Lang Hoài Hữu Ngọc

Chương 8



Bùi Nhị Lang vốn sẽ ở nhà khoảng hơn một tháng.

Nhưng mà mới qua nửa tháng, triều đình đã đột nhiên hạ lệnh triệu tập toàn bộ quan viên lớn nhỏ tại hoa kinh Trường An về kinh, tuyệt đối không được chậm trễ.

Từ sáng sớm, mấy người Hàn tiểu tướng đã chạy tới hẻm Sư Tử, muốn quay về kinh thành với hắn.

Ta cũng có hơi thắc mắc, trong lúc giúp hắn thu dọn hành lý còn hỏi: “Sao lại đột ngột quay về như thế, trong kinh đã xảy ra chuyện gì à?”

“Nghe nói là quân doanh tại Trường An tra ra một vụ buôn lậu vũ khí, số lượng quá lớn, liên lụy tới rất nhiều người, tất cả mọi người đều phải về để thẩm tra.”

“Ối chao, đây là chuyện lớn đó, nhị thúc nhớ phải cẩn thận một tí nhé.”

“Không cần lo đâu, ta chưa chính thức nhậm chức, sao có thể bị cuốn vào chuyện gì được.”

“Kinh thành tuy rằng phồn hoa, nhưng nghe người ta nói chốn quan trường xảo trá, mà ở dưới chân thiên tử cũng chẳng dễ giấu giếm gì. Bình an vô sự là tốt nhất, nếu không thì thà làm quan địa phương, chí ít cũng được tiêu dao tự tại.”

“Sao có thể so sánh như vậy được, hoa kinh tùy tiện phái một viên quan đến là quan lại địa phương đã sợ run hết lên rồi. Thật ra tất cả đều như nhau thôi, chẳng có thứ gì gọi là tiêu dao tự tại cả, chi bằng hướng tới chỗ cao, đá trụ giữa dòng, đứng lại càng vững.”

“Ừm, nhị thúc nói có lý, là ta ánh mắt thiển cận.”

Ta gật đầu tán đồng những lời hắn nói, hắn cong môi, đưa một cái tráp cho ta.

“Đây là gì vậy?”

Ta nhận lấy tráp, mở ra, thấy một xấp ngân phiếu dày bên trong thì kinh ngạc nhìn hắn.

“Bao nhiêu thế?”

“Một vạn lượng.”

“Nhị thúc lấy đâu ra tiền chứ?” Lần đầu tiên thấy nhiều tiền như vậy, tay ta run rẩy một cách kém cỏi, giọng nói cũng theo đó mà run lên.

“Yên tâm, không phải trộm cướp gì đâu. Là tiền thưởng Hoàng Thượng ban, ta đã đổi thành ngân phiếu.” Hắn khẽ cười một tiếng.

Lúc này ta mới an tâm, đóng tráp trả lại cho hắn: “Nhị thúc giữ là được rồi.”

“Cô cứ giữ đi.”

“Chuyện ấy sao có thể chứ?”

“Sao lại không thể.”

Hắn nhướng mày nhìn ta, mí mắt hơi giương lên. Ta nghĩ ngợi một chốc, cuối cùng thật sự nhận về: “Thế cũng được, ta tạm giữ giúp nhị thúc, khi nào nhị thúc và Phùng tiểu thư thành thân thì ta sẽ giao lại cho…”

“Tiết Ngọc, cô nói bậy cái gì đó?”

Ta còn chưa dứt lời, hắn đã đột ngột cắt ngang, vẻ mặt lạnh đi, giọng nói cũng trầm hơn trước: “Phùng tiểu thư cái gì, Phùng tiểu thư ở đâu ra, là kẻ nào đã khua môi múa mép với cô?”

“… Còn không phải là tiểu thư nhà họ Phùng của phủ Trấn Bắc tướng quân sao, nhị thúc không thích nàng ấy à?” Ta yếu ớt nói.

Phản ứng này của hắn đúng là khiến cho người ta khiếp vía, vậy là ta liền nghĩ hắn không thích vị Phùng tiểu thư kia theo bản năng.

Hắn cũng thật sự hừ lạnh một tiếng: “Không thích.”

“À, vậy cũng được, sống cùng nhau vẫn nên tìm người mình ái mộ thì hơn. Nếu nhị thúc đã không thích, cửa nhà họ Phùng lại cao, chúng ta cũng không cần vào, hơn nữa trong kinh không thiếu quý nữ, không có gì phải vội, cứ từ từ là được.”

“Trong kinh không thiếu quý nữ thì liên quan gì tới ta? Cô đừng có mà nói xằng nói bậy nữa.”

Hắn đột nhiên lại nóng nảy cau mày, ngữ điệu trầm xuống, ta bị hắn khiển trách liên tục nên đâm ra cũng căng thẳng bất an, không biết mình đã nói sai ở đâu, trong lòng có hơi nghẹn lại, chẳng dễ chịu gì cho cam.

Nhưng nghĩ tới chuyện hắn chuẩn bị phải ra đi, ta cũng không định so đo với hắn nữa, bèn chuyển sang chủ đề khác, nhẹ giọng hỏi: “Chỗ ngân phiếu này, ta có thể lấy một trăm lượng ra tiêu không?”

“Tất nhiên, cô muốn tiêu bao nhiêu thì tùy.”

“À không, chỉ cần một trăm lượng là đủ rồi.”

Ta thoắt cái vui vẻ trở lại: “Trước kia ta đi dọn hàng ở tiệm vải có trông thấy một cuốn lụa, giá phải mấy chục lượng ấy, gọi là vải Phù Quang với lụa dệt hoa gì đó. Ta đã nghĩ đến nó suốt ba năm rồi, thực sự muốn thử may quần áo từ chất liệu kia xem thế nào. Giờ nhị thúc đã có tiền, có thể cho ta may một bộ, Tiểu Đào một bộ, thái mẫu một bộ…”

Lúc người ta đang sung sướng không khỏi có hơi nhiều lời. Bùi Nhị nhìn ta đầy ẩn ý, bỗng nhiên nói chen một câu: “Cô có thể mua thêm vài cuộn, muốn mua bao nhiêu thì mua bấy nhiêu, về sau cũng vẫn như thế.”

Ta sững người, có hơi không hiểu ý hắn.

Một tia sáng lóe lên trong cặp mắt đen láy của hắn, hắn lại mở miệng hỏi ta: “Cô có còn thứ gì quên không đưa cho ta không?”

“Thứ gì cơ?” Ta hoang mang hỏi lại.

“Khí hậu trong kinh không khắc nghiệt như ở biên cương, thật ra những thứ ấy hơn nửa là không dùng đến. Nhưng nếu cô đã làm rồi thì cứ đưa cho ta đi, chưa biết chừng sẽ có lúc cần dùng cũng nên.”

“Nhị thúc nói cái gì vậy?”

“Bao đầu gối.”

Đầu ta nổ đoàng một cái, miệng cũng há ra thở d ốc.

Lần trước khi giúp hắn đo kích cỡ, trong giỏ kim chỉ của ta quả thực có một cặp bao đầu gối mới may xong, còn cả một tấm thảm bằng lông cừu màu đen nữa.

Ngặt nỗi chúng lại làm cho Trần tú tài.

Tú tài ba năm trước đi thi hương bị cảm lạnh, mà mấy tháng nữa là sẽ đến kỳ thi lại, vậy nên ta đã làm cho hắn một bộ bao đầu gối cùng với một tấm thảm, đều dùng lông cừu màu đen rất dày.

Nhưng giờ Bùi Nhị Lang đứng trước mặt lại bảo ta đi lấy cho hắn. Ta mở miệng toan giải thích, song lại chẳng thể nói nổi rằng đó là đồ làm cho người khác.

Thế là ta đành phải trở về phòng, lấy bao đầu gối cho hắn.

“Còn tấm thảm kia đâu?”

“Nhị thúc không dùng đến thảm, cứ để tạm trong nhà đã.”

“Có dùng đến, đi lấy đi.” Hắn không cho phép người ta kháng cự.



Lúc Bùi Nhị Lang rời đi, hắn vẫn khoác trên mình bộ giáp sắt đen đã từng mặc hôm về nhà.

Hắn cất lời cáo biệt thái mẫu.

Thái mẫu năm nay lại càng lẩm cẩm hơn năm trước, giận dữ dùng quải trượng đánh hắn: “Sao mày lại đi tiếp hở, mày đi rồi thì Tiểu Ngọc biết làm sao bây giờ, hai đứa khi nào mới có con được, mày đã ngần này tuổi rồi, thằng cháu trai đáng hận, mày rốt cuộc là có được không thế, phải nỗ lực hơn nữa vào…”

Tướng quân trẻ tuổi mặc bộ giáp sắt quỳ trước mặt bà, dáng vẻ bình thản ung dung, hai vành tai lại đỏ lựng.

Da đầu của ta căng lên, không dám liếc qua nhìn hắn mà chỉ tiến tới kéo thái mẫu về, vội vàng phân bua: “Đó là Nhị Lang, Nhị Lang mà, thái mẫu nhận sai người rồi.”

“Lại còn muốn gạt ta ư? Đừng có tưởng là ta ngốc, chính mắt ta trông thấy con và nó bái đường kìa. Có phải nó lại đuổi con đi không, nó bảo không cần con à? Con đừng sợ, xem ta đánh nó thế nào…”



Nhoáng cái đã lại đến đêm giao thừa.

Bùi nhị thúc về kinh đã được ba tháng.

Từ khi hắn đi, cuộc sống trước sau như một của ta bỗng lại có chút thay đổi.

A Hương đổ bệnh, không tới cửa tiệm trong suốt một thời gian dài.

Quả phụ Ngô từ thôn Đại Miếu lên đây, hỏi thăm về Hàn tiểu tướng.

Thế nên ta mới biết, trong khoảng thời gian đám người Hàn tiểu tướng ở lại thôn Đại Miếu, đã từng ăn không ít thức ăn mà quả phụ Ngô mang sang.

Sau đấy, Hàn tiểu tướng ỷ vào vài phần nhan sắc, qua đêm với quả phụ Ngô.

Lại còn hứa hẹn sẽ cưới người ta.

Kết quả là khi cùng Bùi nhị thúc về kinh, hắn ta lén lút chuồn đi mà chả thèm chào một tiếng.  

Ta không khỏi nói với Ngô Thúy Liễu: “Sao tỷ có thể tin lời hắn nói được chứ, hắn ta cũng đâu phải thứ đàn ông tốt đẹp gì.”

“Hầy, đàn ông làm gì có mấy ai tốt đẹp đâu. Dù sao ta cũng mặc kệ, hắn đã hứa sẽ cưới ta, cho dù có trốn đến chân Hoàng Đế ta cũng phải tìm ra hắn.”

“Tìm ra rồi thì sao nữa, nếu như hắn ta nhất định không chịu cưới tỷ thì sao?”

“Ta sẽ thiến hắn.”

“…”

Sau đó Ngô Thúy Liễu thực sự thu dọn một ít hành lý, một mình lên kinh.

Bùi Tiểu Đào giơ ngón cái sau lưng tỷ ấy: “Thím Ngô giỏi quá, dám lên kinh thành thiến quan, quả không hổ là người đã ăn hai cái phao câu nhà chúng ta.

“Đúng là tấm gương mẫu mực cho chúng ta noi theo! Tuyệt vời!”

Ta lạnh lùng nhìn con bé: “Hôm nay không đi học à?”

“Thầy tú tài không phải sắp sửa đi thi rồi sao, tiên sinh dạy học mới của bọn muội còn chưa tới.”

“Thế ra hậu viện rửa bát đi.”

“… Hu hu hu, được rồi.”

A Hương bị bệnh một thời gian, công việc chồng chất, ta thật sự lo không xuể, đành phải tuyển một tiểu nhị chạy vặt cho cửa tiệm.

Tiểu nhị rất có năng lực, ta cũng nhẹ gánh đi nhiều, buổi trưa rảnh rỗi đi thăm A Hương, trên đường trở về còn ghé qua tiệm vải Kinh Vân mua hai cuộn vải.

Đó là loại vải Phù Quang mà ta vẫn hằng mong ước, sặc sỡ lung linh, nhìn mà lóa mắt.

Ta hạnh phúc ôm vải về, ngồi lỳ trong phòng may vá cả chiều.

Nửa tháng sau, Triệu đại thúc tới cửa tiệm tìm ta. Một nha dịch cường tráng như thúc ấy, nhìn thấy ta lại đỏ cả hai mắt, quỳ xuống đất cầu xin ta cứu A Hương nhà họ.

Ta tức thì nhíu mày, mời thúc ấy ngồi xuống từ từ nói.

Triệu đại thúc bảo tình hình A Hương dạo này không tốt, hôm nay mời đại phu tới xem, đại phu lại nói đó là u tim.

Bệnh này không cứu chữa được.

Lòng ta bỗng dưng thắt lại. Mấy hôm trước thăm A Hương, quả thực nàng ấy vô cùng gầy yếu, vẻ mặt cũng rất khó coi, môi tái nhợt không huyết sắc.

Lúc ấy Triệu đại thúc không ở đó, A Hương nói với ta là đã mời đại phu rồi, đại phu bảo khí huyết hư, tĩnh dưỡng một thời gian là sẽ ổn.

Ta còn bỏ mấy lượng bạc đến y quán, mua một củ nhân sâm thật bổ cho nàng ấy.

Triệu đại thúc nói, bệnh của A Hương là tâm bệnh, nếu như Nhị Lang không trở lại, nàng ấy e là sẽ không trụ được.

Ta nghe thế thì ngây ngẩn cả người.

A Hương thích Bùi nhị thúc.

Bắt đầu từ khi nào vậy?

Triệu đại thúc quen biết cha Bùi đã lâu, trước kia thường hay đưa con gái A Hương tuổi còn nhỏ tới cửa tiệm nhà họ Bùi ăn tào phớ.

Khi ấy nàng vẫn còn là một cô nương hoạt bát, chân chưa bị què.

Đại Lang nhà họ Bùi thích đọc sách, thường tới trường tư thục học.

Nhị Lang từ nhỏ đã là thành phần bất hảo, cũng không chịu ngoan ngoãn phụ việc ở trong cửa tiệm.

Cha Bùi lúc nào cũng phải gác lại việc làm ăn để chạy quanh huyện tìm hắn.

Bởi vì những khi không hỗ trợ cửa tiệm, hơn nửa là hắn cũng chẳng chịu ngồi yên trong nhà, thường xuyên trà trộn vào đám lưu manh du côn ở khắp làng trên xóm dưới, lang thang bên phía cổng Tây ngoài thành.

Cha Bùi sợ hắn gây chuyện cho nên lần nào túm được cũng lôi hắn về cửa tiệm, tức giận mắng mỏ hắn không nên thân.

Còn A Hương thì vừa ăn tào phớ, vừa xem hắn bị ăn mắng.

Thiếu niên mặt mũi bướng bỉnh, đôi khi trên mặt còn có vài vết bầm tím, trông có vẻ rất không phục, trợn tròn hai mắt sau lưng cha mình.

A Hương nhịn không được mà cười khúc khích.

Thế là Nhị Lang nhướng mày nhìn nàng, trong đôi mắt đen như mực lộ rõ vẻ nghịch ngợm của tuổi trẻ. Hắn hung hăng nói…

“Cười cái khỉ gì!”

A Hương có hơi hoảng sợ, nép vào người Triệu đại thúc, lại thấy cha Bùi cầm muỗng dài gõ lên đầu hắn: “Tiểu tử thối, đừng có bắt nạt A Hương.”

Cha Bùi làm lụng suốt nửa cuộc đời, kỳ thực vẫn luôn muốn truyền nghề lại cho Nhị Lang.

Tiếc là Nhị Lang quá khó quản giáo, vậy nên ông liền nghĩ đến chuyện sau này tìm một nhạc phụ thật sự lợi hại cho hắn.

Vị nhạc phụ ấy chính là Triệu đại thúc.

Triệu đại thúc mà ta gặp sau này chỉ là một nha dịch rất đỗi bình thường.

Nhưng khi xưa thúc ấy đã từng là một bộ khoái cực kỳ uy phong, suốt ngày tuần phố quản án, đối phó với đám lưu manh du côn kia cũng chưa nương tay bao giờ.

Mà trên đời này lại có vô số kẻ cùng hung cực ác.

Một hôm Triệu đại thúc trở về nhà, không thấy con gái A Hương mười một tuổi đâu thì liền phát hoảng.

Mấy tay ác ôn, vì ghi hận Triệu Cát mà bắt trói khuê nữ của ông.

Trong một ngôi miếu đổ nát ở khu đất hoang ngoài cổng Tây của huyện, chúng đánh gãy chân trái của cô gái nhỏ, muốn cưỡng bức nàng.

May mà nàng gặp được Bùi Nhị Lang đang trên đường trở về nhà, tình cờ đi ngang qua đó.

Nhị Lang đương nhiên là có biết mấy kẻ kia. Trông thấy hắn, bọn chúng cảnh cáo bằng ánh mắt hung ác: “Bùi Ý, đừng có xen vào việc của người khác, cút đi mau.”

Thiếu niên mặt mày lạnh ngắt, chỉ liếc mắt một cái rồi bỏ đi.

A Hương nước mắt giàn giụa, run rẩy trong cơn tuyệt vọng, khóc không ra tiếng.

Rồi trong lúc những kẻ kia đang cười cợt xé rách quần áo của nàng, A Hương lại thấy Bùi Nhị Lang đi một vòng trở đã về, tay lăm lăm một viên gạch, sắc mặt hiểm ác, hung tợn đập vào đầu một tên trong số đó.

Động tác của hắn vừa nhanh lẹ vừa tàn nhẫn. Hắn đánh liên tiếp mấy đòn, âm thanh trầm đục vang lên, máu bắn tung tóe vào mặt.

Đến lúc có người lấy lại tinh thần thì kẻ kia đã chết ngoẻo, phần đầu máu thịt lẫn lộn, còn loáng thoáng thấy được bộ óc màu trắng bên trong.

Một mạng người đã ra đi, ngôi miếu nát nơi đất hoang nháy mắt yên tĩnh trở lại.

Giữa màn đêm đen kịt, Bùi Nhị Lang cõng A Hương đến nhà nàng, thả xuống rồi rời đi ngay.

Sau đó hắn về nhà, hỏi cha hắn, đánh chết người rồi thì phải làm sao bây giờ?

Sau đó nữa, Nhị Lang đến quân doanh, Triệu đại thúc nói với bên ngoài là A Hương què chân do bị ngã trước cửa nhà.

Nhưng A Hương vẫn luôn nhớ rõ bờ vai dài rộng và mạnh mẽ của thiếu niên kia.

Cũng nhớ rõ ở cửa tiệm tào phớ, hắn nhướng đôi mày rậm, hung dữ mắng nàng: “Cười cái khỉ gì!”

Hắn vẻ ngoài ngang bướng, mặt mày ngỗ ngược, nhưng thực sự rất đẹp mắt.

À phải rồi, Bùi bá bá đã từng nói đùa với cha nàng, bảo là sau này sẽ để Nhị Lang lấy nàng làm vợ.

Chỉ là sau khi Nhị Lang ra đi, vẫn chưa một lần trở lại.

Đám tang Bùi bá bá cũng không thấy mặt hắn đâu, nghe nói là vì hắn bị điều tới biên quan, là binh lính nhỏ tuổi nhất trong doanh trại, không được lòng mọi người, cũng không có tư cách xin nghỉ về thăm người thân.

Mấy năm sau, Đại Lang thành thân, cuối cùng hắn cũng trở về.

Nhưng A Hương vẫn không có cơ hội gặp hắn. Nàng là một kẻ què quặt rất hiếm khi ra khỏi cửa, mà hắn ở nhà chỉ được mấy ngày là đã vội vã lên đường.

Bùi bá bá đã qua đời, không ai nhắc lại chuyện để Nhị Lang lấy nàng làm vợ nữa.

Ngay cả cha hắn cũng chưa từng đề cập tới việc này. Chuyện cũ kia qua đi rồi, vẫn để lại một lằn ranh, vĩnh viễn chia cách Nhị Lang và nàng.

Nàng chỉ là một con què, không xứng với Nhị Lang.

Những người đã quen sống ở dưới đáy, chưa từng nảy sinh hi vọng, cũng chưa từng tìm cách bò lên, có lẽ sẽ không có nhiều mong ước xa vời đến thế.

A Hương liều lĩnh lấy toàn bộ tiền hồi môn của mình ra mở cửa tiệm, không chỉ là vì chính nàng, mà còn là vì Nhị Lang.

Làm việc với quả tẩu nhà họ Bùi, chính là cơ hội duy nhất để nàng tiếp cận Nhị Lang.

Mà sự thật quả nhiên cũng thế, sau khi cửa tiệm khai trương được ba năm rưỡi, rốt cuộc nàng cũng gặp lại Nhị Lang.

Nào có ai hay, nàng đã phải dùng bàn tay đang run lẩy bẩy bấu lên cái chân trái què của mình, đau đến chết lặng, dùng rất nhiều sức mới có thể duy trì được vẻ bình tĩnh, trưng ra được một nụ cười.

Nhị Lang đã thành tướng quân, không còn là cậu thiếu niên ngang ngạnh quái đản kia nữa.

Hắn trầm ổn, sắc bén, đôi mắt thâm trầm.

Hắn từng vì nàng mà giết người, nhưng dường như hắn đã quên mất nàng là ai. Khi quả tẩu giới thiệu đây là A Hương cô nương nhà Triệu đại thúc, hắn chỉ liếc nhìn thoáng qua, trong mắt không hề gợn sóng.

Sau đó, từ đầu tới cuối, hắn chưa từng nhìn nàng thêm lần nào nữa.

Giấc mộng thủa niên thiếu, đến lúc phải tỉnh lại rồi.

Sợi dây căng lên trong tim suốt ngần ấy năm, cuối cùng cũng đã đứt phựt.

Dây đứt rồi, người cũng đột nhiên mất hết ý chí, không thể gượng dậy nổi nữa.

Nhị Lang đi mất, nàng liền lâm bệnh.

Triệu đại thúc khóc đỏ mắt: “Con bé ngoan cố quá. Ta đã sớm bảo nó rồi, chưa nói đến việc Nhị Lang bây giờ đã là tướng quân, cho dù thằng bé có không làm tướng quân, chỉ là một người lính bình thường đi chăng nữa thì chúng ta cũng không xứng với người ta. Một nam tử như Nhị Lang, sao có thể lấy một cô gái què cơ chứ.

“Con bé tưởng rằng có thể che giấu được tâm tư đó của mình, ta cũng nghĩ thôi thì cứ kệ nó vậy, bao nhiêu năm đã qua, nếu vẫn không gặp Nhị Lang thì nó sẽ không bao giờ hết hi vọng. Nhưng mà ta lại không ngờ, gặp được người rồi, nó không chỉ hi vọng hết mà thân thể cũng không chịu đựng nổi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.