Trong thành Phong Kính bắt đầu nổi tuyết hoa, ở chỗ này cũng không giống phương bắc rét lạnh, mùa đông nơi đây tuyết rơi rất ít.
Cho dù tuyết rơi, bông tuyết cũng là ôn nhu, nhẹ nhàng trên không trung phiêu đãng, chậm chạp mềm nhẹ mà rơi trên đất, dừng trên ngói lưu ly, dừng ở trên cây, dừng trên mặt nước…
Sở Tụ từ trong vườn trúc một đường đi tới, phía sau là cung nhân đang che ô.
Một đường đi rất nhanh, nên rất nhanh đã tới Thiên Kỳ điện.
Từ Thừa An năm đầu đã chuẩn bị dời đô, Thừa An năm thứ hai Mạc Hoàng đế tuyên cáo đem Phong Kính thành tu kiến thành đô thành Đại Thừa đế quốc, sau đó dời đô đến Phong Kính thành, cũng có lợi cho thống trị đế quốc, đạt tới nam bắc thống nhất.
Chuyện này tại trong triều thậm chí cả nước nhấc lên một trận gió bạo, có tán thành có phản đối.
Kỳ thật, bởi vì công bộ sớm đã bắt đầu khảo sát Phong Kính thành và các khu vực xung quanh, đồng thời còn đem Phong Kính thành tân trang đến không sai biệt lắm, rất nhiều người đã suy đoán ý tứ dời đô của Hoàng đế, cho nên thời điểm Hoàng đế tuyên cáo, cũng không có làm cho người ta thực ngoài ý muốn.
Nhưng là, quý tộc phương bắc ở phương bắc đến thâm căn cố đế, dời đô đối với bọn họ cũng không có bao nhiêu lợi ích, ngược lại còn có lợi để mở rộng phương nam, mà phía nam đã thực hiện điền chế*, Hoàng đế cũng không có ý tứ đem đất phía nam phân đất phong hầu cho quý tộc, đối với chuyện dời đô, đương nhiên là phản đối. Nhưng mà, vì để phát triển quốc gia, dời đô là chuyện phải làm.
(*) Chế độ ruộng vườn.
Nam Cẩm lục châu ban đầu còn lo lắng khi nhập vào Thừa quốc sẽ không có đãi ngộ công bằng, sau có điền chế làm bọn họ thả tâm, hiện tại, đời đô lại càng làm bọn họ an tâm, mọi người hướng đến tình cảnh trăm năm giàu có đông đúc trước kia, cho nên nam Cẩm lục châu đều ủng hộ dời đô, hơn nữa còn nguyện ý xuất ra nhân lực để tu kiến.
Mặc dù có cản trở, nhưng Hoàng đế vốn là người có thái độ kiên quyết ý chí kiên định, hắn tuyên cáo sự tình xuống dưới cũng tương đương với đã định rồi.
Sau, Phong Kính thành bắt đầu khởi công tu kiến, dùng thời gian sáu năm, đô thành nơi này đã trở nên hùng vĩ và phồn hoa.
Bắt đầu từ Thừa An năm thứ bảy, rất nhiều quan viên và gia quyến đã tiến hành chuyển dời đến Phong Kính thành, đến Thừa An đầu năm thứ tám, cả triều đã đến Phong Kính thành, Hoàng đế bắt đầu ở Phong Kính thành hướng con dân Đại Thừa đế quốc tuyên bố chiếu lệnh.
Đô thành Quỳnh Anh ban đầu đổi thành Bắc đô nhưng nó vẫn phát huy tác dụng của nó, Hữu Thừa tướng cùng Đại hoàng tử ở lại Quỳnh Anh tiếp tục xử lý sự vụ còn dở.
Dời đô cũng là một quá trình thong thả.
Phong Kính thành cũng không phải một ngày làm nên, ở nơi này tương lai củaĐại Thừa đế quốc sẽ trở thành một đô thành hùng vĩ phồn hoa. Ban đầu thành thị chỗ đây không rộng rãi, các loại kiến trúc bên trong còn chưa hình thành, các vị đại thần chuyển trước đến đây cho rằng vào Phong Kính thành sẽ chịu khổ. Thậm chí quý tộc phương bắc còn đem gia quyến đuổi về đất phong mà không muốn bọn họ ở nơi chưa xây xong này.
Tuy rằng thành Quỳnh Anh được xưng là Bắc đô, nhưng vẫn phồn hoa như trước, là thành thị lớn nhất phương Bắc, gắn liền nam bắc, hơn nữa Thừa quốc đã cùng Đột Quyết thành lập liên kết thương mậu, vả lại còn cùng phía Tây có thương lộ lui tới. Quỳnh Anh Thừa quốc là địa vị trọng yếu của các quốc gia phương Tây và Đột Quyết, cho nên nó nhất định luôn luôn phồn vinh, cho dù không phải là đô thành của quốc gia.
Hoàng đế không muốn Sở Tụ đi theo chính mình đến Phong Kính thành chưa xây dựng tốt để chịu khổ, hơn nữa Quỳnh Anh cần phải lưu lại đại thần mà Hoàng đế tín nhiệm để khống chế toàn cục, nên đương nhiên Sở Tụ phải ở lại.
Đại Hoàng tử từ mười sáu tuổi đã bắt đầu tham dự triều chính, đến bây giờ đã được bốn năm. Hắn là một người cần mẫn hiếu học, khiêm tốn trầm ổn, Hoàng đế luôn có ý định lập hắn vi Thái tử. Hắn làm việc cũng thực cần cù cố gắng, cẩn trọng, bởi vì từ đầu đã đi theo Sở Tụ, nên đến nay vẫn luôn kính trọng Sở Tụ như ân sư, Sở Tụ đối với xưng hô lão sư cũng coi như nhận lấy, trong đó không thiếu ý tứ lấy lòng Sở Tụ tiến tới lấy lòng Hoàng đế, nhưng là, Hoàng đế và Sở Tụ vẫn luôn coi trọng hắn.
Đây cũng là nguyên nhân hắn bị lưu lại. Mà cũng là khảo tra của hắn, cho hắn thêm rèn luyện.
Thời điểm lập đông, bông tuyết phương Bắc đã muốn bay lượn, trời giá rét mà đông lạnh, Hoàng đế liền phái vài vị đại thần tâm phúc lưu lại Quỳnh Anh phù tá Đại hoàng tử, rồi triệu Sở Tụ đến Phong Kính thành trú đông.
Vì dời đô, con đường từ Quỳnh Anh đến Phong Kính sớm đã được mở rộng, làm giảm bớt áp lực cho thủy lộ từ Quỳnh Anh đến đô thành.
Do trời giá rét, phần lớn sông ngòi ở phương bắc đều đã đông lại, ban đầu Sở Tụ ngồi xe ngựa sau đó mới ngồi thuyền đến Phong Kính thành, thời điểm bình thường chỉ dùng mười ngày lộ trình, nhưng cậu lại dùng mười lăm ngày mới đến, bởi vì đông lạnh cùng với đi đường mệt nhọc, cậu đến Phong Kính thành bị bệnh hơn mười ngày mới tốt.
Đợi đến khi hết bệnh, trời đả sắp đông chí.
Đây là lần đầu tiên Phong Kính thành tiến hành làm tế tự đông chí, là đại sự của toàn bộ hoàng tộc, nên Hoàng đế rất để tâm, cho lễ bộ vội càng chuẩn bị hết thảy.
Sở Tụ đến Phong Kính thành lại không có cách nào nhàn rỗi, khi sinh bệnh cũng phải xem sổ con, cùng các đại thần khác thương lượng chuyện tình. Hết bệnh rồi, cậu còn đặc biệt phải đi hết ngõ ngách trong thành. Cơ bản ý tưởng cấu trúc của Phong Kính thành cậu đều tham gia, căn cứ vào địa hình đặc điểm, đem nó thiết kế thành một thành lũy chắc chắn, lúc này mọi người đều thẳng thắn tán thành, ngay ngã tư đường là một đường thẳng song song, giao nhau thành một góc vuông.
Vũ Trúc viên là một cái vườn ở ngoại điện trong hoàng cung gần với nơi Hoàng đế dùng để xử lý công vụ, bên trong được tu sửa tinh xảo, phong cảnh hùng vĩ đại khí ngoài điện cũng kém khá xa, nhưng Hoàng đế lại kiên trì muốn tu sửa một cái vườn như vậy.
Sau khi Sở Tụ đến Phong Kính thành, Vũ Trúc viên được dùng làm phủ Thừa tướng cho Sở Tụ khi cậu vội tới, cậu phải xử lý công vụ và thương lượng sự tình với thủ hạ và phụ tá của cậu, cho nên cậu ở luôn tại Vũ Trúc viên.
Hoàng đế cũng không lại đem Sở Tụ trở thành bí thư* bên người, mà là cho cậu một cái danh phù kỳ thực Thừa tướng.
(*) Thư kí bí mật.
Tại đây có cảm giác an toàn, mà đồng thời còn cho nhau thời gian tín nhiệm, mỗi người đều có một khoảng cách nhất định để kiềm giữ cơ mật của chính mình, có thêm sự nghiệp ngược lại càng có thể bảo trì quan hệ của hai người.
Thiên Kỳ điện là nơi xử lý công vụ của Hoàng đế, hậu điện nơi đây có tẩm phòng nghỉ ngơi, nên Hoàng đế vẫn luôn ở chỗ này.
Bắt đầu từ mấy năm trước, Hoàng đế đã không còn tuyển chọn tú nữ, đồng thời còn tiến hành phân phát hậu cung. Đầu tiên là nam sủng trong Lan Uyển cung, sau đó là các phi tử có địa vị thấp không con nối dõi, sau là cung phi có địa vị có con nối dõi cũng được chuyển hết.
Nhóm công chúa trưởng thành đều được đi ra ngoài, mẫu phi các nàng cũng đi theo nữ nhi; Mười sáu vị Hoàng tử cũng được phong Vương rồi ra ngoài cung, mẫu phi cũng ra ngoài ở cùng nhi tử.
Đến khi dời đô đến Phong Kính thành, trong cung cũng chỉ còn lại mẫu phi của tiểu công chúa cùng tam hoàng tử, mẫu phi tứ Hoàng tử hơn nữa còn tiểu hoàng tử của Phượng Phi.
Hoàng đế phân phát hậu cung, tự nhiên có rất nhiều người bất bình khó chịu, nhưng là Hoàng đế làm việc luôn luôn ngoan tuyệt, có vài vị đại thần bị tước chức, còn có người thật sự dập đầu chết trong đại điện. Thượng thư mắng Hữu Thừa tướng ngôn quan sau đó cả nhà bị lưu đày, lúc ấy cũng không có người nào dám phản đối.
Khi dời đô, Hoàng đế cùng Sở Tụ tạm thời phải tách xa nhau, nên bắt đầu có đại thần hết lòng muốn cấp mỹ nhân cho Hoàng đế, bất quá, Hoàng đế cũng không có nhận, sau đó, các đại thần vốn đánh chủ ý lên người Hoàng đế cũng tích cực như ban đầu.
Hơn nữa Sở Tụ muốn đi gặp Hoàng đế báo cáo chính vụ của Quỳnh Anh, cách một đoạn thời gian sẽ tới Phong Kính thành một chuyến, cũng giải quyết nỗi khổ tương tư của hai người.
Qua nhiều năm như vậy, quan hệ của Hoàng đế và Sở Tụ không có rạn nứt, hơn nữa còn phát triển đến mức Hoàng đế chỉ cần mỗi một mình Sở Tụ. Năm đó những người muốn chê cười Sở Tụ còn cảm thấy bất khả tư nghị, mà đại đa số người còn có thái độ xem trọng đoạn tình cảm này.
Quan hệ của Hoàng đế và Hữu Thừa tướng coi như là bí mật công khai của Đại Thừa đế quốc, nhóm dân chúng cảm kích cuộc sống thái bình thịnh thế này, cảm kích Hoàng đế trị thế, cũng cảm kích Hữu Thừa tướng đại nhân vì dân chúng mưu phúc, thật ra bọn họ thật tình chúc phúc Hoàng đế cùng Hữu Thừa tướng có thể mỹ mãn.
Bên trong hậu điện Cảnh Nghiên có đốt noãn lô, cửa sổ được đóng lại, thật ấm áp.
Sở Tụ vào noãn các, có cung nữ hầu hạ cởi áo choàng, ngồi trên tháp thượng đổi hài thành miên hài dày ấm bên trong.
“Mặt lạnh như thế, áp mặt đi!” Hoàng đế đem khăn nóng cung nữ đưa tới bọc đến trên tay Sở Tụ, Sở Tụ xoa xoa mặt, xua đi lãnh ý rất nhiều.
“Đã nói không cần qua, ngươi còn muốn đi. Truyền bọn họ chạy tới là được, nhiễm lạnh lại khó chịu.” Thanh âm Hoàng đế bình tịnh có chút đau lòng mà nói, bưng trà đưa cho Sở Tụ, Sở Tụ uống xong liền nắm tay Sở Tụ, ấp trong tay mình.
“Tuyết ngừng ta mới đi qua, không nghĩ tới tuyết lại rơi xuống.” Sở Tụ tùy ý Hoàng đế ôm mình, cười nói.
Thái giám cung nữ trong phòng đều lui sạch sẽ, Hoàng đế ôm thân Sở Tụ vì mới đi tuyết mà hồng cái mũi cùng hai má.
“Ta đói bụng, dùng bữa tối sớm một chút đi!” Sở Tụ bị Hoàng đế ôm mà có chút ngứa, nghiêng đầu nói.
“Vậy dùng bữa tối! Chuẩn bị canh thịt nai nhân sâm, ngươi phải uống nhiều chút!”
Sở Tụ nghe được canh thịt nai nhân sâm thì giương mắt liếc nhìn Hoàng đế một cái, Hoàng đế nhìn thấy động tác nhỏ này của cậu nhưng thật ra lại rất vui sướng, ôm Sở Tụ hôn hôn mấy cái mới thả ra.