Bị trói chặt trong
Lưới trời bắt sẻ, nhưng Quan Ngũ Lang vẫn đứng nguyên tại chỗ, không
những thế, anh ta còn gắng sức để khom lưng xuống. Lẽ nào anh định dùng
chính tấm lưng vạm vỡ để chống đỡ chín mũi phi mâu mỏ phượng nhọn hoắt
chi chít trên trần nhà? Lẽ nào tấm lưng của anh còn rắn hơn cả mai rùa
thép tấm?
Lớp lớp mũi nhọn của phi mâu mỏ phượng rùng rủng rọi
ánh hàn quang, những thẻ tre trên đuôi mâu bị kéo căng, đồng loạt kêu
lên ken két. Quan Ngũ Lang biết rõ, chúng có thể lấy mạng mình chỉ trong nháy mắt, nên anh cần phải hết sức nhanh chóng vùng vẫy để thoát ra.
Thế nhưng cơ thể cường tráng của anh chắc chắn không thể chui lọt qua
mắt lưới, anh chỉ có thể gắng sức đưa đao cán đao dài mài từ sắt sống ra ngoài.
Đao pháp của Quan Ngũ Lang là Khuyên nhi đao, hay còn gọi là toàn đao pháp (đao pháp xoay tròn). Mặc dù đao pháp này không có
nhiều chiêu thức biến hóa, nhưng cũng không đơn giản chỉ là nắm chặt cán đao rồi xoay bừa chém loạn, mà đao pháp còn được chia thành hai loại là vòng đơn và vòng kép. Vòng đơn là chỉ xoay mũi đao hoặc chuôi đao, vòng kép tức là xoay chuyển cả mũi đao và cán đao. Sự biến hóa giữa hai kiểu xoay vòng này không chỉ dựa vào lực xoay của thân người là có thể thực
hiện được, mà được khống chế nhờ vào thiết kế xảo diệu và cơ quan ẩn
trong bản thân cây đao.
Tại sao cán đao của Quan Ngũ Lang lại
được mài từ sắt sống, chứ không phải làm từ gỗ tần bì như cán đao thông
thường? Nguyên nhân là bên trong chuôi đao có ẩn tàng cơ quan. Thanh
phác đao hai lưỡi này còn được gọi là đao Như ý tam phân nhẫn (lưỡi chia ba tùy ý), chuôi đao có thể gập thành ba khúc, được nối liền bằng xích
sắt, sau khi các khúc chuôi đao đã được tách rời, hình dạng giống như
côn ba khúc. Trong truyền thuyết, thanh đao ba mũi hai lưỡi của Nhị Lang Thần có thể tự uốn cong để đả thương địch thủ, nhờ vào gợi ý đó mà
người ta đã sáng chế ra cây đao này. Vì vậy, đao Như ý tam phân nhẫn có
một độc chiêu, đó là trong lúc xoay mình tấn công, có thể đột ngột tách
rời mũi đao hoặc chuôi đao, từ đó thay đổi hướng chém, khiến đối phương
không kịp trở tay.
Quan Ngũ Lang là người chất phác. Nếu đao pháp biến hóa quá nhiều, anh sẽ học không nổi, vì vậy Lỗ Ân và Lỗ Thịnh
Nghĩa đã phải bỏ ra rất nhiều công sức vào thiết kế cây đao, lại nhờ
người thợ rèn nổi tiếng từ Quan Ngoại(*) là Nhậm Hỏa Cuồng dày công tôi
luyện, nhằm mục đích lấy đao bù khéo, để bù đắp cho những điểm yếu về
chiêu thức võ công của Ngũ Lang. Ai có thể ngờ một người thô vụng thật
thà như Quan Ngũ Lang trong lúc giao chiến lại có thể ngầm sử hiểm
chiêu. Bởi vậy, chiêu thức khiến đối phương không ngờ tới mới chính là
chiêu thức hiệu quả nhất.
(*) Tức là ngoài biên ải, thường dùng để chỉ khu vực phía đông Sơn Hải Quan hoặc phía tây Gia Dụ Quan của Trung Quốc.
Quan Ngũ Lang thấy phần lưỡi đao quá rộng, không thể lách qua mắt lưới. Vì
vậy anh mới khom lưng, gắng thò chuôi đao ra ngoài. Sau đó, bấm mở cơ
quan, chuôi đao liền tách ra một đoạn côn sắt dài chừng hơn một thước
được nối liền bởi sợi xích sắt. Quan Ngũ Lang bèn xoay chuyển thân mình, xoay tít khúc côn sắt. Côn hình vừa kịp thi triển, cả giàn phi mâu mỏ
phượng đã ào ào lao xuống như mưa rào.
Phi mâu tới tấp va vào màn côn sắt, văng ra tứ phía, đan xéo vào những dãy phi mâu đang lao thẳng
xuống ở xung quanh, nháo nhào thành một đám. Chỉ thấy phi mâu, gỗ vụn,
gạch vỡ bay mù mịt. Thế nhưng vòng tròn từ khúc côn vẫn không đủ lớn, đã có hai ngọn phi mâu lọt qua đâm trúng vào sau mông của Ngũ lang.
Chín mươi chín ngọn phi mâu mỏ phượng đã phóng hết, nằm la liệt kín cả sảnh
đường. Thông thường những loại nút sát thương bố trí dày đặc như thế này đều là nút tịnh(*), không dùng nút đục(**). Bởi vì khi trúng phải nút
này, nếu là cao nhân sẽ lập tức giải được nút, cạm bẫy không thể giữ
chân họ; còn nếu như đã bị nút này trói chặt, chắc chắn khó mà có được
cơ hội sống sót. Về mức độ hiểm độc của đối phương, những người nửa
giang hồ nửa thợ mộc trong nhà họ Lỗ không bao giờ có thể hình dung
được.
(*) Tức chỉ dùng một loại ám khí, một lần phóng hết toàn bộ.
(**) Tức là có nhiều chủng loại ám khí xếp thành nhiều lớp, phóng ra theo từng đợt.
Quan Ngũ Lang không thấy đau đớn, mà chỉ cảm thấy vết thương tê dại và ngứa
rần. Anh liếc mắt nhìn mấy ngọn phi mâu rơi bên cạnh chân, thấy trên mũi mâu sáng loáng có lẫn chút ánh chàm, chắc hẳn chúng đã được tẩm độc.
Bây giờ anh chỉ có hai sự lựa chọn: một là bình tâm tĩnh khí để hạn chế
chất độc phát tán, đợi người đến ứng cứu; hai là nhanh chóng tìm cách
thoát khỏi tấm lưới Dây mây bờm ngựa đang trói chặt lấy mình, đi tìm
người giải độc.
Trong lúc Ngũ Lang còn đang do dự, bỗng từ trên
lầu vọng xuống một âm thanh, khiến anh lập tức đưa ra quyết định. Đó là
tiếng kêu lanh lảnh của Lỗ Thiên Liễu. Với Ngũ Lang, tiếng kêu đó khác
nào một mệnh lệnh quyết tử.
Anh không hề thu cán đao lại, vì như
vậy sẽ khiến thanh phác đao trở nên ngắn hơn, càng dễ xoay xở trong tấm
lưới. Anh nhích về phía trước chừng hai bàn chân, giẫm thật chặt lên
mảng lưới ở trước mặt, sau đó cố gắng đứng thẳng dậy. Lúc này hai chân
và đầu của Ngũ Lang đã trở thành hai điểm kéo, khiến tấm lưới bờm ngựa
bị kéo căng hết cỡ.
Tấm lưới Dây mây bờm ngựa dai bền đặc biệt,
để có thể dùng chân và đầu kéo căng tấm lưới như Ngũ Lang, lưng eo phải
có một sức lực cực lớn. Ngũ Lang từ nhỏ đã theo nghề chèo thuyền, kéo
thuyền trên sông, sau khi đến nhà họ Lỗ, lại suốt ngày đẵn gỗ khiêng
cột. Anh ta bẩm sinh sức lực hơn người, sau khi trải qua những hoàn cảnh trên đã tôi luyện được một tấm lưng có sức mạnh ghê gớm.
Quan
Ngũ Lang “hự” lên một tiếng, vận lực vào lưng eo kéo mạnh, tấm lưới Dây
mây bờm ngựa liền bị kéo thẳng căng như dây đàn. Những dây lưới được kết từ dây mây và bờm ngựa bị kéo dài thêm nửa thước.
Quan Ngũ Lang
đưa mũi đao xỏ ngang vào một mắt lưới, chuôi đao gác trên vai, sau đó
lại vận khí hét lên một tiếng, gồng lưng hết cỡ, kéo lưới thật căng,
cánh tay phải đánh ngang một cú sấm sét vào chuôi đao.
Tấm lưới
Dây mây bờm ngựa bền chắc kinh người, nhưng sợi dây dù chắc chắn đến
đâu, sau khi bị kéo căng tới cực điểm cũng sẽ trở nên yếu ớt. Quan Ngũ
Lang từ nhỏ đã quen kéo thuyền buộc cáp, nên anh hiểu rất rõ điều này.
Nút khảm đã bị phá, tấm lưới đã bị thủng một lỗ, mặc dù không lớn lắm. Ngũ
Lang tất bật tay lôi tay cứa một hồi, cuối cùng đã chui ra khỏi tấm
lưới.
Vừa thoát thân ra ngoài, Ngũ Lang lập tức cảm thấy hoa mắt
chóng mặt, chất độc bắt đầu phát tán. Anh ta thu lại chuôi đao như lúc
ban đầu, tì mũi phác đao xuống đất, cố định thần trong giây lát. Sau đó
bước vội về cây cột ở bên tường, áp tai lên cột, hơi nheo mắt lại tập
trung nghe ngóng.
Đây là một chiêu trong công phu Lập trụ, gọi là “nghe khe hở”. Khi dựng nhà, giữa cột nhà và rui xà, giữa cột nhà và đá kê cột, giữa cột nhà và xà ngang nối liền cột với cột đều có điểm ráp
nối, trong đó có nhiều chỗ khuất không thể quan sát bằng mắt. Bởi vậy,
nếu muốn biết những chỗ ráp nối có được khít khao chắc chắn hay không,
cần phải dùng tai để lắng nghe, đây chính là kỹ pháp “nghe khe hở”. Tức
là gõ vào một cây cột, cây xà ở chỗ này, rồi áp tai vào một bức tường
chỗ khác để nghe ngóng, sau đó căn cứ vào âm thanh nghe được, lại căn cứ vào chất liệu gỗ và kết cấu lắp ghép để phán đoán xem bên trong liệu có khiếm khuyết gì hay không. Thợ mộc bình thường chỉ có thể nghe qua một
điểm, nhiều nhất là hai điểm, còn cao thủ có thể nghe được qua nhiều
điểm.
Lúc này Ngũ Lang muốn lợi dụng khả năng truyền âm của cây
cột để phán đoán tình hình trên lầu. Nãy giờ đã không còn nghe thấy
tiếng tỳ bà vẳng xuống. Nhưng ban nãy, trong lúc quyết chiến với “Ngô
Câu”, Ngũ Lang có nghe thấy hàng tràng những tiếng rầm rầm giống như rất nhiều vật nặng va đập xuống sàn gỗ.
Lúc này, qua cây trụ gỗ, Ngũ Lang đã nghe thấy trên lầu có tiếng bước chân rất đỗi quen thuộc, đang
thoăn thoắt di chuyển như đang tránh né. Ngũ Lang cũng yên tâm phần nào. Thân thủ vẫn hết sức tinh nhanh, chứng tỏ Lỗ Thiên Liễu vẫn còn ứng phó được. Đồng thời, Ngũ Lang còn nghe thấy một tiếng bước chân khác rất
quái dị, nặng nề hơn bước chân của Lỗ Thiên Liễu, nhưng cũng rất mau lẹ, đang đuổi sát theo Lỗ Thiên Liễu.
Ngũ Lang không kịp suy nghĩ
nhiều, lập tức rút từ trong chiếc gùi tre sau lưng ra một sợi dây thừng
bện bằng gân trâu có sức đàn hồi cực tốt, rồi buộc hai đầu thừng lên hai cây cột. Để cột nhà được thẳng đứng không nghiêng lệch, sau khi dựng
lên còn phải thực hiện rất nhiều điều chỉnh. Khi đó, cần dùng sợi dây
thừng này để cố định bốn xung quanh cây cột rồi mới tiến hành điều
chỉnh, như vậy vừa có thể giữ cho cây cột không bị đổ, lại có thể dịch
chuyển được dễ dàng mà không cần phải tháo dây thừng. Trong “Tân công
trí vật thuyết”(*) không rõ của ai xuất hiện vào đời Minh có viết:
“Người thợ phương Tây dùng dây bằng gân dựng cột nhà, công sức đều giảm
bớt”.
(*) Trước tác ra đời vào thời Minh, chưa rõ người biên soạn là ai, chủ yếu ghi chép về một số kỹ thuật xây dựng mới, trong đó đa
phần được du nhập từ nước ngoài. Thời đó, cuốn sách này thực sự có tác
dụng hướng dẫn và chỉ đạo tích cực đối với kỹ thuật xây dựng của Trung
Quốc, nhưng do môi trường xã hội mê tín và khép kín lúc bấy giờ, cộng
thêm tư tưởng cố chấp cổ hủ của người dân, nên đã có sự bài trừ mạnh mẽ
đối với kỹ thuật được ghi chép trong sách. Bởi vậy, cuốn sách chỉ được
in một hai bản, sau đó không khắc in nữa, đến nay còn lưu truyền rất ít.
Trên cột vốn đã có các móc sắt để móc tấm lưới Dây mây bờm ngựa, nên sợi
thừng gân trâu được buộc lên rất dễ dàng. Ngũ Lang đặt cây đao Như ý tam phân nhẫn lên sợi thừng gân trâu, sau đó lùi lại, lôi sợi thừng thật
căng như đang kéo một dây cung lớn. Ngũ Lang lùi dần về phía một cột trụ khác, đây chính là phương pháp “định vị góc độ qua hai cột’(*) trong
khâu Lập trụ, nhưng lúc này đã được Ngũ Lang biến hóa thành “kéo thừng
bắn đao” – một chiêu thức tấn công thực thụ. Đây là tuyệt chiêu mà Lỗ Ân đã nghiên cứu giúp Ngũ Lang trong quá trình anh ta học công phu Lập
trụ. Nhưng anh ta cũng đã phải đổ mồ hôi sôi nước mắt học lên học xuống
không biết bao lần mới thuần thục được chiêu này.
(*) Một kỹ
thuật trong xây dựng thời cổ đại. Thông qua khoảng cách, độ cao giữa hai cái cột trụ, kéo dây thừng để xác định vị trí các góc nhà, vị trí góc
mái hiên, vị trí đặt xà nóc, từ đó tính toán được số lượng và quy cách
của nguyên vật liệu cần sử dụng.
Cuối cùng, Ngũ Lang cũng đã kéo
được sợi thừng tới trước cây cột thứ ba. Rồi vừa kéo giữ sợi thừng, vừa
áp tai vào cột nghe ngóng. Anh ta phải nghe thật rõ mọi động tĩnh phía
trên lầu rồi mới có thể bắn đao đi. Nhưng sau một hồi gắng sức, độc tính đã phát tác khắp cơ thể. Ngũ Lang cảm thấy hai chân mềm nhũn, không còn đủ sức trụ lại trước phản lực đàn hồi ghê gớm của sợi thừng gân trâu,
nhất thời không biết nên để sợi thừng kéo mình trượt về chỗ cũ, hay
buông tay phóng đao ra.
Chỉ thoáng chốc do dự, bàn tay thoắt đã buột ra, Như ý tam phân nhẫn lập tức bắn vọt về phía trước…
Đối diện với mụ béo càng lúc càng bốc mùi hôi thối đến lợm giọng, trong đầu Lỗ Thiên Liễu vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp nào để đối phó. Trong
công phu Tịch trần hay chút vốn liếng Thiên sư pháp sơ sài học mót từ
chỗ ông Lục đều không có chiêu thức nào dùng để hóa giải xác sống, bởi
vậy cô chỉ biết né tránh.
Lỗ Thiên Liễu dang rộng hai tay, di
chuyển bằng cách trượt chân sang bên cạnh, bước chân không rộng, biên độ xoay chuyển cũng không lớn. Trong quá trình di chuyển, Phi nhứ bạc trên hai tay rất tự nhiên bay lượn thành vòng Thái cực, thân thủ cực thanh
thoát mà nhẹ nhàng, hệt như chim én chao mặt sóng.
Mụ xác sống
liên tục vặn vẹo cơ thể, hai chân bật hẳn khỏi mặt đất nhảy chồm chồm mà đi. Mặc dù bật không cao, chỉ khoảng một tấc, nhưng lại vọt đi rất xa.
Đặc biệt trước khi tiếp đất, mũi chân của mụ gần như quét trên sàn nhà,
tựa như một con ngỗng núc ních choãi hai bàn chân to bè trượt trên mặt
nước.
Động tác di chuyển tuy rất khác biệt, nhưng hiệu quả về tốc độ lại tương tự nhau. Lỗ Thiên Liễu chạy kiểu gì cũng không thể thoát
thân, mụ béo lúc nào cũng lù lù ngay trước mặt, cầm chân cô trước lối
vào của cầu thang đuôi én bên trái.
Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng
quét ánh mắt nhìn khắp lượt đầu tiên, cô nhận thấy mình có thể lui dần
về phía cầu thang, sau đó tìm cơ hội tẩu thoát xuống dưới. Nhưng trên
cầu thang bên phải nơi cô vừa bước lên có bố trí cạm bẫy vô cùng hiểm
độc, thì chắc chắn cầu thang bên trái cũng là khảm diện. Ngay cả khi tại đây vẫn là khảm diện “đâm trong hộp”, muốn thoát thân vẫn hết sức khó
khăn.
Lỗ Thiên Liễu thầm nghĩ, đã khó lòng trốn thoát, chi bằng
cứ tìm cách ứng phó với mụ quái vật này trước đã, rồi tìm cách phá cái
bẫy xác này xem sao.
Cô không di chuyển nữa, cũng không tung mình nhảy ra xa, lại càng không có ý định tẩu thoát xuống cầu thang, mà nhân lúc mụ xác sống còn chưa kịp phong tỏa hoàn toàn hướng đi đến sân khấu, liền bước theo bộ pháp Liên hoa toái bộ (bước nhỏ hoa sưn), lập tức
lách qua khe hở mà chạy. Mụ xác sống đứng thộn ra một lát, không biết là ngơ ngác, bất ngờ hay kinh ngạc, đến khi Lỗ Thiên Liễu đã chạy được năm sáu bước, mụ mới lật đật nghiêng ngả đuổi theo.
Nhìn thấy cái
xác đuổi tơi, Lỗ Thiên Liễu cũng ngẩn ra một thoáng, vì mụ ta giật lùi
mà đuổi. Chẳng lẽ mụ ta không thể xoay người? Lẽ nào truyền thuyết đã
nói đúng, “xác đi thẳng ma bay lướt”. Nhưng không đúng, cái xác đi thẳng là cương thi cứng đơ, còn đây là một cái xác sống mềm oặt.
Lỗ
Thiên Liễu đang di chuyển theo bộ pháp hoa sen, hai tay dang rộng, thấy
mụ xác sống đuổi tới, lập tức vận lực múa tít hai tay như hình hai đóa
hoa sen. Khi đóa hoa bên tay phải đẩy về trước mặt, Phi nhứ bạc lập tức
tung ra.
Phi nhứ bạc được điều khiển bởi một sợi xích mảnh bằng
thép, nối liền với một tấm khăn nhung mềm mại bọc lấy một quả cầu bằng
thép nhỏ bên trong. Kỳ thực Phi nhứ bạc được chế tác dựa trên nguyên lý
của chùy lưu tinh một xích, nhưng cách sử dụng linh hoạt hơn rất nhiều.
Đây chính là chiêu “cánh tay xích” trong công phu Tịch trần, yêu cầu
lực, khéo song hành, đứng trên sàn nhà có thể dùng nó để lau sạch bụi
bặm sau tấm hoành phi hay trong kẻ xà nhà. Kỳ thực, trong công phu Lục
hợp của nhà họ Lỗ, công phu khó tìm được người thích hợp nhất chính là
Tịch trần. Học công phu này không những phải luyện được thuật khinh
công, mà cánh tay cũng phải rèn được công lực cương nhu kết hợp. Như
chiêu “cánh tay xích” nếu rèn luyện tới mức tinh thâm cực điểm, tay chỉ
cần rung nhẹ sợi xích Phi nhứ bạc xoay chuyển, một lần có thể vun lại
cát bát đậu xanh tung tóe trên mặt đất.
Phi nhứ bạc bay đi không
xa, chỉ quấn chặt lấy chân một chiếc bàn hoa kê sát tường. Lỗ Thiên Liễu đột ngột vận kình vào tay giật mạnh, chiếc bàn lập tức lao vụt về phía
mụ xác sống, đập thẳng cánh vào nửa thân người bên trái mụ. Trên bàn vốn dĩ có bày một chậu hoa, sau cú giật liền văng ra, đúng lúc sắp rơi
xuống đất thì Lỗ Thiên Liễu đã nhanh chóng lao lên đỡ lấy, nhẹ nhàng đặt lại xuống sàn. Không biết tại sao, Lỗ Thiên Liễu bẩm sinh đã rất mực
yêu quý cỏ cây hoa lá, cô luôn cảm thấy chúng cũng có linh hồn giống như con người.
Chiếc bàn đập thẳng vào mụ xác sống làm bật lên một
tiếng trầm đục, mụ béo văng mạnh sang ngang, không phải là ngã nhào,
cũng không hề loạng choạng, mà cơ thể vẫn thẳng tưng trượt đánh vèo sang bên cạnh chừng bốn năm bước.
Chiếc bàn được đóng từ gỗ gụ lâu
năm, góc cạnh cứng rắn không kém gì búa thép. Góc trán bên trái của mụ
xác sống bị cạnh bàn đập nứt một đường, tét thành hai mép thịt bầy nhầy, một dòng mủ vàng sền sệt giàn giụa chảy ra, hôi tanh lơm giọng.
Lỗ Thiên Liễu tiếp tục quăng một chiếc ghế thái sư mặt hẹp lưng thẳng về
phía mụ xác sống, nhưng mụ đã tránh được một cách rất mực khéo léo, gần
như là chui qua khe hở giữa bốn chân ghế.
Lại một chiếc ghế thái
sư nữa vụt đến, lần này chiếc ghế được quăng lên cao rồi rơi thẳng
xuống. Nhưng cái xác chẳng thèm để ý, vì cái ghế không phải quăng về
phía mụ, mà là quăng về phía cầu thang bên kia.
Chỉ nghe “xẹt”
một tiếng khe khẽ mà cực ngắn gọn, chiếc ghế thái sư chỉ còn lại phần
lưng tựa rơi xuống đầu cầu thang. Lỗ Thiên Liễu liếc thấy vết cắt sắc
ngọt mịn như lụa, quả đúng như cô dự liệu, bên cầu thang đó đã gài sẵn
một khảm diện lợi hại gấp bội.
Mụ xác sống chớp lấy cơ hội lập
tức xáp tới. Lần này tốc độ của mụ nhanh hơn rất nhiều, chỉ lắc mình hai cái, đã vụt tới trước mặt Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu chỉ biết tiếp
tục lui về phía sân khấu, vì ở đó có rất nhiều bàn ghế, hẳn sẽ gây cản
trở cho cái xác chỉ biết di chuyển bằng những cú vặn vọ quái dị, lại
không thể nhảy cao.
Trên sân khấu, dãy bàn ghế đầu tiên được làm
từ gỗ đàn hương, ghế được sắp về một hướng, bàn nhỏ ghế to, đó là chỗ
ngồi của chủ nhân và khách quý. Dãy thứ hai được làm từ gỗ gụ, mặt bàn
bằng đá cẩm thạch, ghế ngồi xếp ở ba phía, bàn nhỏ vuông vắn, ghế hẹp
lưng thẳng, đây là chỗ ngồi của những người vai vế thấp trong nhà và
khách khứa bình thường. Dãy thứ ba gồm những chiếc bàn hẹp đặt giữa hai
ghế, đây là chỗ ngồi cho những thuộc hạ cấp cao của khách quý và những
người họ hàng xa. Sau nữa chỉ có ghế nhỏ, không có bàn, đó là chỗ ngồi
của trẻ nhỏ, môn khách, quản gia, thầy giáo…
Nhưng thật không
ngờ, mặc dù bàn ghế rất nhiều, nhưng động tác của mụ xác sống vẫn hết
sức mau lẹ, dường như mụ đã rất thông thạo cách bài trí của loại bàn ghế nơi đây. Đầu tiên mụ nghiêng người nhảy dọc vài bước theo lối đi giữa
dãy bàn ghế thứ hai và thứ ba, trở lại trên lối dẫn ra cầu thang, rồi
nhảy giật lùi về phía sân khấu. Có thể thấy, mụ ta chỉ có thể di chuyển
tại lối đi và khoảng trống giữa các dãy bàn ghế.
Chớp mắt, mụ xác sống đã lại áp sát. Lỗ Thiên Liễu đột ngột tung người nhảy về phía cầu
thang bên phải. Mụ xác sống chắc chắn không để Lỗ Thiên Liễu được như ý, vì mục đích của mụ ta là khóa chặt đường thoát thân của Lỗ Thiên Liễu.
Lỗ Thiên Liễu mới nhảy đi được nửa đường, liền đáp xuống một mặt bàn bằng
đá cẩm thạch. Nó nằm ở dãy bàn thứ hai, và là chiếc bàn gần cửa cầu
thang bên phải nhất. Cô đang nhắm đến cây xà ngang bắc từ trụ đỡ tại cửa cầu thang nối liền với bức tường phía sau. Phi nhứ bạc từ tay bên phải
nhanh chóng vụt ra, quấn chặt vào thanh xà, liền sau đó Lỗ Thiên Liễu
cũng tung mình nhảy lên cao, sợi xích mảnh nhanh chóng quấn quanh cổ
tay, thu ngắn lại. Khi sợi xích đã thu lại gần hết, co bèn giật mạnh
cánh tay, vận lực vào lưng eo, cơ thể lập tức xoay ngang sang một bên,
tựa như đang nằm lơ lửng trên không trung. Cô định đưa cơ thể bay ngang
qua đỉnh đầu của mụ xác sống, sau đó sợi xích sẽ giúp cô xoay tròn một
đoạn, bay qua tay vịn cầu thang, đỗ xuống gờ mép bậc thang ở phía bên
ngoài tay vịn.
Tính toán của Lỗ Thiên Liễu có thể nói là tinh vi
cực điểm, động tác của cô cũng giống hệt như dự tính không sai lệch một
ly. Thân người cô đã đu ngang bên dưới sợi xích, tựa như một phiến lá
liễu bay là là mặt nước, rất mực thanh thoát phiêu diêu.
Đúng
lúc, Lỗ Thiên Liễu đang xoay ngang người lướt qua giữa không trung, đột
nhiên cô nhìn thấy bộ móng tay nhọn hoắt như mũi dao của mụ xác sống xỉa tới ngay trước mặt, nhắm thẳng vào đôi mắt.
Đúng! Lỗ Thiên Liễu
tuyệt đối không thể ngờ rằng cái xác quái đản kia lại có thể nhảy vọt
lên cao đến vậy, một độ cao hoàn toàn tỷ lệ nghịch với thân hình phì nộn của mụ.
Lỗ Thiên Liễu muốn né tránh, chỉ còn một cách duy nhất
là buông sợi xích trong tay ra. Khi bộ vuốt sắc nhọn chỉ còn cách mắt cô chưa đầy ba tấc, cô liền lắc mạnh cổ tay, buông khỏi sợi xích, cơ thể
lập tức đổi hướng. Bộ móng vuốt sắc lẹm như đao hớt đứt bay mấy sợi tóc
trên đỉnh đầu cô.
Lỗ Thiên Liễu theo đà văng về phía bức tường
đằng sau. Khi còn cách tường chừng hai thước, cô giơ hai chân dậm mạnh
lên tường, mượn lực bật ngược trở lại, lăn tròn mấy vòng để tản bớt xung lực, rồi đứng bật dậy.
Chưa đợi cô đứng vững, mụ xác sống lại
lắc lư nhảy tới. Cô phát hiện mình đã trở lại đầu cầu thang bên trái,
không biết đang ẩn tàng một khảm diện khủng khiếp cỡ nào, như một con
quái thú đang ngoác miệng chờ sẵn. Bên đầu cầu thang bên phải, Phi nhứ
bạc vắt lủng lẳng trên xà ngang, phất phơ như dải tơ liễu bay trong gió.
Mụ xác sống đang ngật ngưỡng di chuyển giữa hai đầu cầu thang, áp sát lại
gần. Lỗ Thiên Liễu đứng khựng trước đầu cầu thang bên trái, không biết
nên hành động ra sao.