Lúc ba người trở về thôn, trời đã tối hẳn, thôn sáng rực đèn nhộn nhịp tưng bừng giữa màn đêm thăm thẳm.
Lúc này nếu có người nơi khác tới đây ắt sẽ thấy ngạc nhiên, bởi vì ở nơi khác, mặt trời xuống núi, nhà nhà đều đóng cửa nghỉ ngơi, ở một vài thành trấn lớn, thậm chí quan phủ còn cấm đi ra ngoài vào ban đêm, ai vi phạm sẽ bị phạt nặng.
Nhưng ba người Ký Linh, Đàm Vân Sơn và Phùng Bất Cơ biết dân chúng U Thôn đã chờ đêm này từ rất lâu.
Lúc đi ngang qua quán rượu buổi sáng nghỉ chân, tay bồi bàn liếc một cái là nhận ngay ra ba người họ liền chạy lại lôi kéo họ vào quán uống mấy chén, nói rằng hôm nay chủ quán vui, khui hơn chục vò rượu ngon mời bà con xóm giềng uống.
Phùng Bất Cơ hơi ngo ngoe muốn vào nhưng thấy tâm trạng Ký Linh u ám, Đàm Vân Sơn lại không mấy hứng thú với chuyện uống rượu đành phải nuốt chữ “được” vào bụng, đổi thành “không được”.
Song, tay bồi bàn rất hiểu lòng người, lập tức nhìn ngay ra thái độ “lưu luyến không thôi” của Phùng Bất Cơ, gã chạy về quán nhanh nhẹn rót một bát mang ra mời uống một bát nếm thử, uống xong rồi đi tiếp, không làm chậm hành trình.
Thực ra nếu họ đang vội đi thì sáng nay đã qua nơi này, nào có lý đến tối lại đi qua lần nữa, tay bồi bàn cũng thừa hiểu trong lòng nhưng mời mọc như vậy mới cho Phùng Bất Cơ một cái cớ cực kỳ hợp lý.
Ký Linh thấy Phùng Bất Cơ uống liền một hơi hết sạch bát rượu, uống xong chùi miệng xem chừng còn chưa đã, khuôn mặt trĩu nặng tâm sự cuối cùng cũng xuất hiện nụ cười.
Nàng cố ý hỏi bồi bàn: “Không phải bảo là khui rượu mời bà con xóm giềng uống sao, chúng tôi là người nơi khác, không phải “bà con xóm giềng”.”
Tay bồi bàn nhanh nhảu đáp: “Mọi người vừa tới, U Thôn liền có đêm. Tất nhiên mọi người không phải “bà con xóm giềng”, mọi người là “phúc tinh”, là “khách quý”!”
Ký Linh nhoẻn cười.
Đương nhiên tay bồi bàn không biết câu chuyện đằng sau chuyện “trời tối” này, càng không thể biết chuyện màn đêm trở về có liên quan với ba người họ nhưng chính bởi vì hoàn toàn không biết gì nên niềm vui lúc này mới thuần túy, mới mạnh mẽ, mới có thể vui tới mức chia sẻ niềm vui với cả những người qua đường.
Cuối cùng, Ký Linh vẫn hỏi xin bồi bàn cho một bát rượu. Nàng uống nên Đàm Vân Sơn cũng uống, chẳng qua bồi bàn rót cho nàng rượu hoa đào nhẹ ngọt thanh còn rót cho Đàm Vân Sơn rượu gạo êm cay nồng.
Lúc về tới Hắc phủ, Ký Linh thấy má mình hơi nóng nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo vì trong lòng nàng vẫn còn nhớ mình không đòi được một câu xin lỗi cho U Thôn.
Hắc phủ cũng treo đèn nhưng không náo nhiệt như ngoài phố, đám người hầu vẫn đi qua đi lại như ngày thường, thỉnh thoảng có nói chuyện nhưng chỉ thì thầm với nhau, đúng là cảnh tượng buổi đêm bình thường của phủ.
Sau khi biết tin họ về phủ, Hắc Kiệu bày tiệc rượu thết đãi mừng công cho họ.
Tuy Hắc Kiệu cũng không biết câu chuyện đằng sau như dân chúng U Thôn nhưng chuyện “yêu quái” bị ba “thầy” trong nhà mình diệt trừ, trong lòng ông ta biết chắc.
Ba người khéo léo từ chối bữa tiệc mừng công.
Bởi vì “công tích” này thực sự chẳng có gì thoải mái, sướng vui.
Tiếng gõ mõ cầm canh ngoài đường vọng vào trong Hắc phủ bề thế.
Canh hai.
Ký Linh không ngủ được, trèo lên một ngọn núi giả trong vườn ở khu phòng khách ngồi. Ngọn núi giả này cao chừng hai trượng, mặt đá phẳng lì, ngồi trên đỉnh núi có thể nhìn được toàn bộ khu vườn.
Đêm thu ở U Thôn tựa như đêm đông ở Hòe Thành, Ký Linh mặc áo khoác rồi vẫn còn thấy lạnh.
Nhưng lạnh một chút mới hay, lạnh một chút giúp người ta tỉnh táo.
Trời đêm quang đãng, sao trời lấp lánh, vầng trăng sáng treo giữa trời. Ký Linh ngẩng đầu lẳng lặng ngắm nhìn, trong lòng dâng lên nỗi buồn man mác.
“Nghĩ gì thế?”
Dưới núi giả có tiếng người thủng thẳng hỏi vọng lên.
Ký Linh cúi xuống tình cờ nhìn thẳng vào đôi mắt cười trong veo của Đàm Vân Sơn.
Ánh trăng làm mờ đi những đường nét góc cạnh trên khuôn mặt, tăng thêm đôi phần nhã nhặn và thêm rất nhiều phần dịu dàng.
“Sao huynh lại ra đây?” Ký Linh thắc mắc, “Cũng không ngủ được à?”
Đàm Vân Sơn thở dài: “Vốn định ngủ nhưng vừa tính đóng cửa sổ thì thấy cô nương ngồi ở đây nên tôi phải chạy vội lại xem thử xem có thể hưởng ké chút tinh hoa nhật nguyệt hay không.”
Ký Linh cười không vui: “Huynh đúng là muốn thành tiên tới phát điên rồi.”
Đàm Vân Sơn từ chối phát biểu ý kiến, dùng cả tay lẫn chân để trèo lên. May mà đỉnh núi giả đủ rộng, vẫn còn đủ chỗ để chứa chàng.
Ký Linh ngẩng đầu nhìn trời đêm đáp: “Tôi nghĩ Cửu Thiên Tiên Giới trông ra sao.”
Đàm Vân Sơn cùng ngắm với nàng, hỏi chuyện gẫu: “Nghĩ ra chưa?”
Ký Linh đáp: “Nghĩ ra rồi.”
Đàm Vân Sơn: “Thế nào?”
Ký Linh im lặng một lúc rồi chậm rãi nói: “Giống như bầu trời đêm này, đẹp nhưng lạnh.”
Cứ tưởng cái vị một lòng tu tiên ngồi bên cạnh sẽ phản đối nhưng đợi một hồi lại nghe Đàm Vân Sơn đáp lại rằng: “Tình người… tất nhiên là chỉ ở nhân gian mới có.”
Ký Linh ngạc nhiên quay sang nhìn chàng.
Đàm Vân Sơn nghiêng đầu, chớp chớp mắt: “Có phải là lại một lần nữa phải cảm phục trước sự thông tuệ của tôi rồi phải không?”
Ký Linh vỗ trán. “Lại”, “cảm phục”, “thông tuệ”,… Rốt cuộc người này làm thế nào mà có thể nói một câu không đúng được lấy một từ nào như vậy!
“Này cô nương, có thể đừng lần nào cũng trưng cái thái độ “nhọc lòng” đó ra với tôi được không?” Đàm Vân Sơn phong nhã hai mươi năm gặp phải Ký Linh thì ngã ngựa.
Ký Linh không đáp, chỉ im lặng nhìn chàng mong đối phương có thể tự hiểu.
Đàm Vân Sơn coi như là cũng có hơi tự hiểu, đôi mắt cuối cùng cũng ánh lên chút chột dạ nhưng thoắt cái lại sáng lên, xòe bàn tay phải chìa cho Ký Linh xem.
Ký Linh không hiểu, ngơ ngác nhìn lòng bàn tay trống không, không có bất kỳ thứ gì.
Đàm Vân Sơn cũng không giải thích gì, chỉ tập trung nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay mình.
Đẹt đẹt.
Bất ngờ một đốm sáng lóe lên đi kèm một tiếng đẹt rồi biến mất ngay, nhanh tới mức làm người ta phải hoài nghi mình nghe nhầm. Ký Linh tròn mắt ngạc nhiên nhìn Đàm Vân Sơn.
Đàm Vân Sơn mỉm cười: “Lợi hại chứ?”
Ký Linh hơi đần người, nói ra mà không kịp nghĩ: “Lại lần nữa đi.”
Đàm Vân Sơn vô cùng phối hợp, lòng bàn tay để mở bất động, chẳng mấy chốc một đốm điện xẹt nho nhỏ lại xuất hiện trong lòng bàn tay chàng đi kèm tiếng đèn đẹt khe khẽ.
Lần này Ký Linh đã nhìn cẩn thận và cũng đã nghe cẩn thận, tuy cả hình dáng và âm thanh đều nhỏ nhắn dễ thương nhưng đúng thực là sấm chớp!
“Lại lần nữa đi!”
Đẹt đẹt.
“Lại nữa đi!”
Đẹt đẹt.
“Lại nữa!”
Đẹt đẹt.
“Chỉ có thể nhỏ như vậy thôi sao?”
Đẹt.
“…”
“Còn có thể nhỏ hơn nữa.”
Hiếm lắm mới thấy Đàm Vân Sơn ngượng ngùng một lần, Ký Linh bật cười thành tiếng.
Đàm Vân Sơn vốn là muốn chọc cho Ký Linh vui, giờ thấy nàng đã cười, lòng chàng cũng trở nên thoải mái.
Ký Linh quên hết những chuyện linh tinh khác, tò mò về lòng bàn tay của Đàm Vân Sơn: “Làm thế nào vậy?”
Đàm Vân Sơn thật thà đáp: “Tập trung tư tưởng muốn hàng yêu trừ ma là sấm chớp tới.”
Ký Linh bất giác túm bàn tay chàng lật qua lật lại xem, cứ như thể làm vậy là có thể khám phá ra sự huyền bí của nó: “Phát hiện từ lúc nào vậy?”
Đàm Vân Sơn thoải mái để mặc nàng xem: “Ngay lúc dùng dao chém đèn cung đình không được, tôi không biết còn cách nào có thể hàng yêu, sốt ruột, lòng bàn tay bỗng có động tĩnh.”
Tay Đàm Vân Sơn rất đẹp, ngón tay dài thanh thanh, bàn tay mịn màng ấm áp, đường chỉ tay rất mờ, nhìn là biết là người số sống an nhàn sung sướng.
Ký Linh bỗng dưng tò mò, cũng xòe bàn tay mình ra để cạnh để so sánh. So ra mới biết, tay Đàm Vân Sơn lớn hơn tay nàng rất nhiều.
Mới so một chút, Ký Linh lại lặng lẽ rụt tay mình về.
Đường chỉ tay của nàng chằng chịt xấu xí, da cũng hơi sần sùi, không trắng trẻo đẹp bằng tay một chàng trai như người ta.
Đàm Vân Sơn không bỏ qua bất kỳ cử động nhỏ nào của Ký Linh nhưng chàng chỉ nhìn, không nói.
Ký Linh không biết đã bị người ta nhìn thấy, chỉ muốn áp chế cảm xúc khó nói rõ thành lời trong lòng, vội tìm một cái gì đó để nói: “Lần đầu tiên tôi thấy có người không cần pháp khí vẫn có thể hô mưa gọi gió.”
Đàm Vân Sơn mỉm cười: “Đây là sét.”
Ký Linh gật đầu: “Tôi biết, nhưng gió mưa sấm sét đều là cùng một loại mà.”
Đàm Vân Sơn vốn chỉ định khoe với Ký Linh không ngờ Ký Linh lại nâng hẳn chàng lên ngai cao cô độc, thành thử chàng đành phải khiêm tốn đáp: “Có thể bổ cái gì đó thật mới gọi là sét, cái này giỏi lắm cũng chỉ kêu ra tiếng, lại còn phải lựa chỗ yên tĩnh một chút mới nghe được.”
Ký Linh chớp chớp mắt, bỗng chọc ngón trỏ vào lòng bàn tay Đàm Vân Sơn rồi bảo: “Huynh thử làm lại đi.”
“Đánh… cô nương?” Đời này Đàm Vân Sơn chưa từng nghe thấy yêu cầu nào kiểu này.
Ký Linh sốt sắng lườm chàng một cái: “Nhanh lên!”
Đàm Vân Sơn không còn gì để nói, giai nhân đã giục giã, chàng đành phải cố làm lại một lần nữa.
Đẹt đẹt.
Đốm chớp nhỏ hơn hẳn so với trước, lóe một cái rồi mất ngay.
Ký Linh cười tươi rói nhìn Đàm Vân Sơn: “Tê tê.”
Cuối cùng Đàm Vân Sơn cũng hiểu nàng làm vậy để làm gì, chàng bật cười theo, lẩm bẩm khe khẽ: “Ngốc nghếch.”
Ký Linh không nghe rõ: “Gì?”
Đàm Vân Sơn cười lắc đầu: “Không có gì.”
Phùng Bất Cơ đứng nép dưới chân núi giả khẽ thở dài, đứng nghe một hồi xong, hoàn toàn không còn ý định lên tụ họp với đồng đội nữa.
Chẳng mấy khi hai vị ấy mới không tranh cãi, lại còn rất có không khí của “cặp chim đôi”, một lão già như huynh ta mà trèo lên thì đúng là khó mà chấp nhận nổi.
Trên núi giả, hai đồng đội của huynh ta vẫn đang thân thiện thảo luận…
Ký Linh: “Chiêu này của huynh nếu mà luyện thành thì uy lực vô cùng!”
Đàm Vân Sơn: “Nói thì dễ, biết luyện thế nào?”
Ký Linh: “Ề…”
Đàm Vân Sơn: “Có điều có thể đặt trước một cái tên, lỡ như tương lai luyện thành, lúc ra chiêu mới phóng khoáng.”
Ký Linh: “Huynh có thể nghĩ gì hữu dụng chút được không!”
Đàm Vân Sơn: “Có rồi!”
Ký Linh: “Ồ?”
Đàm Vân Sơn: “Đàm thị tiên lôi, dễ nghe không?”
Ký Linh: “… Không!”
Gió đêm thổi qua, hồ lăn tăn sóng.
Đàm Vân Sơn: “Ôi, hương đào ở đâu bay tới ấy nhỉ?”
Ký Linh: “Đánh trống lảng cũng được nhưng ít ra cũng phải đúng mùa chứ, giờ đang là mùa thu!”
Ký Linh: “Tôi mệt rồi, huynh cứ tiếp tục hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt đi.”
Đàm Vân Sơn: “Này, một chuyện cuối cùng thôi…”
Ký Linh: “Khụ, nói đi.”
Đàm Vân Sơn: “Tôi thu hồi lại câu tôi đã nói.”
Ký Linh: “Câu gì?”
Đàm Vân Sơn: “Mỉm cười cho qua.”
Phùng Bất Cơ lặng lẽ thở dài, nếu không phải nãy giờ đứng núp, giờ đi ra thì không biết nói thế nào, huynh ta thật muốn ra nói phụ họa với Đàm Vân Sơn.
Quả là, tuy huynh ta và Đàm Vân Sơn hay nói Ký Linh quá nghiêm túc nhưng cũng bởi vì người như vậy trên đời này thực sự quá ít ỏi nên tấm lòng son này mới càng đáng quý.
“Đàm Vân Sơn.”
Ký Linh trên núi giả bỗng nghiêm túc gọi đầy đủ tên của Đàm nhị công tử.
Phùng Bất Cơ dưới chân núi và Đàm nhị công tử cùng dỏng tai lên nghe.
Đêm lặng như nước, tiếng Ký Linh nói trong và rõ…
“Lần này, giờ tôi không thể đuổi lên Cửu Thiên Tiên Giới nhưng lần tới nếu gặp kẻ nào làm hại nhân gian, bất kể là thần tiên hay yêu quái, giết không tha.”
Tĩnh lặng một hồi lâu, lâu đến mức tiếng Ký Linh đã bị gió đêm thổi đi hết, Phùng Bất Cơ mới nghe thấy giọng nói mang tâm trạng đầy phức tạp của Đàm Vân Sơn: “Cũng chớ nên nói chắc quá thế…”
Tiếp đấy là tiếng Ký Linh bất ngờ nói to: “Không phải huynh nói là thu hồi câu “mỉm cười cho qua” hay sao!”
Tiếng Đàm Vân Sơn bé hẳn lại: “Thế tôi lại thu hồi câu “thu hồi câu mỉm cười cho qua” được không…”
Ký Linh không nói gì nữa.
Chỉ có điều, chớp mắt sau, Đàm nhị thiếu gia ngã uỵch từ trên núi giả xuống, ngạc nhiên nhìn Phùng Bất Cơ.
Phùng Bất Cơ im lặng ngồi xổm xuống giúp đồng đội xoa cái mông bị đá.
Ký Linh không phát hiện Phùng Bất Cơ núp ở dưới, đá Đàm Vân Sơn xong liền dùng khinh công nhảy thẳng từ núi giả xuống dưới nhà, thong thả về phòng.
Đêm đó, Ký Linh không mơ thấy đèn cung đình, Trần Hoa thượng tiên hay Vũ Dao thượng tiên mà mơ thấy Đàm Vân Sơn.
Trong mơ, nàng và Đàm Vân Sơn vẫn ngồi trên núi giả, nàng lật qua lật lại nghiên cứu tiên lôi trong lòng bàn tay Đàm Vân Sơn, giữa chừng thì xòe tay mình ra so sánh, mọi chuyện giống y như lúc ở trên núi giả… Chỉ có điều, sau đấy, Đàm Vân Sơn rụt tay về, hờ hững châm chọc: tay cô nương sao sần sùi vậy, chẳng giống tay con gái chút nào.
Tiếp đó, Ký Linh ngủ một giấc dài, mơ thêm rất nhiều chuyện khác, nhưng sáng mai thức dậy, chuyện nhớ rõ ràng nhất vẫn là khoảnh khắc lúng túng đó.
Có điều, chẳng mấy mà chuyện này đã bị nàng quên sạch. Bởi vì rửa mặt xong đi ra sân, Ký Linh phát hiện trời đổ tuyết.
U Thôn đổ tuyết không lạ, lúc tới Mặc Châu họ đã gặp rồi. Song, đêm qua trời còn quang đãng, sáng nay đã âm u, đổ tuyết, trời trở quả là hơi bị nhanh.
Qua sảnh phụ dùng bữa sáng, Đàm Vân Sơn và Phùng Bất Cơ đang ăn dở, thấy nàng tới, Phùng Bất Cơ hỏi ngay: “Thấy tuyết rơi bên ngoài không?”
Ký Linh gật đầu, hơn nữa cũng hiểu ý Phùng Bất Cơ: “Có hơi lạ.”
Đợi Ký Linh ngồi vào bàn, các a hoàn lui ra hết, Phùng Bất Cơ mới nói: “Lúc trước chúng ta cho là U Thôn không có đêm là do Sùng Ngục làm. Hiện giờ đã làm rõ là không liên quan tới nó. Thế phải chăng cũng cần phải nghĩ ngược lại, sở dĩ nó không có động tĩnh gì, có lẽ là do kiêng kị đèn tiên, giờ không còn đèn tiên, cuối cùng nó cũng có thể ra tay?”
Điều Ký Linh nghĩ ngay tới đầu tiên cũng giống vậy nhưng lại thấy không hợp lý: “Có lẽ là yêu ma bình thường thì kiêng kị tiên khí nhưng yêu thú thượng cổ cũng vậy sao? Trước đây, Ứng Xà còn năm lần bảy lượt lẻn vào Đàm phủ, không những không e sợ mà còn nghĩ trăm phương ngàn kế để nuốt vật tiên.”
Phùng Bất Cơ cau chặt hàng mày, cũng không biết nên giải thích thế nào.
Ký Linh đang nghĩ thì Đàm Vân Sơn nói: “Dù gì Tiên Duyên đồ đã đánh dấu Sùng Ngục ở đây thì không sai đâu. Trừ khi nó có thể che giấu yêu khí của bản thân, bằng không chỗ này cũng chỉ rộng ngần ấy, chúng ta tìm từng tấc đất một, không có chuyện không tìm được.”
Đàm Vân Sơn nghiêm túc đáp: “Người có tiên duyên từ nhỏ, thế gian liệu có mấy ai? Tôi đã tốt số như thế thì không thể quá lười biếng…”
Ký Linh vẫn nhìn chàng.
Đàm Vân Sơn hắng hắng giọng, nói nốt cho hết câu: “Bằng không, lỡ có ngày ông trời ngứa mắt lại cho một tia sét xuống thì…”
… Nhận thức về mối nguy có nghĩa là khi lòng bàn tay bạn có sét, chưa đánh được ai, trước hết bạn đã lo có lẽ sẽ bị người khác bổ sét đánh.
Ba người vốn định lát nữa sẽ ra ngoài xem xét tình hình, không ngờ trời trở rất nhanh. Ba người ăn sáng xong, trời đã xám xịt nặng nề. Gió Bắc thét gào, tuyết lông ngỗng bay đầy trời, gió quẩn bốn phương tám hướng, trời đất mịt mùng.
Thời tiết kiểu này, đừng nói là gặp Sùng Ngục, dù có gặp cũng không nhìn thấy, chỉ riêng tuyết lớn đã ăn đủ rồi.
Ba người nhanh chóng quyết định: chờ tuyết ngừng.
Nhưng tuyết lúc nào mới ngừng?
Không ai biết.
Điều duy nhất rõ ràng là đợi đến trưa, tuyết lớn không hề có dấu hiệu dịu lại.
Hắc Kiệu sai người mời họ qua sảnh chính dùng cơm trưa. Hôm qua đã từ chối khéo tiệc mừng công, lần này không tiện chối từ tiếp. Ba người đi theo a hoàn.
Hắc Kiệu vừa thấy họ liền đứng ngay dậy đón tiếp, luôn miệng nói ba vị lao khổ, công cao.
Ký Linh cảm thấy ông ta khách sáo có phần quá mức bèn cố ý mỉa mai: “Hắc lão gia biết chúng tôi làm gì sao, sao biết là lao khổ, công cao?”
Hắc Kiệu cười rất chất phác, mang theo cái khéo đưa đẩy của người có tuổi: “Mặc dù không biết tình hình cụ thể, nhưng lúc ba thầy ra khỏi cửa, U Thôn vẫn sáng như ban ngày, lúc các thầy về, buổi đêm ba năm không thấy đã tới. Nếu nói trong chuyện này không có công lao của ba thầy, có đánh chết tôi cũng không tin.”
Trong lúc trò chuyện, rượu và thức ăn đã được bày ra. Hắc Kiệu chào mời mọi người đừng khách sáo, cứ thoải mái dùng bữa. Ba người cũng không vờ vĩnh làm gì.
Mới ăn được mấy miếng, Hắc Kiệu đã tò mò hỏi thăm: “Rốt cuộc là yêu vật gì hại U Thôn ba năm không có đêm?”
Ký Linh thực lòng không muốn nói nhiều về chuyện này nhưng ăn của người ta, ở của người ta, thỏa mãn chút lòng hiếu kỳ của gia chủ coi như cũng là chuyện thuộc bổn phận của họ: “Không phải yêu vật mà là một chiếc đèn tiên chẳng may rơi xuống Bạch Quỷ Sơn chiếu sáng U Thôn ba năm liên tục nên mới làm U Thôn lúc nào cũng như ban ngày.”
Hắc Kiệu tập trung lắng nghe, càng nghe càng ngạc nhiên ra mặt, Ký Linh kể xong một lúc lâu, ông ta mới bùi ngùi cảm thán: “Lại có chuyện kỳ lạ bậc này.”
Phùng Bất Cơ thở dài, xen vào câu chuyện, chỉ tay ra ngoài cửa sổ: “Hắc lão gia đừng chỉ ngạc nhiên vì mỗi chuyện quá khứ, trận tuyết trước mắt này chẳng lẽ không làm Hắc lão gia thấy kỳ lạ?”
Hắc Kiệu giật mình nhìn ra ngoài cửa sổ theo hướng Phùng Bất Cơ chỉ, nhìn một lúc rồi mới quay đầu lại đáp: “Bình thường. U Thôn nằm ở Bắc Mặc Châu, phía Nam lại có núi chắn, gió Nam không thổi tới được, vừa vào thu là ngày ngày gió Bắc thổi, tuyết kiểu này rất bình thường.”
Phùng Bất Cơ nửa tin nửa ngờ, thầm thì tự nói một mình: “Bình thường lắm sao…”
Hắc Kiệu cười: “Thầy bắt yêu quanh năm, e là nhìn gì cũng thấy có điều cổ quái.”
Ký Linh cúi đầu không nói gì như đang trầm tư suy nghĩ. Bỗng đâu một đũa rau xanh thình lình được gắp vào bát cho nàng.
Tim Ký Linh lỗi nhịp, nhìn lên, quả nhiên là Đàm Vân Sơn.
Vô cớ, gò má Ký Linh nóng bừng. Đang phân vân nên nói cảm ơn hay nên gắp lại một đũa trả lễ thì Đàm Vân Sơn chớp chớp mắt ra dấu với nàng: Ôi, sao phải gặp thức ăn cho cô nương thì cô nương mới chịu nhìn tôi một cái.
Ký Linh ngớ ra.
Đàm Vân Sơn lại ra dấu bằng mắt tiếp: Tôi thấy Hắc Kiệu là lạ.
Ký Linh sực hiểu ra, có phần buồn bực vì tự mình đa tình, gắp thức ăn cho nàng gì chứ, chẳng qua là ra dấu bằng mắt thất bại nên Đàm nhị thiếu gia nhà người ta phải dùng tới chiêu này, thế mà nàng còn nghĩ có nên gắp lại một đũa trả lễ không chứ!!!
Đàm Vân Sơn tỏ ra khó hiểu: Sao vậy? Giận ai thế? Tôi dùng sét đánh tên đó cho cô nương!
Ký Linh muốn chọc đũa vào chàng ta: Sét bé bỏng dễ thương vậy huynh cứ giữ mà dùng!
Phùng Bất Cơ gắp cho hai đồng đội mỗi người một miếng cá rồi quay đầu qua cười đầy thật thà chất phác với Hắc Kiệu: “Chúng tôi quấy quả quý phủ đã lâu, giờ ngày đêm của U Thôn đã bình thường trở lại, chúng tôi cũng xin cáo từ.”
Ký Linh và Đàm Vân Sơn vừa được Phùng Bất Cơ gọi sự chú ý đều ngạc nhiên, không hiểu sao chỉ mới chớp mắt mà cuộc nói chuyện đã tiến hành đến bước này.
Hắc Kiệu vội xua tay: “Thầy hiểu lầm, tôi tuyệt đối không có ý này!”
Phùng Bất Cơ cầm chặt tay đối phương, nói đầy chân thành: “Không, không, U Thôn đã không còn yêu tà, chúng tôi phải nhanh chóng lên đường, chậm trễ một ngày chính là để yêu tà ở nơi khác gây họa thêm một ngày.”
Hắc Kiệu tỏ ra ngượng ngùng nhưng ngoài liên tục lặp lại “thế, thế…” thì chẳng hề chân thành níu giữ.
Ký Linh và Đàm Vân Sơn nhìn nhau, lòng ngầm hiểu rõ: trong khoảnh khắc mất tập trung ngắn ngủi vừa rồi, Hắc Kiệu đã uyển chuyển hạ lệnh tiễn khách, Phùng Bất Cơ cũng thuận nước đẩy thuyền, cáo từ đi luôn.
U Thôn đã không còn yêu tà ư? Đương nhiên không phải. Tối thiểu, Sùng Ngục vẫn còn chưa bị bắt.
Song, so với yêu thú còn chưa nhìn thấy bóng dáng thì Hắc Kiệu nôn nóng hạ lệnh đuổi khách này đáng ngờ hơn. Mà quan sát một đối tượng đáng ngờ thì lùi về chỗ tối tốt hơn là đứng ở chỗ sáng.