“Nếu ngôi mộ cổ này thật sự là nguồn âm vọng, thế thì cũng dễ xử lý.” Tuyên Cơ lẩm bẩm một câu, đưa một tay ra, nâng quả cầu lửa ly hỏa trắng như tuyết, ném lên ném xuống trên tay, “Mặc dù không rõ nguyên lý, nhưng có một núi củi, đủ nấu một nồi cơm to rồi.”
“Cũng đủ hầm một con gà.” Thịnh Linh Uyên nắm cổ tay hắn, “Đừng làm bừa, nếu thật là thiên ma tế, phản phệ không phải chuyện đùa đâu.”
Tuyên Cơ hỏi: “Năm Khải Chính thứ mười, Mạnh Hạ có chuyện gì vậy? Nếu ngôi mộ núi Bích Tuyền có liên quan tới bà ta, tại sao bên trong toàn là văn tự yêu tộc?”
Thời điểm thiên ma kiếm mới gãy, hắn chỉ có thể ngơ ngơ ngác ngác đi theo bên cạnh Thịnh Linh Uyên, tĩnh dưỡng mấy năm mới khôi phục thần trí, ngoài việc Thịnh Linh Uyên lấy máu rèn kiếm hết lần này tới lần khác, rất nhiều chuyện hắn đều không nhớ rõ lắm. Mà về sau, khó khăn lắm mới tỉnh táo hơn được mội chút, Đan Ly chết, hắn lại rời khỏi Thịnh Linh Uyên đi trông giữ Xích Uyên – đó là chuyện của năm Khải Chính thứ sáu.
Cho đến khi Thịnh Linh Uyên nhảy xuống Xích Uyên, Tuyên Cơ mới lại lần nữa có được thực thể. Trong hơn mười năm này đã xảy ra chuyện gì, người kia sống như thế nào, Tuyên Cơ không tận mắt thấy, chỉ có thể biết một chút manh mối từ ghi chép về sinh hoạt thường ngày còn sót lại trong Độ Lăng cung.
“Do ta khi ấy còn quá nhỏ, không phân biệt được nam nữ à?” Tuyên Cơ nói, “Ta không nhớ rõ diện mạo Mạnh Hạ lắm.”
Mạnh Hạ luôn đi theo Đan Ly, làm thị nữ cho ông ta, không danh không phận, hơn nữa Đan Ly cũng luôn độc thân. Vậy nên lúc ấy, mọi người rảnh quá không có việc gì làm, đều buôn dưa lê rằng bà ta là hồng nhan tri kỷ của đế sư. Mấy năm đầu lang bạt khắp nơi cùng Đan Ly, thời điểm thu nạp các bộ của nhân tộc, giữa một đám đàn ông nhếch nhác, cho dù bà ta không phải “hồng nhan” mà là Dạ Xoa, thì cũng là bông cỏ đuôi chó mọc lên giữa vũng bùn, tương đối chói mắt.
Nhưng nhớ lại, lúc ấy để trốn tránh truy sát, họ thường nghỉ chân ở nơi núi rừng hoang vu, ăn uống bài tiết, thậm chí đôi khi đám thị vệ còn trực tiếp cởi hết nhảy xuống sông tắm rửa, vậy mà không một ai cảm thấy ở cùng phụ nữ có điều gì bất tiện. Sớm chiều sống chung, cũng chưa từng nghe nói ai nảy ra suy nghĩ không an phận gì với bà ta. Nếu như không phải cần tìm bà ta chuyển lời cho Đan Ly, hình như bình thường mọi người đều không nhớ có một người như vậy tồn tại.
Tuyên Cơ ngó Thịnh Linh Uyên, bụng nghĩ: Người xung quanh nhân hoàng đều đoạn tụ hết à? Lại coi một đại mỹ nữ như máy ghi âm lời nhắn.
Thịnh Linh Uyên: “Ta cũng không nhớ…”
Tuyên Cơ đang thất thần, buột miệng nói: “Ngươi thì đúng là là đoạn tụ.”
Thịnh Linh Uyên: “…”
Gì đây? Tên người chim này suốt ngày suy nghĩ mấy thứ gì trong đầu vậy?
Tuyên Cơ vội vàng chữa lại: “Không không không, ý ta là bệ hạ thanh liêm, chính trực, thậm chí chẳng bàn tán đến danh tính của đại cô nương sau lưng người khác bao giờ, gặp người phụ nữ của đế sư chắc chắn sẽ không nhìn chằm chằm, không nhớ mặt mũi tròn méo ra sao là chuyện bình thường.”
Nhưng nói đùa thì nói đùa, Tuyên Cơ cũng biết, Thịnh Linh Uyên cả đời tiếp xúc với bao nhiêu kiểu người, muốn nhớ mặt người ta căn bản không cần phải nhìn chằm chằm. Khi đi lướt qua liếc một cái, nhiều năm sau hắn cũng có thể nhận ra, huống gì người phụ nữ luôn bên hắn suốt quãng thời gian trưởng thành. Lúc nhỏ, Đan Ly dạy họ đọc sách viết chữ, việc vặt hằng ngày của tiểu điện hạ đều do Mạnh Hạ lo liệu. Một nhân vật xấp xỉ mẫu thân như vậy mà khi nhắc tới bà ta, ngoại trừ việc bà ta rất dịu dàng, cẩn thận, hắn lại không còn bất kỳ cảm xúc nào khác.
Bà ta như một vật tách biệt, trên người có kết giới nào đó, không cho mọi người có sự liên kết với mình.
“Do là ảnh nhân à?” Tuyên Cơ hỏi, “Ví dụ như Đan Ly chỉ thích kiểu không có cảm giác tồn tại như vậy, ảnh nhân theo ý thích của ông ta, tự tỏa ra không khí ‘người lạ chớ tới gần’?”
Thịnh Linh Uyên chậm rãi lắc đầu: “Ta luôn hoài nghi Mạnh Hạ không phải ảnh nhân của Đan Ly.”
Tuyên Cơ: “Tại sao?”
Bởi vì… Thịnh Linh Uyên liếc Tuyên Cơ một cái. Hơn hai mươi năm mưa dầm thấm đất, Đan Ly thành công bồi dưỡng hắn thành phiên bản của mình. Thịnh Linh Uyên kiêng kị ông ta, căm hận ông ta, nhưng cũng có thể hiểu được trong lòng ông ta đang nghĩ gì. Đến nay, rất nhiều thói quen và sở thích của Thịnh Linh Uyên đều rất giống Đan Ly. Hắn luôn cảm thấy, nếu Đan Ly có tình cảm thế tục, ông ta ắt sẽ thích người sôi nổi một chút, có sức sống hơn, chứ không phải một cái bóng nhắm mắt theo đuôi.
Mạnh Hạ và ông ta ở bên nhau cứ có cảm giác là lạ.
Thịnh Linh Uyên: “Khi ta sai người bí mật bắt giam Đan Ly, bà ta không có mặt ở đó. Về sau, khi nhận được tin tức, bà ta lại tự mình bỏ chạy. Phải biết rằng, trừ phi là di lệnh của chủ nhân, nếu không ảnh nhân luôn sống chết bên chủ nhân. Phu thê trên thế gian gặp phải tai họa, mỗi người một ngả thì cũng đành, chưa từng nghe nói quan hệ người ảnh cũng không bền chắc như vậy. Đây là điều thứ nhất.”
“Nếu là Đan Ly bảo bà ta chạy thì sao?”
“Khi còn giữ chức, Đan Ly từng dâng tấu nói phải xử lý thích đáng ảnh nhân mất chủ. Nhưng lúc đó do chuyện của ngươi, mọi điều ông ta nói ta đều không muốn nghe.” Thịnh Linh Uyên lắc đầu, “Sau đó, khi ảnh nhân thành họa, không thể không xử lý, phù chú và thuật truy tung đặc thù dùng để tra rõ ảnh nhân mất chủ trên toàn quốc cũng là do ông ta để lại từ trước. Mặc dù Đan Ly… nhưng cũng không đến mức tự mâu thuẫn trước sau.”
“Nếu bà ta không phải ảnh nhân, sao Đan Ly lại như hình với bóng với bà ta, không thể thật sự là vợ ông ta chứ?” Tuyên Cơ đột nhiên nhớ tới điều gì đó, “Khoan đã, văn tự yêu tộc… yêu tộc?”
Thịnh Linh Uyên gật đầu: “Thật ra ta luôn nghĩ, khi công chúa liều mình hiến tế, bà ta mong muốn điều gì? Tượng thần chu tước chịu tải tất cả oán hận của tộc chu tước, quỷ thần khó lường. Nếu ta là bà ta, liệu ta sẽ toàn tâm toàn ý tin tưởng, giao mạng cho ông ta, không đề phòng chút nào hay sao?”
“Cho nên ý của ngươi là, Mạnh Hạ thật ra là ảnh nhân của công chúa yêu tộc? Bà ta để lại nhằm giám sát Đan Ly?”
“Ta từng hạ lệnh xử lý rất nhiều ảnh nhân mất chủ, bọn họ sẽ giữ nguyên hình thể lúc trước, nhưng sau khi chủ nhân chết, đôi khi sẽ có một bộ phận đặc trưng trở về hình thái trước khi nhận chủ. Có ảnh nhân có thể một lần nữa tan vào gỗ đá, tạm thời trở lại trạng thái ‘ảnh’; có ảnh nhân sẽ trở nên dễ bị người ta lơ là, nó ngồi trước mặt ngươi, có thể ngươi cũng không chú ý đến.”
Tuyên Cơ lập tức hiểu ra: “Nếu bà ta là ảnh nhân của công chúa, vậy thì có thể giải thích thời điểm thiên ma tế, bà ta tiến vào thần miếu trước tất phương bằng cách nào: bà ta có thể tan vào tượng thần! Chu tước là mẫu tộc của công chúa, cho nên bà ta có thể tạo giả lừa được tất phương. Ngươi làm thế nào bắt được bà ta, xác định bà ta chết rồi chứ?”
“Thuật truy tung Đan Ly để lại dùng tóc và máu ảnh nhân làm vật dẫn. Lấy được hai loại này, chỉ cần ảnh nhân lộ diện là bên phía chúng ta có thể biết được vị trí của bà ta.” Thịnh Linh Uyên nói, “Ta dùng hẳn một nhánh ám vệ, truy sát bà ta suốt bốn năm. Trong bốn năm này, thuật truy tung có phản ứng tám mươi mốt lần, nhưng lần nào cũng chậm một bước. Nếu không phải cuối cùng bà ta chán sống, tự tiện xông vào Xích Uyên, có lẽ ta còn chưa bắt được bà ta.”
Thời điểm chiến tranh mới kết thúc, lửa Xích Uyên vẫn chưa tắt, nhân tộc phái trọng binh canh gác, trận pháp vòng ngoài tầng này lồng tầng kia. Cho đến ba ngàn năm sau, năng lượng của những pháp trận ấy đều đã tiêu hao gần hết, nhưng một chút di tích sót lại vẫn hù được đám hậu bối Cục Dị khống bây giờ, có thể thấy lúc ấy nghiêm ngặt cỡ nào.
“Khi đó, tại sao bà ta phải mạo hiểm đến Xích Uyên?”
Thịnh Linh Uyên nhíu mày.
Tuyên Cơ nổi da gà: “Hoặc là, ta đổi một cách hỏi khác, bà ta lấy vạc đồng thau và di hài thiên linh đi làm gì?”
Tuyên Cơ từ lúc chưa nở đã bị bóc ra luyện kiếm, chân thân của hắn nói là sống cũng đúng, nói là chết cũng không có gì sai, còn không có cảm giác thân thiết bằng quần áo từng mặc, bị người ta lấy đi, hắn vốn không để trong lòng. Cho đến lúc này, hắn mới chậm chạp cảm thấy sởn gai ốc: “Linh Uyên, ngươi nói thuật truy tung có phản ứng tổng cộng tám mươi mốt lần, ở những nơi nào?”
Mạnh Hạ hiểu rõ Đan Ly, phần lớn thời gian không bắt được bà ta, chứng tỏ bà ta biết cách tránh thuật truy tung. Nhưng bà ta để lộ dấu vết tất cả tám mươi mốt lần, nhất định không phải là rảnh rỗi sinh nông nổi khiêu khích nhân hoàng chơi, mà là bà ta đang làm chuyện gì đó, không màng che giấu.
“Ta không biết, ám vệ chỉ báo cho ta kết quả, sẽ không nói rõ chi tiết.” Thịnh Linh Uyên nhanh chóng nói, “Nhưng ám vệ xuất từ Ty Thanh bình, Ty Thanh bình chắc hẳn có lưu hồ sơ. Đến chỗ tiểu nữ yêu Ty Thanh bình kia tra.”
Tiêu Chinh đồng thời nhận được tin tức do quạ đen truyền tới. Chi cục Dị khống gần trấn Thanh Bình nhất lập tức cử ra một nhóm chạy việc bên ngoài, lục tung đồ đạc của “người cũ Ty Thanh bình” – Ngọc bà bà.
“Chủ nhiệm Tiêu, tìm được một đống thẻ tre sắp mục, là cái nào đây? Thứ này ai xem hiểu!”
Tiêu Chinh quát: “Chụp ảnh! Chụp hết lại!”
Một đám chạy việc bên ngoài mù chữ chụp lại toàn bộ các đồ vật cũ của Ty Thanh bình lục được từ chỗ Ngọc bà bà bằng tốc độ nhanh nhất. Tiêu Chinh nhận trên máy tính bảng, cho con quạ xem lướt từng tấm. Bỗng nhiên, con quạ nhô người ra, chỉ màn hình.
“Tấm này?” Tiêu Chinh lập tức chỉ huy đồng nghiệp tại hiện trường, “Văn kiện đánh số 59, chụp lại đầy đủ! Mau!”
Thông qua mắt quạ đen, Thịnh Linh Uyên xem lướt qua hồ sơ cũ của Ty Thanh bình: “Nơi Mạnh Hạ lộ diện lần đầu tiên chính là núi Bích Tuyền.”
Tiêu Chinh thấy một dòng chữ xuất hiện trong màn sương đen trên người con quạ: “Ta dịch lại, ngươi cho người của ngươi tìm ra những chỗ này, đánh dấu trên bản đồ.”
Địa danh xưa và nay sai khác nhau rất nhiều, một số địa danh đều không dễ khảo chứng. Hơn nữa bệ hạ “phiên dịch” rất đánh đố nhau, chữ giản thể thường xuyên thiếu cân hụt lạng. Chưa được một lúc, Tiêu Chinh đã bị hắn làm cho phát rồ: “Gọi tiến sĩ Vương tới!”
“Chủ nhiệm Tiêu, cảm xúc của dân chúng tại nhiều điểm phát thiết bị chặn hết sức kích động…”
“Không được đánh trả.” Tiêu Chinh chê tiến sĩ Vương đi quá chậm, trực tiếp co cẳng chạy đến, tóm gáy tiến sĩ Vương, xách ông cụ giơ lên trước mặt con quạ, “Còn nữa, dặn mọi người đeo kỹ thiết bị chặn, đừng để bản thân bị âm vọng ảnh hưởng.”
“Nhưng mà…”
Tiêu Chinh không kịp nói nhiều, nhanh chóng khoát tay: “Gắng một lúc trước, chờ chúng ta giải quyết âm vọng này. Thông báo các phòng, chuẩn bị máy bay trực thăng đợi lệnh, lát nữa bay đến địa điểm chỉ định.”
Phòng Phục hồi sách cổ người ngã ngựa đổ, tám mươi mốt địa chỉ lần lượt được đánh dấu ra trên bản đồ. Cùng lúc đó, máy bay trực thăng Cục Dị khống nhận được mệnh lệnh lũ lượt cất cánh, bay đến vị trí đánh dấu trên bản đồ, điều động thiết bị quét năng lượng độ nhạy cao nhất.
Khi bản đồ thành hình hơn một nửa, Tiêu Chinh nhìn các điểm đánh dấu trên đó, bỗng nhiên ý thức được điều gì: “Đây hình như là một…”
“Đây là đồ đằng chu tước.” Trong đầu Tuyên Cơ theo đó vẽ ra bản đồ, “Núi Bích Tuyền là ngực, Xích Uyên là đầu chim. Năm ấy bà ta bắt đầu từ núi Bích Tuyền, kết thúc tại Xích Uyên. Vẽ một đồ đằng chu tước khổng lồ trên đại lục, cắm thiên ma tế trên ngực… là muốn làm gì?”
“Không biết, năm ấy Mạnh Hạ thất bại trong gang tấc, bà ta muốn làm gì, e rằng phải đào thứ trong mộ cổ ra mới biết được.” Thịnh Linh Uyên vỗ mu bàn tay hắn, “Chúng ta đi xuống thôi.”
Tuyên Cơ ngẩn người, bỗng nhiên nói: “Nếu ta nhớ không lầm, sau khi chiến tranh kết thúc, lúc bố trí phòng ngự và pháp trận quanh Xích Uyên, mọi người đều đề nghị để Đan Ly đi, mà Đan Ly không chịu.”
Đế sư Đan Ly là một chuyên gia trận pháp, trong nhân tộc không ai giỏi hơn, trách nhiệm bày trận quanh Xích Uyên sau chiến tranh vốn nên thuộc về ông ta, nhưng đế sư luôn đích thân làm mọi việc năm ấy nhất quyết không đi.
“Đúng, ông ta viện cớ tuổi già sức yếu, làm không nổi, huy động mấy trăm tu sĩ nhân tộc từ bốn phương tập trung đến kinh thành, tự mình kiểm tra chỉ dạy. Cuối cùng, có hai mươi lăm cao thủ nhân tộc trổ hết tài năng, liên thủ dùng trận pháp nhốt được Đan Ly. Đan Ly nhận thua, sau đó dâng tấu xin ban quan tước cho bọn họ, giao việc phòng ngự Xích Uyên ra.”
Tuyên Cơ: “Ông ta sợ Mạnh Hạ quá quen với phương pháp của mình. Lẽ nào ông ta… khi ấy đã đoán trước được sẽ có một ngày như thế này, nên mới không chịu đi?”
Thời kỳ hỗn chiến, các tộc khác đánh nhau túi bụi, không ai coi ảnh tộc ra gì. Lúc ấy, mọi người đều cảm thấy ảnh tộc chỉ là một đám thú cưng không có ý thức tự chủ, thậm chí đến bây giờ, lời cửa miệng của vị bệ hạ dư nghiệt phong kiến này cũng là “ảnh nô”. Đan Ly không chỉ dâng tấu lên nhân hoàng nhấn mạnh về họa ảnh nhân, còn vì chút việc nhỏ nhặt này mà hao tâm tổn trí để lại nguyên bộ “công cụ bắt giết” vào thời điểm nhân hoàng bằng mặt không bằng lòng.
Mạnh Hạ trốn chạy bốn năm, cuối cùng bị đám pháp trận có thể nhốt Đan Ly bắt được ở gần Xích Uyên, rốt cuộc là sự trùng hợp bất ngờ, hay là… đôi “giai thoại” này đang đấu pháp?
Tuyên Cơ: “Tình bạn gì giòn như nhựa vậy!”
Bảo hắn về sau làm sao vui vẻ thưởng thức đám con gái lấy Đan Ly ra giải trí được nữa?
“Có lúc ta cũng nghĩ, với trí kế vô song của ông ta, cuối cùng rơi vào tay ta, rốt cuộc là ta đã thắng, hay là ông ta muốn cho ta thắng.” Thịnh Linh Uyên thở dài nặng nề, “Xem ra là thật… đến tận bây giờ, ta vẫn chưa học được thuật khôi lỗi thực thụ mà.”
Không phải mấy ngón truyền tin thông qua chim cá của hắn, mà là thuật khôi lỗi thực thụ khống chế chính xác thần trí yếu ớt nhất của con người, chúng sinh đều có thể thành quân cờ.
Tiếng than thở nhỏ đến gần như không thể nghe thấy còn chưa dứt, Thịnh Linh Uyên đã bị Tuyên Cơ nắm lấy bả vai, lắc mạnh một cái giữa không trung. Tuyên Cơ bất chợt mang theo hắn lao xuống cái cây cao nhất.
“Lắc cái lòng dạ mất nết của ngươi một phát,” Tuyên Cơ bực tức nói, “học cái đếch, ngươi học cái gì tốt tốt chút đi!”
Thịnh Linh Uyên: “…”
Khốn nạn, tên này được đằng chân lân đằng đầu, không dạy dỗ không được!
“Tâm mạch bị móc rỗng một miếng lớn như vậy, thiếu tâm đến ngần nào rồi, còn tính kế tới tính kế lui nữa! Ngay cả có phải di hài của ta hay không cũng không phân biệt được thật giả!” Tuyên Cơ giận dữ nói, “Bị ngươi chọc tức, ngực phồng thành cup D rồi!”
Thịnh Linh Uyên: “…”
Vì thế, bàn tay giơ lên nhẹ nhàng hạ xuống, vuốt ve cánh chim rậm lông.
“Dù sao… cũng đã rỗng rồi,” bệ hạ ho khan một tiếng, “ấn triện, văn kiện mật của ám vệ, rất nhiều thứ không tiện mang theo, ta đều để trong đó, còn tiện hơn giới tử[1].”
“Nhét nhiều thứ như vậy mà không có ta!”
La Thúy Thúy làm trong Phòng Khắc phục hậu quả nhiều năm, không phải chỉ biết bợ đít và lười biếng.
Là người có thâm niên trong phòng, trước khi Tất Xuân Sinh được điều đến, rất nhiều âm vọng đều do hắn điều khiển, hắn quá quen với thứ này. Âm vọng tưởng chừng đơn giản, thật ra khi điều khiển cần phải có trình độ kỹ thuật cao, bởi dù sao không ai có được một tinh thần lực áp đảo như nhân hoàng. Nếu muốn sửa tốt ký ức của một người, cần rất nhiều dẫn dắt từ bên ngoài, rất nhiều kỹ xảo tứ lạng bạt thiên cân, có khi thậm chí phải tốn mười ngày nửa tháng trên một mục tiêu, liên tiếp tăng cường ám chỉ, điều chỉnh theo thời gian, cuối cùng mới có thể giúp cho mục tiêu trở về cuộc sống bình thường, cực kỳ tốn công tốn sức.
Nhưng… công sức của hậu cần cũng được coi công sức sao?
Họ cùng lắm là “nhân viên vệ sinh” mặt mày xám xịt đi theo quét dọn chiến trường sau khi các anh hùng chạy việc bên ngoài xông pha chiến đấu, có công lao gì đâu?
Sự kích động của La Thúy Thúy xuyên qua dây trầu bà, truyền xuống bộ rễ chằng chịt dưới lòng đất của đám thực vật đang xì xà xì xào, lại khuếch tán những tin tức đó đến bốn phương tám hướng.
Âm vọng lởn vởn bên cạnh mỗi người, ào ạt chui vào thất khiếu không phòng vệ của họ, khơi lên ý nghĩ tối tăm khó rõ trong lòng người.
Người mang khả năng đặc biệt sợ hãi, người bình thường cũng sợ hãi, người trong khe hẹp càng không biết phải làm thế nào.
Âm vọng có thể khơi dậy lòng đồng cảm, La Thúy Thúy là người điều khiển, cũng không khỏi đắm chìm trong đó, nhớ lại chuyện trước kia của mình.
Hắn sinh ra ở một thôn xóm miền núi xa xôi hẻo lánh, năm chín tuổi lần đầu tiên thức tỉnh khả năng đặc biệt, khả năng đặc biệt quá yếu, không đủ để tác động đến hệ thống theo dõi năng lượng của Cục Dị khống, cũng không ai dẫn hắn đi bệnh viện.
Cục Dị khống có hệ thống sàng lọc, tra xét người mang khả năng đặc biệt, một khi có khả năng đặc biệt thức tỉnh, năng lượng dị thường bộc phát ra có thể tác động đến hệ thống theo dõi. Nhưng nó có ngưỡng nhất định, một số người mang khả năng đặc biệt năng lượng rất yếu sẽ bị bỏ sót. Đây là suy nghĩ cho phúc lợi tổng thể xã hội, thứ nhất giảm bớt chi phí, giảm bớt rất nhiều thông tin nhiễu, thứ hai cũng tránh lầm người thường thành khả năng đặc biệt, quấy rầy cuộc sống bình thường của người ta.
Còn về một phần khả năng đặc biệt bị bỏ sót này, nếu khả năng đặc biệt của họ trở thành vấn đề, thường thì họ sẽ đi bệnh viện, trong các bệnh viện công lập lớn cũng có mạng lưới Cục Dị khống bao trùm. Những người ngay cả bệnh viện cũng không cần đi, chắc cũng không có gì khác biệt với người thường, sót thì thôi.
Nhưng dẫu có bố trí chặt chẽ đến đâu, cũng ắt có người trở thành ngoại lệ, bị cho ra rìa.
Trong thời thanh xuân dài đằng đẵng, chưa từng có ai dạy La Thúy Thúy khả năng đặc biệt là gì, khống chế như thế nào, tiết thể dục vừa chạy vài bước là trên người sẽ mọc lá cây. Khi ấy, hắn cho rằng mình là quái vật, chỉ dám mặc quần áo rộng thùng thình như bao tải, chưa bao giờ dám ưỡn ngực ngẩng đầu. Mỗi lần mọc lá cây, hắn đều trốn vào nhà vệ sinh lén cắt. Những lúc sợ quá, hắn khoét cả thịt mình, dùng dao rọc giấy khoét mấy cái mầm ra, vết thương thường nhiễm trùng chảy mủ, pha lẫn mùi tanh của lá cây, khiến hắn bốc mùi như một xác thối.
Kẻ khác người sẽ không thể sống yên ổn, hắn lo sợ bất an ôm bí mật của mình, bị người ta kêu tới kêu lui tìm niềm vui.
Cho đến khi hắn đi làm thuê ở vùng khác, bị tên côn đồ say rượu cướp của đâm một nhát. Nếu không nhờ lá cây trên người bịt vết thương, có thể hắn đã chết ngay hôm ấy rồi. Hắn dùng lá cây bọc ruột, bò đến bệnh viện, nhặt lại tính mạng, hơn nữa trong cái rủi có cái may, khả năng đặc biệt của hắn rốt cuộc được tổ chức phát hiện.
Nhưng không ngờ ở trong tổ chức của mình, hắn vẫn bị cho ra rìa.
Người thường không coi hắn là người, người có khả năng đặc biệt không coi hắn là khả năng đặc biệt.
[1] Giới tử là một loại hạt giống. Phật giáo quan niệm rằng trong giới tử có một không gian riêng rất lớn, có thể cất chứa vạn vật.