Đỗ Hưng Đức cũng là bí quá không còn cách nào nên mới phải lặn lội lên Thái Nguyên Quan tìm người.
Nhà của ông ta vốn ở trấn Toàn Châu bên cạnh, trong nhà có của ăn của để, cũng có thể xưng danh là phú hộ một vùng.
Tháng Giêng năm nay, vốn là dịp lễ lạt hoan hỉ, thế mà trong nhà ông ta đột nhiên rộ lên việc bị quỷ ám.
Ngày nào cũng vậy, phòng bếp, sân nhà… dù ngày hôm trước đã sắp xếp gọn gàng đến đâu thì sang hôm sau vẫn bị quậy lung tung lộn xộn hết cả.
Chén bát rơi vỡ đầy đất, lu khạp đựng gạo cũng nứt làm thóc gạo văng tứ tung, chưa kể còn có sâu chết lẫn vào vô số kể.
Lúc đầu người trong nhà chỉ nghĩ rằng có kẻ ác ý phá phách đùa dai, bọn họ cũng đã đi báo quan nhưng sai nha được phái tới chẳng tra xét được gì.
Sau đó, những trò đùa đó càng ngày càng quá quắt hơn, không những nhà bếp bị quậy tưng mà kho lúa cũng không thoát nạn, thậm chí ngay cả giường màn, chăn đệm được xếp đặt ngay ngắn trong phòng ngủ lại làm sao đó mà bị xé rách te tua, đồ đạc trong nhà cũng cùng chung số phận.
Đỗ Hưng Đức cảm thấy đây không phải là quỷ quái quấy phá mà là nạn chuột, ông ta bèn bảo gia nhân tìm mấy con mèo về bắt chuột.
Tuy nhiên chuột thì quả thật bắt được không ít, nhưng nạn thì không hề ngừng lại mà còn nghiêm trọng hơn.
Sau đó ít lâu, ban ngày thì đồ dùng bị phá phách, ban đêm cả nhà họ vừa ngả lưng xuống nghỉ ngơi thì bỗng dưng nghe được tiếng cười và tiếng khóc quái dị, đôi khi còn có cả tiếng mắng mỏ chửi rủa lẫn vào, thế nhưng lúc mọi người giật mình tỉnh dậy lắng tai nghe kĩ thì không thấy gì nữa.
Nhà họ Đỗ bị hành cho lên bờ xuống ruộng, đến lúc không chịu nổi nữa mới đi hỏi thăm khắp nơi.
Có một người biết chuyện thì hỏi han rất tỉ mỉ, bảo bọn họ ngẫm lại rồi kể từng chi tiết cho ông ta nghe.
Đỗ Hưng Đức hồi tưởng trong chốc lát, đáp rằng bắt đầu từ sáng sớm mùng bốn thì mọi chuyện bắt đầu náo loạn, đến tận bây giờ chưa dứt.
Nghe xong đầu đuôi câu chuyện, người đó kết luận rằng tám chín phần mười là nhà họ đắc tội Hôi tiên rồi.
Trong dân gian, ngoại trừ đến chùa miếu, đạo quan để dâng hương cầu phúc thì một số người còn lựa chọn một trong năm vị đại tiên để tự cung phụng ở nhà.
Năm vị đại tiên này danh xưng lần lượt là Hồ, Hoàng, Bạch, Liễu, Hôi, tức là hồ ly, chồn, nhím, rắn và chuột.
Người nọ nói đến Hôi tiên chính là ý chỉ con chuột.
Theo truyền thuyết, ngày mùng ba tháng Giêng là ngày chuột đón dâu.
Tối ngày hôm đó, ai nấy đều tắt hết đèn đóm đi ngủ sớm để tránh quấy rầy đến ngày vui của chúng, vì nếu bọn chúng bị phá ngang chuyện tốt thì tất sẽ quay lại báo thù.
Đỗ Hưng Đức nghe xong thì về nhà hỏi một lượt người nhà từ trên xuống dưới mới biết, thì ra ngày hôm đó con trai út của ông ta Đỗ Văn Tuyên ra ngoài uống rượu với bạn đến khuya mới mò về nhà.
Lúc cậu ta vừa về tới thì đúng lúc nhìn thấy một con chuột vọt ra từ trong góc nhà, nhìn thấy ngứa mắt nên cậu ta dậm chân mắng chửi vài tiếng.
Vốn cho là chuyện nhỏ như cái đinh ghim, chẳng ai để trong lòng, lại chẳng ngờ vậy mà bị chuột ghi thù.
Đỗ Hưng Đức rõ mọi chuyện thì quày quả đi tìm người kia lần nữa để hỏi cách khắc phục.
Ai ngờ người đó vừa nghe ông ta nói rằng sau khi xảy ra chuyện còn thả mèo đi bắt chuột liền bảo phỏng chừng dù bọn họ có xin lỗi thì cũng không giải quyết được gì đâu.
Bây giờ muốn sống yên ổn thì hoặc là mời một đạo sĩ cao cường về trấn áp, hoặc là chuyển nhà, còn không thì phải rước Liễu tiên về nhà cung phụng.
Liễu tiên là rắn, rắn là thiên địch của chuột, nếu có Liễu tiên bảo vệ trong nhà thì chuột không dám bén mảng đến.
Đỗ Hưng Đức suy đi nghĩ lại thì cuối cùng quyết định rước Liễu tiên, thế là ông ta nghe theo người đó chỉ dẫn, nhanh chóng lập một gia tiên lâu (1) trong nhà, rước Liễu tiên vào ở.
Cách này quả nhiên rất hiệu quả, chẳng bao lâu sau, đám chuột trong nhà im hơi lặng tiếng hẳn.
Chỉ là nếu mọi việc vẫn suôn sẻ như vậy thì hôm nay sẽ không có chuyện Đỗ Hưng Đức lên Thái Nguyên Quan tìm đạo sĩ.
Tục ngữ có câu “mời thần thì dễ, tiễn thần thì khó”.
Thần tiên không thể nào rước một cách tùy tiện được, chỉ cần sơ ý làm gì đó khiến cho bọn họ phật ý thì đừng mong có ngày an bình, bọn họ không quậy cho cửa nát nhà tan thì sẽ không chịu bỏ qua.
Đỗ Hưng Đức cũng không nghĩ đến tai nạn lần nữa lại đến nhanh như vậy.
Tháng trước nhà họ tổ chức tiệc mừng thọ, có một vị khách mời dẫn theo con trai của mình đến dự, đứa bé phát hiện ra một con rắn nhỏ ở trong bụi hoa, chẳng những không sợ mà còn bắt ra cầm chơi, làm thế nào đó mà con rắn chết ngắc, còn bị kéo đứt thành mấy khúc.
Lúc ấy Đỗ Hưng Đức không hề hay biết, đến khi đứa bé kia trở về nhà, đôi tay nó bỗng nhiên ngứa ngáy dữ dội, đến nửa đêm thì thằng nhóc bị nổi sởi khắp người, da thịt đầy những vết vằn vện nhìn giống hệt như da rắn.
Cùng lúc đó, trong nhà Đỗ Hưng Đức cũng bị rắn bao vây, có người còn bị chúng cắn phải, tuy rằng không độc nhưng nhìn rắn bò lổm ngổm khắp các ngóc ngách trong nhà cũng thấy ghê muốn chết.
Đỗ Hưng Đức kêu trời không thấu, thế là đành phải mời đạo sĩ đến.
Nhưng khốn thay, ông ta liên tục mời mấy vị đến rồi mà vị nào vị nấy đều suýt bị rắn cắn chết.
Mấy ngày nay người trong nhà họ Đỗ đã bắt đầu đòi chuyển nhà đi chỗ khác, có điều căn nhà đó là nhà tổ, đâu phải muốn đi là đi được.
Cuối cùng, lúc Đỗ Hưng Đức sắp bị dồn vào đường cùng tới nơi thì có người mách cho ông ta về Thiệu Dật và Cố Cửu.
Lúc đầu nghe nói đây là hai đạo sĩ trẻ tuổi thì ông ta chần chừ, nhưng cực chẳng đã, Đỗ Hưng Đức tự nhủ xem như thử một lần chót vậy, nếu còn không ăn thua thì phải tính đến chuyện chuyển nhà thôi.
Thiệu Dật nghe xong câu chuyện thì vẫn bình chân như vại, còn Cố Cửu thì nổi hết cả da gà.
Tuy rằng cậu đã từng gặp vô số người chết và lệ quỷ, nhưng lúc đối mặt với mấy con mềm mềm dài dài uốn éo như rắn hay rết cậu vẫn sợ chết khϊếp.
Đỗ Hưng Đức kể xong thì khổ sở nói: “Hai vị đạo trưởng, hai vị xem xem khi nào thì có thể đến nhà tôi xem thử một chuyến với?”
Thiệu Dật trả lời: “Ngày mai đi, hôm nay chúng tôi phải chuẩn bị vài thứ.”
Đỗ Hưng Đức thấy Thiệu Dật chịu đi thì mừng rỡ nói: “Vậy hai chúng tôi về trước, ngày mai tôi sẽ cho người đến đón hai vị.
Thiệu Dật gật đầu, Cố Cửu liền tiễn hai người ra cửa, sau đó cậu quay vào giúp Thiệu Dật sắp xếp đồ đạc mới mua ngày hôm nay.
Thông thường gia tiên rất nhỏ nhen, trước kia Thiệu Dật từng thấy sư phụ xử lý những vụ việc tương tự rồi, mấy năm nay hắn cũng thành công dẹp loạn vài lần, có thể nói là đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú trong mảng này.
Hắn bảo Cố Cửu vẽ vài loại bùa cần dùng, còn mình thì tự khắc hai thẻ bùa gỗ đào gọi sấm sét.
Vậy là xem như chuẩn bị đầy đủ.
Xong xuôi đâu đấy, Cố Cửu lấy ra một bình thuốc trong ngăn tủ, bảo Thiệu Dật vén tay áo lên.
Trên cổ tay của Thiệu Dật có một vết thương, hai ngày trước hắn vừa cắt cổ tay lấy máu để vẽ trận pháp xua âm khí cho Cố Cửu, bây giờ vết thương đã lành nhưng vẫn phải xức thuốc vài ngày.
Cố Cửu chậm rãi rắc thuốc bột lên miệng vết thương, hỏi: “Sư huynh, sư phụ có nói khi nào về không?”
Thiệu Dật đáp: “Tháng sau.”
Cố Cửu vui vẻ nói: “Tháng sau là Thất Tinh Hoàn luyện thành rồi.”
Thất Tinh Hoàn là pháp khí mà Phương Bắc Minh phải dành tới ba năm mới tìm đủ, có thể giúp Cố Cửu trấn áp âm khí trong người.
Thất Tinh Hoàn được bện từ bảy đồng tiền cổ, đồng tiền hình tròn, có lỗ vuông ở giữa, tượng trưng cho trời và đất, dung nạp linh khí vạn vật, có khả năng áp chế và hấp thu âm khí tà ác.
Sau khi bện tiền đồng thành Thất Tinh Hoàn thì phải đặt nó vào trong Thất Tinh Trận rồi luyện chế bằng cách cứ bảy ngày thì niệm Cố Hồn Kinh cho nó một lần.
Đến nay Thất Tinh Hoàn của Cố Cửu đã được đặt trong trận pháp năm năm liền, sắp đến ngày luyện thành.
Đến lúc đó, nó sẽ hạn chế âm khí trên người Cố Cửu, đồng thời còn củng cố hồn phách của cậu, làm những quỷ hồn bình thường không dám mon men đến gần.
Không những vậy, Thất Tinh Hoàn này còn là một món pháp khí trừ quỷ lợi hại.
Một mũi tên trúng ba con chim, lợi được nhiều đường như vậy, không uổng công bọn họ chờ đợi mấy năm ròng rã.
Khi đã có được pháp khí này, Cố Cửu không còn phải nhìn cảnh Thiệu Dật cắt tay trích máu mỗi tháng nữa.
Cũng chẳng biết nên nói thế nào, thật may mắn là thuốc của Phương Bắc Minh điều chế tốt như vậy, năm đó vết thương trên mặt Thiệu Dật ngang dọc chằng chịt trông rất đáng sợ, vậy mà bây giờ không còn nhìn thấy được vết sẹo nào cả.
Ngay cả cổ tay của hắn cũng vậy, sau khi vết thương đóng mày rồi lành hẳn thì cũng không để lại sẹo, vẫn trơn tru như cũ, Cố Cửu nhìn cũng thấy bớt áy náy được một xíu.
Trong đạo quan có phần lạnh hơn ngoài trời, Cố Cửu vừa ngồi một lát đã thấy rét run, không cầm được phải tròng thêm một lớp quần áo nữa.
Đến tận bây giờ cậu vẫn ngủ chung với Thiệu Dật, không nói tới Cố Cửu thế nào, cả Thiệu Dật cũng tập thành thói quen mất rồi.
Qua một đêm yên ổn, sáng hôm sau hai sư huynh đệ dậy thật sớm, lúc còn đang ăn sáng thì đã thấy xe của nhà họ Đỗ đến đón rồi.
Trước lúc lên đường, Cố Cửu kiểm tra Mê Tung Trận bày bên ngoài trận pháp luyện chế Thất Tinh Hoàn một lần rồi mới khóa cửa, bế Tiểu Đệ lên, sau đó cậu cõng tay nải đựng gia tài của mình trên lưng, cùng Thiệu Dật bước lên xe ngựa.
Xe chở họ xuống núi rồi lại đi tiếp hai canh giờ nữa, đến giữa trưa mới tới được trấn Toàn Châu.
Mọi người dừng lại ở khách điếm giải quyết cơm trưa trước, sau đó theo hướng dẫn của Đỗ Hưng Đức đi đến nhà họ Đỗ.
Căn nhà này là một tòa nhà lớn với kết cấu ba sân riêng biệt, cả nhà hơn mười người già trẻ lớn bé cùng nhau sống ở đây.
Tuy nhiên, bởi vì gần đây xảy ra chuyện với đám rắn nên không một ai dám ở lại, người thì đến nhà người thân ở tạm, người thì mướn phòng trọ trong khách điếm.
Trong trấn có không ít người biết nhà họ Đỗ gặp tai ương, lúc này bọn họ thấy nhà họ lại mời hai vị đạo trưởng trông tuổi đời còn trẻ như vậy đến nên có rất nhiều người đứng ở đằng xa tò mò quan sát.
Thiệu Dật đi trước, dùng chuôi kiếm đẩy cửa lớn ra.
Một tiếng lạch cạch vang lên, cửa mở ra, một con rắn nhỏ hoa văn sặc sỡ từ trên khung cửa rớt xuống, bị Thiệu Dật nhanh tay lẹ mắt lấy chuôi kiếm đập cho hai nhát.
Hắn đập xong còn móc lên treo toòng teng ngắm nghía.
Con rắn hoa nhỏ chắc là bị đập cho đầu óc ngu si luôn.
Nó lúc lắc nằm trên kiếm một hồi mới nhấc đầu lên, lại mất thêm một lúc nữa mới nhớ ra phải thè lưỡi hù Thiệu Dật.
Cố Cửu cũng ghé đầu vào xem, vừa nhìn thấy con rắc rực rỡ sắc màu thì rùng mình, đại khái là trong tất cả các loài, chỉ có rắn nhỏ là cậu không cảm thấy đáng yêu nổi.
Cố Cửu thầm thì: “Chắc nó mém xỉu rồi đó sư huynh.”
Sao mà lại phái một con rắn bé xíu xìu xiu ra đánh trận đầu vậy không biết, chẳng biết là con rắn cầm đầu có vấn đề hay là con rắn tiên phong này có vấn đề đây?
Chuôi kiếm của Thiệu Dật vung một cái, ném rắn hoa qua một bên, thấy nó hoảng hốt bò đi chỗ khác mới tiếp tục bước vào trong nhà.
Căn nhà này đã một thời gian không có ai ở, một phần cũng vì bị mấy con rắn phá phách lâu nay nên rất ư là lộn xộn.
Hai bên lối đi trong vườn hoa có dấu vết rắn bò qua, nhìn dấu tích để lại thì con rắn này phải to cỡ bắp tay người lớn.
Tuy rằng trước đó Đỗ Hưng Đức đã nhìn thấy không ít rắn nhưng lúc ông ta nhìn thấy cái vết kinh khủng kia thì sắc mặt vẫn trắng bệch như thường.
Ông ta run run hỏi Thiệu Dật: “Đạo trưởng, ngài…ngài xem, phải làm sao bây giờ?”
Thiệu Dật nói: “Tiên lễ hậu binh.” Gia tiên khá khó chơi, nếu được thì Thiệu Dật hi vọng có thể đàm phán hòa bình với nó trước đã, nếu không có tác dụng thì mới dùng bạo lực sau.
Cố Cửu ngẩng đầu nhìn lên không trung, bấm tay tính thử, nói: “Sư huynh, nếu muốn lập đàn thì giờ Mùi (2) chiều nay là tốt nhất.”
Thiệu Dật quét mắt nhìn một vòng quanh sân, nói đơn giản: “Vậy giờ Mùi.”
Liễu tiên có linh tính, nó để nhiều con cháu của mình ở lại nhà họ Đỗ như vậy thì chắc chắn nó cũng chưa đi.
Bọn họ vào đây làm ồn ào như vậy nó không thể nào không biết.
Nếu đối phương có ý muốn nói chuyện đàng hoàng thì chiều nay giờ Mùi lúc Thiệu Dật lập đàn ắt sẽ xuất hiện, còn nếu không ra thì chứng tỏ nó không muốn thương lượng.
Sau khi rời khỏi đó, hai người Cố Cửu đến chỗ khách điếm nhà họ Đỗ đang ở tạm mướn một phòng trọ.
Vào phòng, Cố Cửu lấy giấy ra cắt vài người giấy nhỏ cho Thiệu Dật vẽ mặt mũi.
Mấy năm nay, ngoài việc học thuật bắt quỷ thì Cố Cửu có hứng thú với thuật người giấy này nhất.
Đương nhiên hiện giờ trình độ của cậu giỏi hơn Thiệu Dật lúc mười hai tuổi nhiều, người giấy làm ra không còn đi được hai bước thì ngã cái oạch nữa, còn có thể nói được vài âm tiết đơn giản, có sinh mệnh chứ không phải chỉ là giấy vụn chỉ có thể đem đi đốt như xưa.
Người giấy của Thiệu Dật thì đã tương đương với người giấy của Phương Bắc Minh năm đó, có thể nói chuyện ê a líu lo.
Cố Cửu cắt năm nhóc người giấy, chừa lại một con để tự mình vẽ, còn lại thì đưa cho Thiệu Dật vẽ, xong xuôi thì thả cả năm đứa đi.
Cả đám dọc theo cửa sổ nhảy ra ngoài, chạy thẳng đến nhà họ Đỗ.
Tầm nửa canh giờ sau, cả năm nhóc trở lại đông đủ.
“Ê a! Ê a!” Đây là bốn nhóc đang đứng trên đầu gối của Thiệu Dật.
“Y ~ y…y!” Đây là nhóc đang đứng trong lòng bàn tay của Cố Cửu, nhóc này nói chuyện cứ như đang đếm nhịp.
Cố Cửu nghiêng tai lắng nghe bé giấy đánh nhịp một hồi, nghe xong thì cảm thấy ghê tởm đến nỗi chọt ngay lên cái trán của nó một cái, sau khi thu hồi nhóc lại thì còn không kìm được mà lấy khăn chà lau người cho nhóc một lượt rồi đi rửa tay cho sạch bóng.
Thì ra người giấy báo lại cho Cố Cửu, tất cả rắn núp ở trong nhà họ Đỗ đều chui ra cả, tập trung lại một chỗ, tao cuốn mày, mày cuốn tao thành một đống to, trùng trùng điệp điệp.
Năm bé người giấy đợi một hồi không thấy chuyện gì lạ nữa nên quay trở về.
Cố Cửu nói: “Xem ra vị Liễu tiên này vẫn lo lắng cho con cháu mình lắm, sợ liên lụy chúng nó nên cho chúng nó đi chỗ khác tị nạn.”
Nếu đúng như suy đoán của cậu thì coi bộ Liễu tiên này cũng không phải dạng cùng hung cực ác, vẫn còn hi vọng đàm phán..