Không thể nào là Yến Hành lại kéo họ về đào nguyên được, vậy nên hiện giờ gọi được thừng yêu làm nó chuyển động chỉ có khả năng là người đã nhỏ máu vào thừng yêu: Bạch Lưu Song!
Nhưng sức của một con yêu quái có thể xuống tới tận dưới Vong Uyên này thật sao?
Đàm Vân Sơn tạm không nghĩ ra nhưng hiện giờ không thể do dự quá nhiều, lỡ như đây là cơ hội sống còn thì họ tuyệt đối không thể bỏ qua tiếp được: “Đi!”
Mười ngón đan chặt, hai người chạy thục mạng theo hướng thừng yêu dẫn dắt, sợ lỡ chậm thì lực kéo ở hông sẽ ngừng lại và biến mất.
Cuối cùng, đến khi gặp lại ánh đèn Bích Tiêu, họ đã chạy đến thở không kịp, cuống họng xộc mùi máu tanh.
Song, không ai dám vội thở phào ngay, thậm chí họ còn cố chạy nhanh hơn, dốc hết sức chạy cú nước rút tới chỗ đèn Bích Tiêu nằm dưới đất mới dám thở hắt ra một hơi.
Nhưng cũng chỉ dám thả lỏng một chút vậy thôi, Đàm Vân Sơn vội vàng cởi thừng tiên ra khỏi đèn Bích Tiêu, cột nó vào người mình và Ký Linh.
Ký Linh thở một lúc mới lấy lại hơi, kết quả lúc này mới phát hiện ra mình và Đàm Vân Sơn bị thừng tiên trói thành một bó, mặt đối mặt, người dán vào nhau, không phân biệt huynh tôi gì nữa.
Ban nãy lúc hôn tuy cách cũng gần nhưng ít nhiều gì cũng là chỗ tối có xòe tay cũng không nhìn thấy năm ngón. Giờ đèn đuốc sáng ngời lại dán vào nhau như vậy thì hơi ngượng: “Huynh có thể cột trước xong chừa lại cho tôi một đoạn dài để tôi cột vào mà…”
Đàm Vân Sơn tì nhẹ cằm lên đỉnh đầu nàng, thả lỏng tinh thần: “Thế thì phiền phức quá.”
Ký Linh còn muốn kháng nghị thêm nhưng bỗng nhiên chân hẫng đi, nàng bất giác ôm lấy Đàm Vân Sơn, có người bên cạnh giúp nàng thấy yên tâm hẳn, bấy giờ nàng mới nhận ra là do thừng tiên chuyển động. Ở đầu thừng còn lại, có vẻ như mọi người đã cảm nhận được động tĩnh của dây thừng nên đang thu thừng, kéo họ lên!
Đàm Vân Sơn ôm lại Ký Linh, ôm thật chặt, lần này, chàng sẽ không bao giờ buông ra nữa.
Bên bờ Vong Uyên, chúng thượng tiên ai nấy đều hồi hộp. Kể từ lúc thả đèn Bích Tiêu xuống Vong Uyên, hễ cảm nhận được đầu dưới đó có động tĩnh gì là họ liền kéo thừng lên kiểm tra nhưng lần nào cũng hy vọng rồi lại phải thất vọng.
Nhưng lần kéo lên này thì khác.
Mượn tinh khí Thiên Đế truyền cho, Bạch Lưu Song thi triển yêu thuật xuống dưới Vong Uyên đã khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng mình đã tìm được thừng Tử Kim và lúc kéo thừng yêu lại chỗ thừng tiên, đầu thừng tiên dưới đó còn xuất hiện động tĩnh nữa, chứng tỏ sợi thừng yêu bị đứt kia chắc chắn vẫn còn cột vào người Đàm Vân Sơn!
Tuy là lời nói một phía của một con sói yêu nhưng đến loại chuyện “Thiên Đế truyền tinh khí cho yêu quái” còn có thể xảy ra được thì thử tin phán đoán của nàng ta một chút cũng… không, phải nói là bọn họ khẩn thiết hy vọng nàng ta nói đúng, vì bọn họ đã không ngủ không nghỉ chầu chực ở bờ Vong Uyên hơn hai mươi ngày, giờ nhìn ai cũng mặt xanh xao, môi bợt bạt, đừng nói là hao hết tiên lực, đến tinh phách cũng sắp lìa khỏi xác rồi!
Rào ràoooo
Lúc hai người được trông đợi cuối cùng cũng được thừng tiên kéo lên, chúng thượng tiên cảm thấy đã nghe được thứ tiếng nước làm người ta chứa chan giọt lệ nhất trên đời này.
“Chị!!!”
Bạch Lưu Song là người đầu tiên nhào qua đón. Ký Linh và Đàm Vân Sơn còn chưa kịp lên hẳn bờ, suýt thì bị sói trắng xô ngã ngược xuống nước.
Chúng thượng tiên sợ tới mức tim suýt nhảy cả ra khỏi cổ họng, vội vàng tăng tối đa tốc độ kéo thừng tiên cùng hai người và Bạch Lưu Song lên, tránh cho lại rơi lại vào Vong Uyên.
Đợi đến khi cả ba đã lên hẳn bờ, chúng thượng tiên mới dám ngồi phịch xuống đất, lòng lấy làm may mắn mọi chuyện đã tai qua nạn khỏi, dường như kẻ mới ra khỏi Vong Uyên chính là họ.
Đằng này, các thượng tiên sức cùng lực kiệt; ở đằng bên kia, Nam Ngọc và Phùng Bất Cơ đã vội vàng tới giúp cởi thừng tiên ra cho bạn mình.
Thừng tiên được cởi ra thì đương nhiên Đàm Vân Sơn và Ký Linh cũng tách nhau ra. Một người bị Nam Ngọc và Phùng Bất Cơ ôm chầm lấy vỗ vỗ, một người chỉ biết đứng nhìn Bạch Lưu Song vùi đầu vào lòng mình mà chẳng biết phải làm thế nào.
Bạch Lưu Song giàn giụa nước mắt làm ướt hết vạt áo của Ký Linh. Ký Linh thấy ấm lòng nhưng cũng đau lòng thương nàng ấy khóc nhiều như vậy, nàng xoa nhẹ đầu nàng ấy, dịu dàng bảo: “Sao ai nhìn thấy tôi cũng khóc vậy? Không phải là nên cười sao…”
Bạch Lưu Song ngừng khóc, ngẩng khuôn mặt rưng rưng lệ lên rời khỏi lòng Ký Linh, nhìn nàng bằng vẻ thắc mắc: “Chị?”
Ký Linh biết nàng ấy đã nhận ra điều bất thường nên cười buồn bảo: “Tôi không nhớ nổi chuyện trước kia.”
Bạch Lưu Song ngạc nhiên, sau một lúc lâu, bỗng nhiên đứng dậy nhìn Ký Linh từ trên xuống dưới từ trái qua phải: “Trừ mất trí nhớ ra, chị có bị thương chỗ nào không?”
Ký Linh không bắt kịp tư duy của nàng ấy, ngây người đáp: “Không…”
“Vậy là tốt rồi.” Bạch Lưu Song thở phào một hơi, mặt còn đang lem nhem nước mắt đã nhoẻn miệng cười với Ký Linh, “Hồi trước lắm chuyện phiền lòng, quên thì cũng quên rồi, ngày sau còn dài mà!”
Ký Linh cười tít mắt cùng nàng ấy.
Bên đằng Nam Ngọc và Phùng Bất Cơ lại không hề nghĩ thoáng được như hai cô nương kia, họ lo lắng hỏi Đàm Vân Sơn: “Ký Linh quên hết mọi chuyện thật rồi à?”
Vốn tưởng chính chủ còn lo lắng hơn hai người họ nhiều, không ngờ Đàm nhị thiếu gia lại cười tươi nhìn cô nương đứng đằng kia như thể bị hớp hồn, chàng thong thả nói: “Người về lại được là được rồi, những chuyện khác đều không thành vấn đề.”
Nam Ngọc và Phùng Bất Cơ nghĩ lại thấy cũng phải, còn nhiều thời gian mà, quên quá khứ thì vẫn còn tương lai.
Một khi đã như vậy…
Nam Ngọc: “Kể nghe chuyện Ký Linh bảo sao lần nào mọi người thấy tôi cũng khóc đi…”
Phùng Bất Cơ: “Chúng tôi rất muốn nghe.”
Đàm Vân Sơn: “Suýt thì quên. Thiên Đế. Tôi còn chuyện cần nói…”
Nam Ngọc, Phùng Bất Cơ: “…”
Mặc dù chàng đánh trống lảng rất vụng về nhưng cũng không hẳn là hoàn toàn mượn Thiên Đế làm cái cớ. Chàng thực sự muốn cảm tạ đối phương và cả các thượng tiên đã vất vả nhiều ngày bên bờ Vong Uyên vì chàng và Ký Linh; ngoài ra, chàng còn muốn nói đôi lời về vị cố nhân dưới Vong Uyên, chàng có cảm giác Thiên Đế sẽ muốn nghe.
Lúc Đàm Vân Sơn tới, Thiên Đế vừa cho chúng Thượng tiên về nghỉ ngơi. Các thượng tiên tốp năm tốp ba kéo nhau ra về, đi lại tập tễnh, mệt đến độ đến sức gọi gió gọi mây cũng không còn. Nhìn những bóng dáng đi bộ ra về đó làm người ta phải thấy xót xa.
“Tôi đã gặp Thanh Trản, và cả Yến Hành nữa.” Đàm Vân Sơn vốn muốn nói lời cảm tạ nhưng cuối cùng quyết định lược bỏ bớt những lời khách sáo ấy đi, nói thẳng vào chuyện muốn nói.
Thiên Đế hơi giật mình, sau đó ông hỏi: “Họ thế nào?”
Đàm Vân Sơn nói: “Dưới Vong Uyên tối tăm mịt mùng, hỗn mang, hư không, nhưng dưới chỗ tăm tối ấy, có một chốn đào nguyên, nắng gió chan hòa, hoa cỏ tốt tươi,… Họ ở nới đó.”
“Thế có được coi là yên bình thoải mái, tự thấy vui vẻ không?”
Đàm Vân Sơn nghĩ tới ánh sáng của Yến Hành, đốt tre của Thanh Trản, gió nhẹ trên núi, sương sớm trên cành và cả bàn cờ thong thả chờ người tới chơi cùng, cuối cùng chàng gật đầu: “Hẳn có thể coi là như vậy.”
Thiên Đế nhìn xa xăm về phía Vong Uyên, im lặng hồi lâu, như thể có thể nhìn xuyên qua mặt nước trông thấy vùng trời sáng sủa ấy.
“Vậy là tốt rồi.” Ông nói.
Ngày đó, các thượng tiên đang trên đường trở về tiên cung mới đi được nửa đường đã nghe thấy hai thiên chỉ:
“Trường Nhạc, có công bình định yêu loạn Cửu Thiên, thăng làm Trường Nhạc thượng tiên, ban thưởng Trường Nhạc cung, ngụ ở Bồng Lai.”
“Ký Linh, có công bình định yêu loạn Cửu Thiên, công đức viên mãn, ban thưởng tiên cách; bởi vào Vong Uyên đã kiếp nạn muôn trùng nên nay miễn lịch kiếp, lên thẳng Bồng Lai.”
…
Bốn mùa thong thả đi qua. Đã một năm kể từ ngày từ Vong Uyên trở về.
Đàm Vân Sơn và Ký Linh đều ngụ ở Bồng Lai nhưng một người ngụ ở Trường Nhạc cung, một người thì ngụ trên mây nằm trên cành, ở rất tùy ý. Vậy nên, các tiên hữu ở Bồng Lai ngày nào cũng thấy Trường Nhạc thượng tiên đi khắp tiên đảo tìm người. Có đôi khi tìm được thì níu cô nương người ta lại tán gẫu luyên thuyên mãi không ngừng; có đôi khi không tìm được thì ngồi một mình trên mây, bay đến đâu thì đến, để lại tiếng thở than âu sầu suốt cả chặng đường dài.
Kể từ đó, Cửu Thiên Tiên Giới mây mù lượn lờ suốt hàng triệu năm lần đầu tiên xuất hiện một áng “mây buồn”.
Có lẽ là yêu loạn Cửu Thiên đã làm tổn thương nguyên khí nặng nề nên một năm nay, Cửu Thiên không hề có ai gây ra sóng gió gì nữa. Năm tiên đảo, bao gồm cả Cửu Thiên Bảo Điện, đều rất yên bình chăm lo điều dưỡng.
Nếu như phải nhặt ra một chuyện ít an ổn thuận hòa nhất trong bầu không khí an ổn thuận hòa này, vậy thì chỉ có thể là chuyện hôn sự của Thương Bột thượng tiên.
Chuyện thành thân do chính Thương Bột thượng tiên xin với Thiên Đế lại thêm huynh ta và đối phương đã có tình cảm với nhau từ lâu, có thể nói là mọi điều đều đã sẵn sàng, chỉ còn thiếu gió đông.
Vậy mà ngọn gió đông này, Thiên Đế cứ nhất quyết không chịu cho.
Không vì lý do nào khác ngoài chuyện đối tượng Thương Bột thượng tiên muốn cưới là yêu, một con rắn nhỏ dưới Đông Hải.
Việc này được giữ kín bưng từ đầu tới cuối, chỉ những người trong nội điện của Thiên Đế biết. Toàn bộ chúng tiên của Cửu Thiên, bất luận là thượng tiên hay tán tiên đều chỉ có được tin tức vỉa hè nhưng chỉ vậy thôi mà mỗi người nghe nói một câu, cuối cùng vẫn chắp nối ra được một câu chuyện có đầu có đũa: nghe nói khi lần đầu tiên Thương Bột thượng tiên xin phép chuyện này, Thiên Đế giận tím mặt, phủ quyết một cách quả quyết. Thế là Thương Bột thượng tiên trở về Đông Hải. Một tháng sau, Thương Bột thượng tiên tới điện lần hai, nhắc lại chuyện này, Thiên Đế tức run người đánh đổ cả chén trà. Tháng thứ ba rồi tháng thứ tư…
Mười hai tháng, mười hai lần “cha con trò chuyện vui vẻ”, cụ thể trò chuyện những gì thì thực sự không nghe ngóng được chi tiết tới thế. Chúng tiên hữu chỉ biết là cứ giằng co như thế một năm, hai cha con mỗi người nhượng bộ một bước. Thiên Đế đồng ý cho Thương Bột thượng tiên đón dâu nhưng kết hôn xong thì lập tức bãi miễn chức vụ thượng tiên, hạ xuống làm tán tiên, bị phạt đi Đông Hải, trọn đời không được phép bước vào Cửu Thiên một bước.
Tuy nói là mỗi người nhượng bộ một bước nhưng Thiếu Hạo thích nước từ nhỏ, thuở làm Thương Bột thượng tiên, một năm thì có tới ba trăm năm mươi ngày ở dưới Đông Hải, cho nên hình phạt tước bỏ chức thượng tiên này, nhìn kiểu gì cũng thấy là Thiên Đế đơn phương thỏa hiệp.
Nhưng chúng tiên chỉ bí mật nghị luận với nhau vậy thôi, ngoài mặt vẫn vờ như hoàn toàn không biết gì về chuyện này.
Cuối cùng, ngày này cũng đến, thiên chỉ ban ra.
Con trai ruột của Thiên Đế bị giáng làm tán tiên, trọn đời không được bước vào Cửu Thiên. Đây đúng là chuyện lớn, nhưng chúng tiên hữu đã theo dõi chuyện này cả năm, đến nội dung thiên chỉ gồm những gì cũng đều đã đoán được tới bảy, tám phần rồi nên lúc giọng Thiên Đế truyền khắp Cửu Thiên Tiên Giới, chẳng có vị nào trong chúng tiên thấy giật mình, cùng lắm là nhận xét một câu: Ồ, cuối cùng cũng xong rồi.
Lúc Đàm Vân Sơn nghe thấy thiên chỉ, chàng đang ở trên một ngọn núi ở Bồng Lai, vừa mới túm được Ký Linh thì tiếng Thiên Đế vang lên.
Ký Linh cũng vậy, nàng vốn đang định cầm chuông Tịnh Yêu gõ chàng, nghe thấy thiên chỉ thì liền dừng tay lại.
“Thiếu Hạo hẳn là rất vui.” Tuy Ký Linh cũng chẳng hề bất ngờ gì trước kết quả này giống chúng tiên hữu nhưng khoảng cách giữa “nghe nói” và “thiên chỉ được ban bố thật rồi” là hai cảm giác hoàn toàn khác biệt. Nàng còn thấy vậy, hẳn Thiếu Hạo sẽ càng cảm nhận được rõ nét hơn nhiều. Giờ thiên chỉ đã ra, tất thảy đều có thể yên tâm rồi.
“Đâu chỉ vui, ” Đàm Vân Sơn thở dài, không hẳn là không hâm mộ, “giờ chắc là vui muốn chết luôn rồi.”
Chàng đã kể tỉ mỉ cho Ký Linh nghe chuyện gặp ở Đông Hải từ trước nên biết trong lòng Ký Linh cũng coi hai vị đó là bè bạn. Giờ bè bạn được hạnh phúc viên mãn, tất nhiên là nàng thấy vui thay cho đối phương.
Nhưng mà đến Thiếu Hạo và rắn tro cũng đã viên mãn rồi, vậy mà hành trình cầu thân dài đằng đẵng của chàng đến khi nào mới được nhìn thấy ánh bình minh?
Nụ hôn dưới Vong Uyên kia, kể từ lúc trở về Cửu Thiên, không ai nhắc tới nữa. Mới đầu là do chàng cảm thấy không nên gấp quá, cứ từ từ lấy chất lượng làm đầu. Giờ chàng mới biết, đường tình của chàng là hành trình chèo thuyền ngược dòng, không tiến ắt lùi lại nhanh như chớp!”
“Đàm Vân Sơn.”
Chẳng mấy khi mới được người ta chủ động gọi tên, đường dài đằng đẵng, thuyền ngược dòng gì đó, chàng lập tức quên sạch, tươi roi rói đáp: “Gì?”
Ký Linh nghiêng đầu đăm chiêu: “Mấy ngày nay tôi cứ nghĩ mãi, rốt cuộc thích là thế nào.”
Đàm Vân Sơn giật mình như bỗng nhớ tới chuyện gì đó, mặt chàng thoáng buồn: “Lúc ở khách điếm Hoàng Châu, có một cô nương dâng trái tim tới trước mặt tôi mà tôi không dám nhận. Lúc đó, Phùng Bất Cơ nghe lén xong hỏi ta vì sao dám chắc mình không trao được trái tim, huynh ấy nói trông có vẻ đệ rất thích nàng… Ta liền hỏi Phùng Bất Cơ thích là thế nào.”
Ký Linh vội hỏi ngay: “Huynh ấy nói thế nào?”
“Huynh ấy nói, thích là thấy nàng cười thì vui, thấy nàng khóc thì buồn.” Đàm Vân Sơn cười nhưng trông có vẻ buồn, như thể đang hối hận vì trước đây mình quá ngu dốt: “Nàng không biết lúc đó ta ngốc thế nào đâu. Ta nói với huynh ấy, ta thấy các đội hữu cười cũng vui, thấy các đội hữu khóc thì cũng buồn.”
Lần đầu tiên Ký Linh nghe Đàm Vân Sơn nói chính mình ngốc, nàng không nhịn được bật cười thành tiếng.
Đàm Vân Sơn đang đắm chìm trong “ưu sầu” quá vãng, bị tiếng cười này kéo ngay về thực tại.
Vị phá hoại bầu không khí đó còn không hề có chút ý thức nào về chuyện mình đã làm, cười tít mắt rất xinh.
Thế là cảm giác buồn bực trong lòng Đàm Vân Sơn cứ thế nhẹ nhàng bốc hơi luôn.
“Ta không tìm được câu trả lời chính xác từ chỗ Phùng Bất Cơ nhưng giờ ta có thể trả lời nàng.” Chàng nhìn vào mắt nàng như muốn khắc ghi người này vào tận đáy lòng, “Thích một người là không cần thấy nàng ấy cười, chỉ gặp được nàng ấy thôi đã thấy vui vẻ; cũng không cần thấy nàng khóc, chỉ không gặp được nàng ấy thôi đã thấy buồn…”
Ký Linh không nói gì, cũng không cười, chỉ lẳng lặng nhìn hắn.
“Ta mất rất nhiều thời gian mới phân biệt được rõ. Thứ Phùng Bất Cơ nói, đó là tình bạn. Còn thứ ta vừa mới nói, mới đúng là thích.” Đàm Vân Sơn tự nói tiếp một mình như thể muốn bộc bạch toàn bộ những lời từ tận đáy lòng, “Bạn bè mỗi người đi một ngả thì thấy nhớ còn hễ nghĩ đến chuyện sau này không còn được thấy người mình thích nữa là đã thấy đau lòng, đau đến nỗi không làm nổi chuyện gì nữa. Thật kỳ lạ, kể cả dù cho không có tim thì nơi đó trong lồng ngực vẫn thấy đau.”
Ký Linh áp nhẹ tay lên ngực chàng.
Đàm Vân Sơn mỉm cười, muốn nói rằng cho dù đau thì cũng chỉ bản thân mình biết, nàng không thể sờ thấy được, nhưng cuối cùng lời nói ra miệng lại thành: “Hoa ở Quỳnh Lâm đã nở rồi, nàng có muốn đi xem không?”
“Có!” Ký Linh đáp rất nhanh, chạy đi cũng rất nhanh. Mới khắc trước thôi còn đang đứng mặt đối mặt nhìn chàng, liền đó đã chạy ra xa ngoài mấy chục bước, sau đó quay đầu lại giục chàng: “Đàm Vân Sơn, sao lúc nào huynh cũng chậm như vậy…”
Đàm Vân Sơn giãn hàng mày, lòng bỗng hiểu ra.
Đúng vậy, tính chàng vốn chậm, nên có gì phải nóng ruột chứ. Chữ thích nói ra thì dễ nhưng chàng mất hai kiếp mới hiểu được. Chàng chậm chạp hại nàng chịu khổ nhiều như vậy, giờ ngược lại, đến phiên chàng cũng đúng thôi.
Một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, cho dù đến ngày tan thành tro bụi vẫn không được đáp lại thì có sao chứ? Chỉ cần được nhìn thấy Ký Linh, thấy nàng vô ưu vô lo, tiêu dao vui vẻ, vậy là đủ.
“Đàm Vân Sơn…”
“Đến ngay đây …”
“Huynh nói lúc đôi ta gặp nhau lần đầu trước cửa Đàm phủ, tôi lấy chuông Tịnh Yêu đập thuyền của huynh à?”
Đàm Vân Sơn mới đi được mấy bước, nghe hỏi vậy thì sững ra, không hiểu ra sao, chàng hỏi người ở đằng trước: “Đúng vậy, sao thế?”
Ký Linh tỏ ra tò mò: “Vậy lúc đó câu đầu tiên huynh nói với tôi là gì?”
Đàm Vân Sơn nghiêm túc suy nghĩ hồi lâu: “Hình như là ngươi đứng lại đó cho ta, chớ động cựa, không cho phép chạy!”
Bốn chữ cuối nghe đầy khí thế như trong hồi ức.
Như thể tưởng tượng ra cảnh ấy, Ký Linh cười: “Câu thứ hai thì sao?”
Giờ thì Đàm Vân Sơn có thể đáp trôi chảy: “Cô nương vì đâu lại phá thuyền tôi?”
“Tôi có trả lời huynh không?”
“Không…”
“Câu thứ ba thì sao?”
“Cô nương, tại hạ còn sống, dâng hương phải chăng là hơi sớm?” Đàm Vân Sơn nói xong liền vội bổ sung, “Lần này nàng có trả lời, nàng đáp…”