhân tình của người khác.
“Người Mỹ à?”
“Không biết. Nhưng cô ấy còn nhỏ như thế… Người Mỹ gốc Hoa cũng kết hôn sớm thế hả?”
“Nghe nói Mark ở văn phòng học vụ từng mời cô ấy đến Grepow ăn cơm.”
“Không phải đó là nhà hàng Mỹ sao?”
“Chuyện yêu đương của Hoa kiều trong trường quá lộn xộn, không ai hiểu rõ.”
Trong nước đang làm vận động mặc áo ngực, và dĩ nhiên Hương Cảng cũng không cam lòng yếu thế, vào một ngày mưa nào đó, ở bên ngoài cao ốc trung tâm xuất hiện trong bộ phim “Sắc Giới” do Vương Lực Hoành và Thang Duy đóng, có người phát bao cao su và thuốc nhét cho học sinh trẻ tuổi.
Một khi tan học, hễ có trai gái kết bạn đi cùng nhau là các nam sinh của hội học sinh sẽ ùa lên, cố nhét vào trong balo của bọn họ cho bằng được.
Hoài Chân cũng bị nhét một bao lúc đi học tiết ngữ văn, đến tối về lại phòng, mở ra ôn bài thì mới phát hiện.
Thuốc là thuốc nhét, bên trên viết hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Anh, tỷ lệ thành công được thống kê là 78, sử dụng thận trọng, sử dụng hợp lý, sử dụng lành mạnh.
Hoài Chân bật cười, tiện tay đặt nó vào trong ngăn kéo ở tủ đầu giường.
Cũng đã gần hai tuần tính từ ngày khai giảng, và cũng gần hai tuần Hương Cảng mưa dầm dề liên miên. Ký túc xá, Trung tâm, đại học Hương Cảng, chỉ một mình cô đi lại nơi những địa điểm đó, gần như không đến nơi nào khác. Cô không nghỉ một tiết nào, mọi câu hỏi do giáo sư đặt ra cũng có thể trả lời, thậm chí bao gồm môn lịch sử thế giới cận đại khô khan nhất.
Mãi mà thành phố San Francisco vẫn không có điện thoại tới, cũng không thấy động tĩnh gì ở lãnh sự quán trong vườn hoa Trung tâm. Mùa mưa chưa đi, nhưng đã có chuyện tìm đến.
Một buổi sớm ẩm ướt ngày 25 tháng 3, có cuộc điện thoại gọi đến ký túc xá, nói đội trưởng Beckham biết sáng nay cô Quý Hoài Chân không có lớp, có thể mời cô ấy đến đồn cảnh sát số 4 trên đường Des Voeux được không?
Các cô gái dừng động tác ăn sáng, đồng loạt nhìn sang cô.
Ơ, người Anh không phân rõ đúng sai đã bắt người ta vào đồn rồi sao?
Trong đồn cảnh sát cũ màu vàng nhạt kiểu kiến trúc Ba Rốc* trên đường Des Voeux, đã nhiều năm vách tường văn phòng không được quét vôi lại. Lúc Hoài Chân ngồi trong phòng chờ trên tầng hai, quạt máy chậm rãi quay tròn trên đỉnh đầu, thổi bụi và mảng sơn bong tróc trên trần rơi xuống, vậy mà không ai trong đồn cảnh sát cảm thấy khó chịu, nhân viên mặc áo sơ mi Trung Quốc thì đánh chữ bằng chiếc mát cũ nát, người Anh mặc cảnh phục lại mời cô đi vào căn phòng tận cùng bên trong hàng rào, nhìn thấy bụi rơi trên tóc cô, lại còn cười ái ngại “Ồ, xin lỗi cô!”
(*Kiến trúc Baroque (Ba Rốc) là một thuật ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kỳ Baroque, Ý bắt đầu vào cuối thế kỷ 16.)
Trong phòng có viên cảnh sát trẻ tuổi tóc màu vàng nhạt, anh ta đưa cho Hoài Chân chai nước suối Aquafina, ôn tồn bảo, “Đừng lo, chỉ là chuyện nhỏ thôi, câu hỏi rất đơn giản.”
Tuy lời nói thế, nhưng suốt quá trình nói chuyện lại rất rườm rà, một vài câu hỏi được lặp đi lặp lại ba bốn lần, gần như mất hết thời gian một buổi sáng.
“Sau khi đến Hương Cảng có từng nhận thư không?”
“Không có, chỉ có điện thoại.”
“Gọi đi đâu?”
“Trong nhà tôi, ở phố người Hoa thành phố San Francisco.”
“Có thông tin gì khác ở Mỹ không?”
“Không có.”
“Vì sao lại vào Hương Cảng vào ngày 7 tháng 3?”
“Vì tiến sĩ Hằng Mộ Nghĩa yêu cầu.”
“Nhưng ngày 15 tháng 3 mới là ngày khai giảng.”
“Đúng, nhưng phải hoàn tất thủ tục đăng ký chương trình học trước ngày 10 tháng 3.”
“Được, tôi biết rồi, những chuyện này tôi đã xác nhận với nhà trường.”
Hoài Chân không hiểu nổi, vì sao đã xác nhận rồi mà còn gọi cô tới?
Beckham truy hỏi, “Còn một một câu hỏi nữa. Cô đã kết hôn chưa?”
Cô gật đầu, nói, “Một phần.”
“Là sao?”
Hoài Chân giải thích đơn giản về luật kết hôn chủng tộc ở Mỹ.
Mọi câu hỏi đều đã được hỏi, cuối cùng Beckham nói, “Xin lỗi vì đã gọi cô tới đây, chúng tôi nhận được hai bản hồ sơ cá nhân của cô, tình trạng hôn nhân trên đó không khớp nhau.”
Hoài Chân hỏi, “Các anh đang nghi ngờ tôi là gián điệp sao?”
Đội trưởng cười bảo, “Chuyện này cũng làm khổ chúng tôi lắm, cô biết đấy, môi trường tình báo ở Hương Cảng quá đặc biệt.”
“Chắc hẳn không có vấn đề gì lớn nữa. Nếu như có, chúng tôi sẽ gọi điện đến ký túc xá.”
Rời khỏi biệt thự, Hoài Chân ngồi xe buýt số 4 quay về, lập tức gọi điện thoại đến thành phố San Francisco, hỏi Vân Hà có phải trên báo có thông tin lãnh sự mới đến Hương Cảng không.
Mười phút sau Vân Hà gọi lại, “Không có.”
Hoài Chân lại hỏi, “Trước đó thì sao? Từ ngày 14 tháng 2 em rời khỏi thành phố.”
Vân Hà trả lời chắc nịch, “Ngày nào báo đến chị và Hayakawa cũng đọc kỹ một lượt.”
Hoài Chân xin lỗi cô ấy, ủ rũ kể với cô ấy những chuyện bị hỏi ở đồn cảnh sát.
Vân Hà cũng không hiểu, “Có nhiều người ra vào Hương Cảng như vậy, sai số tài liệu là rất lớn, vì sao lại nhắm vào em?”
Hoài Chân nói, “Em cũng nghĩ vậy, có lẽ không phải bọn họ nhắm vào em, mà là tài liệu liên quan đến người có thân phận nhạy cảm quan trọng hơn.”
Vân Hà nói, “Nhưng ngoài tài liệu ở bang Washington, thì có chỗ nào biểu hiện em đã kết hôn đâu?”
Hoài Chân nghĩ đến đây lại muốn khóc, nói, “Có lẽ thông tin ở lãnh sự quán bên này nhanh hơn tin tức đăng báo, chắc vài hôm nữa có thể có tin tức bọn họ lên đường.”
“Từ từ đợi nào, đừng cuống.”
Đồn cảnh sát cũng gọi điện đến văn phòng của giáo sư Hằng Mộ Nghĩa để hỏi thêm về chuyện của Hoài Chân, làm tất cả mọi người đều biết cô bị người Anh bắt đến đồn cảnh sát thẩm vấn. Vì chuyện này, giáo sư còn gọi cô đến phòng giáo vụ nghiêm khắc phê bình, nói cô không chịu hòa đồng, không qua lại với bạn học, cũng không tham dự khiêu vũ của trường, không giống sinh viên hoạt bát sáng sủa mười bảy mười tám tuổi, hèn gì bị cảnh sát gọi đi thẩm vấn.
Sáng thứ sáu cuối tuần, phu nhân giáo sư sang Hà Nội tránh mùa mưa ở Hương Cảng đã về, cũng dẫn theo cô con gái lớn từ Hà Nội về. Bà gọi điện đến ký túc xá, mời Hoài Chân tan học thì đến căn hộ khách sạn Peninsula uống trà, Hoài Chân lập tức đồng ý.
Trước khi cúp máy, giáo sư còn nói với cô, “Một ngày trước thầy đến nhà hàng Grepow với Mark, nghe bạn trong nhà hàng nói, lãnh sự và phó lãnh sự tại lãnh sự quán Mỹ đóng ở Hương Cảng có thay đổi. Em có biết không?”
Hoài Chân nói, “Chưa thấy báo chí Mỹ đăng tin ạ.” Lại hỏi, “Tên của lãnh sự mới là gì ạ?”
Giáo sư nói, “Tuần sau khắc biết.”
Hoài Chân suy nghĩ, đột nhiên hỏi giáo sư, “Từ bờ Đông đi tàu thủy đến Hương Cảng thì mất bao lâu ạ?”
Giáo sư nói, “Qua biển Đỏ thì khoảng ba mươi tư ba mươi lăm ngày, còn nếu đi vòng qua mũi Hảo Vọng thì có lẽ sẽ lâu hơn, chừng sáu tuần.”
Nếu Ceasar lên đường từ Washington mất sáu tuần, vậy thì nhất định phải rời bến trước 14 tháng 2, thậm chí còn sớm hơn cả cô. Vậy vì sao trước khi cô đi, trên báo cô đặt gửi tới phố Lombard không có tin tức liên quan đến anh?
Sau phiên tranh cử tổng thống vào ngày 7 tháng 3, vẫn không có thông tin gì về anh, cô cũng từng chán nản ủ rũ, cho rằng anh không hiểu được lời của mình, hoặc là không tha thứ cho mình. Nhưng nếu lúc đó con tàu của anh đang chạy trong sóng gió ở biển Đỏ thì sao? Thậm chí không cần chờ đến ngày 7 tháng 3, anh cũng đã đến Hương Cảng tìm cô…
Nếu như thế, thuyền của anh hẳn đã, hoặc là sắp cập bến Hương Cảng.
Cô không gọi điện cho Vân Hà để xác nhận tờ báo trước ngày lễ tình nhân nữa. Trong vòng một tuần, chắc chắn mọi chuyện sẽ có câu trả lời cuối cùng.
Sau cuộc gọi này, thời tiết Hương Cảng đột nhiên thay đổi – cũng giống như tâm trạng của Hoài Chân vậy. Sau hai tuần âm u, mặt trời rực rỡ soi sáng muôn nơi, đột nhiên nhìn núi cũng là núi, nhìn biển cũng là biển, mọi phong cảnh nhiệt đới đều đã có đường ranh rõ ràng, không còn là những hình bóng mờ mờ nữa.
Vì thứ sáu học xong phải đi thuyền đến Cửu Long, nên từ buổi trưa, Hoài Chân ghé ký túc xá thay bộ Sarong cô từng mua ở trên phố Trung tâm. Vùng nhiệt đới có nhiều đặc quyền hơn thành phố San Francisco, hơn một năm qua, lần đầu tiên cô có thể mặc váy hở nửa chân nửa tay. Sarong có màu xanh tím, bên trên in hoa văn bươm bướm màu xanh nhạt. Tóc tết thành bím đuôi sam, chân đi đôi giày sandal có quai đen.
Cô biết hôm nay trông mình rất đẹp. Lúc học môn toán buổi trưa, hầu hết các nam sinh trong lớp đều liên tục ngoái đầu nhìn cô, thậm chí bao gồm cả mấy người cháu của tước sĩ nào đó mà các cô gái trong ký túc xá hay bàn luận. Vừa tan học, bọn họ đã công khai đuổi theo xuống núi, chặn cô ở sườn núi. Hỏi cô cuối tuần có thời gian rảnh đến Shek O uống nước giải khát không, sau đó tìm một rạp chiếu phim có máy lạnh cùng xem phim.
Từ đại học Hương Cảng có con đường quanh co núp dưới bóng cây dẫn xuống núi, khuất sau rặng núi là kiến trúc gạch đá của trường đại học, đứng từ đằng xa, có thể nhìn thấy eo biển nhỏ hẹp màu xanh trong nắng hoàng hôn rực rỡ, cùng với những con thuyền ba lá màu xám trắng bập bềnh bên trong.
Trước mặt là chàng trai trẻ mười tám mười chín tuổi sống trên vùng thuộc địa, cho dù đang đứng dưới bóng mặt trời, thì giữa hai hàng lông mày vẫn có phần tái nhợt phiền muộn không cách nào xóa tan, bất giác làm cô nhớ đến vẻ mặt quen thuộc của Ceasar. Một thoáng thất thần, sau đó cô bật cười, sải bước đi lướt qua anh ta, đuổi theo chuyến xe buýt đi đến bến thuyền.
Nụ cười ấy như khích lệ chàng trai trẻ, đứng trên đường Pok Fu Lam đầy sinh viên vừa tan lớp, anh ta lớn tiếng hét lên bằng tiếng Anh, “Tối thứ bảy, mình sẽ lái xe đến ký túc xá chờ cậu ——”
Đương nhiên Hoài Chân không thể nghe được lời mời này, bởi vì cô đã nhảy lên xe buýt. Cô xuống xe tại bến tàu công cộng ở Tiêm Sa Chủy, mua một bó bách hợp màu hồng ngoài Lane Crawford rồi mới đi xe buýt đến đường Salisbury.
Nhà của giáo sư vừa tao nhã lại sạch sẽ, có lắp máy lạnh, nên dù ngồi trong phòng khách rọi nắng chiều cũng không thấy quá nóng. Mark cũng có mặt, anh ta đến trễ hơn Hoài Chân, vừa vào cửa đã cười lớn, nói anh ta thấy Hoài Chân bị một chàng trai nhiệt tình đuổi chạy mất dạng.
Hoài Chân bực bội, tôi bị đuổi chạy mất dạng bao giờ?
Phu nhân Hummel cũng khen Hoài Chân có làn da trắng mịn, mặc sarong rất đẹp, giống như yêu tinh màu tím vậy.
Tạm thời giáo sư bị mấy học sinh níu chân, nên bữa tối vốn hẹn vào sáu giờ lại bị trễ đến bảy giờ rưỡi. Phu nhân Hummel sợ khách chờ chán nên lấy bia trong tủ lạnh ra, lại bảo Mai và chị gái Katherine xuống lầu, cùng đàn mấy bài của Debussy cho khách. Cho đến khi giáo sư về đến nhà ngồi vào bàn ăn tối, thì Hoài Chân đã uống hết một ly bia, hai ly Coca gừng cùng gần nửa ly rượu Brandy.
Vợ chồng giáo sư cũng cười cô, “Ở Hương Cảng không sợ kiểm tra ID, nên mới được đà uống nhiều thế đúng không?”
Bữa tối là măng tây và thịt cừu xào chung gà với nấm, tuy không hợp khẩu vị nhưng theo lễ phép, Hoài Chân vẫn ăn hết bát đầu tiên mà phu nhân giáo sư múc cho, xong lại nói mình uống rượu nên no bụng rồi.
Nhắc đến các bài kiểm tra vào hai tuần sau, giáo sư bóng gió nhắc nhở cô, “Không được ảnh hưởng đến kỳ thi.”
Dĩ nhiên Hoài Chân biết giáo sư nói đến chuyện gì, cô đáp nhất định sẽ thi được điểm A hết.
Giáo sư bổ sung, “Thi được A+, nếu tương lai không học tiến sĩ, thầy sẽ không viết thư giới thiệu học bổng cho em.”
Phu nhân giáo sư trách ông quá hà khắc, Hoài Chân chợt thấy căng thẳng, lại uống thêm nửa ly rượu Brandy để an ủi.
Bữa tối còn chưa kết thúc, vợ chồng giáo sư sợ cô lỡ chuyến xe buýt về, nên mới tám rưỡi đã bảo Mark đưa cô về.
Mark cũng đã uống nhiều, lại còn đang chuyện trò vui vẻ với giáo sư, Hoài Chân không muốn quấy rối nhã hứng của mọi người, bèn nói cô có hẹn với bạn nữ ở Lane Crawford, có thể cùng đi về, mọi người không cần ép Mark đang say phải lái xe dọc bờ điển đưa cô về.
Đường Salisbury sạch sẽ, khang trang và rộng rãi. Đi bộ qua đài phun nước và cây cọ trước khách sạn Peninsula, có thể nhìn thấy cảng Victoria trong nháy mắt.
Ban nãy cô chưa ăn no, nên chưa gì bụng đã réo ùng ục.
Bữa tối trong ký túc xá đã kết thúc, lo lắng ban đêm bị đường máu thấp ảnh hưởng đến chuyện học hành, nên trước khi đi thuyền về, cô vào Lane Crawford mua một túi bánh mì mềm. Lúc ôm túi giầy đợi thuyền ở Tiêm Sa Chủy, gió biển thổi qua, lập tức cô cảm thấy men rượu từ từ dâng lên, ngà ngà say, nhưng không đến nỗi say khướt. Song cũng đủ để cô đi nhầm chuyến – không cẩn thận đi thuyền đến bến Loan Tế.
Cô đến Hương Cảng đã gần hai mươi ngày, nhưng chưa từng đến Loan Tế lần nào. Vừa ra khỏi bến, cô vẫn chưa nhận ra có gì khác với bến tàu ở Trung tâm. Gần như mọi con phố thương mại ở bờ biển Hương Càng đều giống nhau – đường rộng rãi bằng phẳng được xây dọc ven biển. Có vài ba chiếc xe hơi kiểu mới chen chúc trên đường, ở hai bên con phố là những cửa hàng san sát nhau lại rất chỉnh tề, bên trong bán đủ loại hàng hóa đến từ khắp nơi trên thế giới; bậc thang nằm vắt ngang trên những con phố lớn bằng phẳng, phố buôn bán Trung tâm là một trong những nơi như thế.
Bên chân người già ở lề đường đặt hai thùng gỗ, không biết đang bán thứ gì, chỉ ngửi trong thùng có mùi thơm của đậu. Hoài Chân đi đến đưa tiền lẻ, ông lão không lên tiếng cũng không để ý đến cô, mà lập tức đeo găng tay vào, dùng tăm tre chọc vào trong túi giấy, thì ra là bánh đúc đậu đỏ mềm mềm thơm thơm.
Cô vừa ăn vừa đi lên cầu thang dọc theo con đường neon ven biển, cho đến khi nhìn thấy nhà hàng Hương Cảng, cô mới bất tri bất giác nhận ra mình đã đi bộ đến phố Gloucester. Khi thấy bậc thang trên đường Mã Thế, còn chưa đi đến thì chợt một cảnh sát người Anh nhảy ra, chặn cô lại, dùng tiếng Quảng kịch cỡm hét lớn, nói với cô trước mặt đang chặn đường lấp biển, cuối tháng tư mới mở, tạm thời đi không được, bảo cô quay lại.
Cô hỏi anh ta, “Về lại núi Nicholson thì đi chuyến xe nào?”
“Đến vườn hoa Trung tâm đi xe điện là được.”
“Đến vườn hoa Trung tâm đi thế nào?”
“Tới con đường bên ngoài chính là vườn hoa Trung tâm.”
Nghe giọng anh ta có vẻ bực tức, Hoài Chân không hỏi thêm nữa.
Nhìn thấy tiệm bánh Tây sáng rực ở bên đường đối diện, còn chưa kịp đi qua hỏi đường, đột nhiên ông chủ quát to ra ngoài cửa bằng tiếng Quảng, “Đồ con đĩ, đi chết đi!”
Một cô gái tóc xoăn vàng đứng dựa vào cửa bật cười đáp trả, “Ông nhìn lại mình đi, bộ dạng không khác gì yêu râu xanh, nhiều người chết đến thế sao không thấy ông chết đi, sống như ông không được chôn cất tử tế đâu.”
Cô ấy chửi xong, lập tức giẫm giày cao gót đi lướt qua cạnh Hoài Chân, mang theo mùi phấn rẻ tiền. Lập tức đối diện có hai cảnh sát cao lớn đi đến, một người đưa tay ôm eo cô gái đó, còn không quên ngoái đầu đá lông nheo với Hoài Chân.
Con phố Gloucester bẩn thỉu như không có điểm cuối, dưới ánh đèn nê ông lộn xộn, bên ngoài những nơi giải trí đều là người da trắng đang rất sung sướng, ai ai cũng cười phá lên, không một ai lạc đàn; mỗi một cô gái đều có người xúm lại vây quanh, bắp đùi bên dưới bộ sườn giám còn chói mắt hơn đôi bông tai rẻ tiền.
Loan Tế vừa lộn xộn lại dơ bẩn, đâu đâu cũng là cảnh vui vẻ cuồng hoan, quả đúng là danh bất hư truyền.
Từ đằng xa, trông thấy những tấm biển chỉ đường dưới cột đèn ngoài khách sạn Gloucester, Hoài Chân nghĩ bụng, nhờ người ta không bằng tự lực cánh sinh, nhanh chóng băng qua con phố lộn xộn, đứng dưới biển chỉ đường, xác nhận vườn hoa Trung tâm cô thường đến chỉ cách nơi này không quá nửa con phố, đi về phía tây mười phút là có thể đến.
Đột nhiên có người ở sau lưng vỗ vào vai cô.
Ngoái đầu lại, phát hiện đó là binh sĩ nước Anh mặc đồng phục cảnh sát kaki, đeo thắt lưng đen, huy hiệu trên vai chỉ có hai sọc đơn giản. Gã ta ngậm thuốc lá, cúi đầu đá lông nheo với cô.
Hoài Chân lùi về sau hai bước.
Binh sĩ nước Anh đã say bí tỉ, hỏi, “Mười đồng?”
Cô nói bằng tiếng Anh, “Anh à, anh nhầm rồi, tôi là sinh viên.”
Binh sĩ nước Anh lại tăng giá, “Chẳng lẽ là mười lăm đồng? Không thể nhiều hơn được nữa.”
Dọc phố có đám đàn bà con gái xem chuyện vui không chê náo nhiệt, còn cao giọng ồn ào, “Có mười lăm đồng, gái đứng đường cũng không bán, sao không đến quán mà làm?”
Hoài Chân xoay người bỏ đi.
Binh sĩ nước Anh đuổi theo, chặn đường cô lại.
Trên con đường bẩn thỉu, dù là ngày trời đẹp thì giày sandal vẫn mắc bùn, không đi nhanh được.
Người đi đường hờ hững đứng nhìn không thèm giúp, lòng Hoài Chân dần dần lạnh đi.
Cô dùng tiếng Anh nói lớn, “Tôi sẽ báo cảnh sát!”
Binh sĩ nước Anh cười nhạo cô, “Tôi là cảnh sát đây.”
Hoài Chân cảnh cáo, “Lãnh sự quán của Mỹ nằm gần đây đấy.”
Binh sĩ nước Anh như nghe thấy chuyện cười, “Hôm nay thuyền của lãnh sự quán Mỹ mới đến, tối nay còn đang chè chén ôm gái ở khách sạn Gloucester kia kìa.” Gã vừa nói vừa dùng tay kẹp thuốc ôm cô, tàn thuốc vô tình rơi xuống Sarong ở trên vai, một mùi khét bay lên.
Trong tiếng hét thảm thiết, bỗng sức nặng trên đầu vai biến mất.
Hoài Chân ngoái đầu lại, giật mình trước tiếng hét của cô gái đứng ven đường.
Chẳng biết từ lúc nào gã binh sĩ kia đã bị hai người da trắng cao to một trái một phải đè xuống đất, vừa xấu hổ lại vừa đau đớn, kích động kêu lên, “Sao bọn mày dám hả?”
Hai người da trắng dùng tiếng Anh Mỹ hỏi ngược lại, “Sao bọn mày dám hả?”
Binh sĩ nước Anh ngẩng đầu lên, nhìn thấy sọc đen trên ống quần đồng phục màu đen của người Mỹ, lập tức lớn tiếng nói, “Chỉ là hiểu lầm thôi!”
Người Mỹ lập tức buông gã ra, bảo gã cút đi.
Binh sĩ nước Anh sửa lại thắt lưng rồi chạy biến.
Hai người họ quay qua mỉm cười với Hoài Chân, “Không sao rồi cô gái à.”
Không đợi cô cám ơn, một người mặc đồng phục nước Mỹ màu đen đã ngoái đầu lại, hô to, “Cea ——”
Hoài Chân nhìn theo anh ta, trông thấy một bóng người cao ráo đứng dưới bảng chỉ đường Gloucester cạnh cột đèn, anh cũng mặc đồng phục màu đen, đeo thắt lưng đen.
Hai người Mỹ hỏi anh câu gì đó.
Anh trả lời gì đó.
Cả hai cùng quay đầu nhìn Hoài Chân, rồi đột nhiên cười phá lên, một người đấm vào vai anh.
Có người tò mò nhìn Hoài Chân, tò mò không biết vì sao cô gái bị binh sĩ nước Anh trêu chọc, bây giờ được người Mỹ cứu rồi mà vẫn không đi.
Người dưới cột đèn cũng lẳng lặng nhìn cô.
Mùa đông ở Washington có lạnh không?
Muốn quà gì cho sinh nhật?
Đến Hương Cảng từ bao giờ?
Trông tinh thần anh có vẻ rất tốt, mặc đồng phục đen rất có khí thế.
Loan Tế nóng hơn thành phố San Francisco.
Còn giận em không?
Em rất nhớ anh.
Đã diễn tập rất nhiều lần, nhưng đến khi gặp mặt nhau thật, cô lại phát hiện mình chẳng tìm nổi cơ hội thích hợp để mở lời.
Không có gì là đúng, không có gì là chính xác nhất.
Hai người Mỹ sau lưng nhìn đồng nghiệp và cô gái gốc châu Á mặc Sarong, vui vẻ khoác vai nhau quay về khách sạn Gloucester đèn đuốc sáng choang.
Mấy cô gái đứng đường chủ động dính lấy người Mỹ, lên tiếng kiếm khách, “Anh trai à, gái Trung Quốc ngon lắm, một xu nhìn một cái, hai xu sờ một cái, ba xu làm một lần.”
Người Mỹ hỏi, “Một xu ở đây là đồng bạc, đồng Mexico, đô la hay bảng Anh?”
Các cô gái bật cười, “Anh đưa đô la chúng em cũng nhận.”
Trên con phố Gloucester bẩn thỉu chằng chịt bảng tên chỉ đường gắn đèn nê ông, dưới cái nhìn soi mói của bao kẻ chè chén say sưa, anh cất bước tiến lại gần cô, thấp giọng hỏi, “Có tiền không?”
Cô đáp, “Có.”
“Có bao nhiêu?”
“Ba đồng.”
“Ngày mai có tiết không?”
“Thứ bảy cuối tuần trường được nghỉ.”
Anh ừ một tiếng, rồi đột nhiên bật cười, nói, “Quỷ nước ngoài…”
Có lẽ đã quá lâu không nói tiếng Quảng nên có phần không quen, nên anh mới nói được một từ thì dừng lại.
Còn Hoài Chân thì đã chếnh choáng say, lúc ý thức được anh định nói gì tiếp theo, con tim bất chợt đập nhanh khó hiểu.
Đúng như dự đoán, câu tiếp theo anh nói với cô như nửa trò đùa nửa nghiêm túc.
“Quỷ nước ngoài, một đồng nhìn một cái, hai đồng sờ một cái, ba đồng…”
Cũng giống như cái lần đầu tiên thốt ra những lời này, vẫn có thứ gì đó ngăn trở không để anh nói hết câu.