“Thực là, nhân sinh hà xứ bất tương phùng, không ngờ lại gặp ngươi ở nơi này”.
Sử Nhược Mai trừng mắt hỏi:
“Sao ngươi lại tự tiện xông vào vườn nhà người khác?”
Thiếu niên đáp:
“Ta ở ngoài nghe thấy tiếng ngươi nói, nhớ lại vừa rồi ngươi có ban tặng một đĩnh bạc, mặc dù ta đã thế ngươi tặng hết cho tên ăn mày nhưng cũng là chịu ân của ngươi, còn chưa cảm tạ ngươi cho nên mới tiến vào đây. Uy, ngươi sao lại biến thành một cô nương như vậy?”
Sử Nhược Mai mặc dù kinh nghiệm giang hồ còn ít nhưng đến lúc này nàng cũng đã nhìn ra gã này quyết không phải kẻ quê mùa bình thường. Nàng liền nói:
“Vừa rồi là ta mạo muội, đắc tội với ngươi, bây giờ nhận lỗi với ngươi. Ngươi biết môn kiếm pháp này ư?”
Thiếu niên kia cười nói:
“Ngươi tặng ta ngân lượng, lại còn nhận sai với ta, ta thật là nhận không nổi đâu. Ha ha, ta chỉ biết đến hoa màu, cái gì kiếm pháp với đao pháp, ta đều không hay không biết”.
Sử Nhược Mai hỏi:
“Vậy sao ngươi lại tán thưởng?”
Thiếu niên kia đáp:
“Ta đến giờ chưa từng thấy cô nương nào múa kiếm, ta coi thấy rất đẹp mắt nên bất giác mới reo lên”.
Sử Nhược Mai thấy thiếu niên này vẫn còn làm bộ si ngốc, trong lòng không khỏi có chút tức giận, nàng xẵng giọng:
“Ngươi lẻn vào đây, ta không truy cứu ngươi, ngươi cũng đừng quản đến chuyện của ta”.
Ngôn hạ thật có ý muốn trục khách nhưng thiếu niên kia lại như không hề biết điều, ngược lại gã còn luống cuống chạy đến gần vài bước:
“Uy, cô nương ngươi nói thật khiến ta cũng hồ đồ, ta khi nào quản chuyện của cô?”
Sử Nhược Mai bị gã nhìn rõ bổn lai diện mạo, lật tẩy bí mật nữ cải nam trang của nàng, trong lòng rất không vui nhưng lại không tiện nói cho rõ “chuyện của ta” chính là chuyện này. Nàng những muốn nổi giận nhưng còn chưa kịp phát tác thì thiếu niên kia đã lẩm bẩm:
“Kỳ thật thích quản chuyện của người khác cũng không phải chuyện không tốt. Vừa rồi trên tửu lâu, nếu như không có ai quản chuyện người khác, ta thấy cô nương ngươi cũng vị tất đã đánh thắng xú đạo sĩ và tặc hòa thượng đó!”
Sử Nhược Mai thoáng động lòng, “Chẳng lẽ là hắn ngầm ám trợ mà ta lại không hề hay biết?”
Tâm niệm còn chưa qua, chợt nghe thấy Niếp Ẩn Nương yêu kiều quát mắng một tiếng, nàng thoạt rút kiếm khỏi bao quát:
“Ngươi tự tiện xông vào vườn nhà ta, thật là vô lễ lắm, nếm thử một kiếm của ta!”
Tiếng đến người đến, một chiêu “Ngọc Nữ Xuyên Thoa” xuất ra, kiếm quang như dải lụa đâm tới thiếu niên kia.
Chuyện xảy ra ngoài ý nghĩ của Sử Nhược Mai, phải biết so với nàng Niếp Ẩn Nương luôn luôn trầm tĩnh hơn, không ngờ hôm nay nàng lại nổi giận trước, hỏi cũng không hỏi mà động binh khí đánh luôn. Hơn nữa, kiếm này tuyệt không phải chỉ là hư danh dọa dẫm, xác thực lăng lệ vô cùng, thực sự là một chiêu kiếm để đối phó với địch nhân.
Sử Nhược Mai đối với thiếu niên này mặc dù không có cảm tình lắm nhưng nói thế nào thì cũng không muốn dồn hắn vào chỗ chết, nàng lập tức kêu lên:
“Tỷ tỷ, tỷ tỷ, người....”
Lời nói còn chưa dứt, Niếp Ẩn Nương đã liên tiếp xuất ba chiêu, nguyên lai liên hoàn tam kiếm vô cùng lợi hại của Niếp Ẩn Nương đều bị thiếu niên kia tránh được.
Sử Nhược Mai nhìn thấy tính mạng của thiếu niên không có gì đáng lo, nàng nghĩ bụng, “Nguyên lai, thằng nhóc này quả thật thân mang tuyệt kỹ, đến hí lộng chúng ta. Niếp tỷ tỷ vốn luôn luôn khéo léo, tỷ ấy làm như vậy nhất định là có đạo lý của mình”.
Sử Nhược Mai quyết ý khoanh tay đứng một bên, yên lặng quan sát biến hóa. Chỉ thấy Niếp Ẩn Nương kiếm này nối tiếp kiếm kia, thiếu niên kia vẫn đang giả bộ luống cuống không biết võ công. Thế nhưng kiếm chiêu của Niếp Ẩn Nương như vũ bão, mấy lần trông thấy như sẽ đâm vào thân thể gã thì gã lại đều khéo léo tránh thoát trong đường tơ kẽ tóc.
Niếp Ẩn Nương bỗng dưng quát:
“Ngươi dám coi thường ta, còn không trúng kiếm?”
Kiếm pháp của nàng đột nhiên biến đổi, một chiêu “Phong Triển Lạc Hoa”, liên hoàn bảy thức xuất ra, hư thực lẫn lộn, chỉ thấy đóa đóa kiếm hoa giống như trời đêm đầy sao, từng điểm từng điểm rơi xuống! Đây chính là chiêu kiếm phức tạp, tinh diệu nhất trong “Phi Hoa Trục Điệp”. Sử Nhược Mai tự thẹn không bằng, nàng mở to hai mắt để xem thiếu niên kia ứng phó thế nào.
Thiếu niên kia kêu lên:
“Ôi chao, không ổn rồi!”
Đột nhiên gã đổ nhào ngã gục xuống. Sử Nhược Mai đang kinh ngạc, đột nhiên lúc đó thiếu niên xoay vòng trên mặt đất hai cái rồi lập tức lộn nhào bay ra ngoài, vừa vặn thoát khỏi phạm vi lưỡi kiếm của Niếp Ẩn Nương có thể phóng tới. Nhìn hắn chật vật khổ sở nhưng kỳ thực lại là thân pháp “Túy Bát Tiên” xảo diệu vô cùng. Sử Nhược Mai vốn có chút chán ghét thiếu niên này nhưng cũng không khỏi khen thầm.
Niếp Ẩn Nương kiếm xuất khinh linh, một chiêu đâm trượt vào khoảng không, chiêu sau lại nối tiếp phát ra. Thiếu niên kia cũng nhận thấy nàng đã xuất ra môn kiếm pháp lợi hại, biết rằng không thể cứ dùng tay không tiếp chiêu. Ngay khi Niếp Ẩn Nương đang phăng phăng đâm tới chiêu thứ hai liên hoàn bảy thức, thiếu niên đột nhiên nói:
“Ta sẽ không động đao rút kiếm nên chỉ đành lấy khúc gỗ tiếp chiêu. Xin lỗi, ta phải làm tổn hại của ngươi một thân cây”. Trong lúc đang nói, “rắc” một tiếng, hắn đã bẻ lấy một nhành cây.
Trong màn kiếm quang uốn lượn, chỉ thấy những phiến lá bám trên nhành cây như bay múa. Trong nháy mắt đã biến thành một nhành cây trơ trọi sạch sẽ nhưng điều kỳ quái là nhành cây vậy mà vẫn không bị lợi kiếm của Niếp Ẩn Nương chém gãy.
Thiếu niên rung nhành liễu lên, như hùm ngây gặp gió, quả nhiên sử ra chiêu thức của trường kiếm, mở ra khép lại, khí tượng bất phàm. Niếp Ẩn Nương một chiêu liên hoàn bảy thức còn chưa sử hết liền bị hắn một gậy gạt ra.
Sử Nhược Mai thầm lấy làm kỳ lạ. Thiếu niên này công lực hiển nhiên trên Niếp Ẩn Nương, điều đó cũng không nói làm gì, hắn lại dùng nhánh cây như trường kiếm sử ra kiếm chiêu cũng đặc biệt phi thường. Sử Nhược Mai nhìn qua vài chiêu, lúc ấy đột nhiên nhớ lại. Nguyên lai mấy tháng trước, tại đại hội Kim Kê lĩnh, nàng đã thấy Thiết Ma Lặc lúc so kiếm với Mưu Thế Kiệt cũng sử dụng loại kiếm pháp này.
Môn kiếm pháp này vốn dĩ sở trường hùng hồn, phải cần người có công lực thâm hậu mới có thể phát huy đến tột cùng được. Thiếu niên này công lực mặc dù thâm hậu nhưng có thể nhận thấy so với Thiết Ma Lặc vẫn còn có chút chưa bằng. Hôm đó Thiết Ma Lặc sử dụng huyền thiết trọng kiếm để sử loại kiếm pháp này, thiếu niên này lại dùng một nhánh cây, nhánh cây vốn dĩ mềm yếu lại dùng để sử kiếm pháp hùng hồn là vô cùng không thích hợp. Do vậy, mặc dù công lực của Niếp Ẩn Nương không bằng gã nhưng Niếp Ẩn Nương chiếm được tiện nghi binh khí, môn kiếm pháp đang dùng lại là sở trường của nàng, so với kiếm pháp hùng hồn của đối phương sử dụng, tất nhiên thuận ý vừa tay hơn nhiều. Không quá một hồi sau, ước chừng chỉ qua hai mươi chiêu có dư, thiếu niên kia đã có chỗ không đỡ nổi, dần dần lâm vào hạ phong.
Sử Nhược Mai rất cao hứng, “Lúc này Niếp tỷ tỷ cứ cho tên nhóc này nếm một chút đau khổ cho rồi”. Nào ngờ tâm niệm chưa qua, chợt thấy thiếu niên kia phất nhẹ nhánh cây, tựa như chống cự lại như nghênh tiếp, vậy mà đã quấn trường kiếm của Niếp Ẩn Nương ra khỏi chính diện.
Sử Nhược Mai so với vừa rồi càng kinh hãi hơn. Nguyên lai thiếu niên vừa phất nhành liễu, cũng lại là dùng đến một chiêu trong kiếm pháp “Phi Hoa Trục Điệp”!
Niếp Ẩn Nương quát:
“Hay!”
Mũi kiếm liền vạch ra, giải khai khỏi nhành cây quấn, bất chợt xuất chiêu “Điệp Vũ Oanh Phi”, kiếm quang phơ phất, như trái như phải, nhẹ nhàng uốn lượn, đích thực như bướm lượn giữa hoa, yến xuyên cuối vụ, hư hư thực thực, không sao nắm biết. Thiếu niên kia cũng khen “Hay” một tiếng, nhánh cây nhẹ nhàng vung lên, hoàn lại một chiêu “Khinh La Tiểu Phiến”. Nhánh liễu phất nhẹ, bộ pháp nhẹ nhàng, phiêu dật tiêu sái, thật hợp với câu thơ “Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh”, chỉ nhẹ nhàng hời hợt đã hóa giải chiêu “Điệp Vũ Oanh Phi” của Niếp Ẩn Nương.
Diệu Tuệ thần ni sáng tạo ra môn kiếm pháp “Phi Hoa Trục Điệp”, vốn dĩ không sở trường dùng lực, nguyên là hợp cho nữ nhân sử dụng. Mỗi chiêu mỗi thức đều phối hợp với thân pháp mỹ diệu, cùng mang ra sử sẽ giống như vũ đạo. Thiếu niên này phục trang là con nhà nông thô lỗ, lại tay cầm nhành liễu sử ra kiếm pháp này, dáng điệu khó tránh khỏi có vẻ ẻo ẻo lả lả, vốn rất buồn cười. Thế nhưng hắn lại sử đến mỹ diệu tuyệt luân, chỉ trong chốc lát đã khiến cho Sử Nhược Mai hoa mắt xiêu thần, cũng không cảm thấy một chút nào buồn cười nữa.
Hai người đấu tới say sưa, chỉ thấy hoa rơi muôn đóa rực rỡ tung bay, tựa như một bức họa đồ tuyệt diệu. Sau khi thiếu niên kia chuyển sang dùng cùng một loại kiếm pháp, dĩ nhiên là đã thay đổi trở thành thuận tay. Nhành liễu của gã chính là hợp với loại kiếm pháp này, sử đến chỗ tinh diệu, thực sự là mềm như tơ liễu, bay tựa chim hồng, mỗi chiêu đều chứa đựng những biến hóa vô cùng.
Sử Nhược Mai nhìn như say như mộng, căn bản quên hết việc so đo thắng bại, trong lòng chỉ nghĩ, “Nguyên lai môn kiếm pháp này của sư phụ lại có nhiều điểm biến hóa tinh vi như thế!”. Nàng xem một hồi sau mới đột nhiên nghĩ, “Kỳ quái! Tiểu tử này sao lại biết sử dụng môn kiếm pháp này? Xem ra tạo nghệ của hắn với môn kiếm pháp này dường như còn trên cả Niếp tỷ tỷ!”
Nàng chợt thấy nhành liễu của thiếu niên kia phất một cái đã vít lên sống kiếm của Niếp Ẩn Nương, gã cười rồi nói:
“Không cần phải đánh tiếp nữa”.
Niếp Ẩn Nương thoáng chốc thu kiếm, nàng hỏi:
“Chính là Phương sư huynh phải không?”
Thiếu niên kia ném nhành liễu đi, thi lễ rồi nói:
“Đúng là tiểu đệ, đã mạo phạm đến hai vị sư tỷ rồi”.
Sử Nhược Mai lại càng thấy kỳ quái, nàng nghĩ bụng, “Sư phụ thế nào lại thu nhận một nam đệ tử? Nơi nào lại sinh ra một vị sư huynh?”. Niếp Ẩn Nương vẫy tay gọi nàng lại rồi nói:
“Vị Phương sư huynh này là điệt nhi của sư phụ chúng ta, cũng là đệ tử cuối cùng của Ma Kính lão nhân”.
Sử Nhược Mai đối với tục gia sự tình của sư phụ không được biết nhiều lắm. Nguyên lai Diệu Tuệ thần ni vốn họ Phương, đệ đệ của bà chết sớm, chỉ để lại một điệt nhi tên gọi Phương Ích Phù. Diệu Tuệ thần ni đối với y càng thêm thương yêu, cho nên chẳng những mang y đến đầu nhập làm môn hạ của Ma Kính lão nhân học nghệ mà còn mang võ học của bản thân mình dốc túi truyền hết cho y. Diệu Tuệ thần ni cùng Niếp Ẩn Nương ở chung cũng lâu nên Niếp Ẩn Nương biết việc này, còn Sử Nhược Mai vẫn chưa được biết.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Sư phụ có khỏe không?”
Phương Ích Phù đáp:
“Lão nhân gia người tháng tới là đại thọ tám mươi nên đã quyết bế quan tọa thiền, từ nay về sau không hành tẩu giang hồ nữa. Người có một phong thư sai tiểu đệ đưa cho tỷ”.
Niếp Ẩn Nương nhận ra chính là thủ bút của sư phụ, nàng cung cung kính kính đón lấy bức thư mở ra xem. Nguyên lai phong thư này là để giới thiệu điệt nhi của bà cho Niếp Ẩn Nương. Trong thư nói, điệt nhi của bà, Phương Ích Phù tuổi còn nhỏ, kiến thức nông cạn, vừa mới học thành xuất sư, muốn ra giang hồ trui luyện lịch duyệt, nhờ Niếp Ẩn Nương rộng lòng chiếu cố, coi hắn như thân đệ... vân vân.
Niếp Ẩn Nương mang phong thư cho Sử Nhược Mai cùng coi, nàng cười rồi nói:
“Sư phụ lão nhân gia cũng khách khí quá rồi, chúng ta ví như đều là người một nhà, còn dùng đặc biệt chiếu cố làm gì?”
Sử Nhược Mai thấy trong thư còn liệt khai “sinh thần bát tự” [1] của Phương Ích Phù, tính ra so với Niếp Ẩn Nương thì nhỏ hơn vài tháng, so với nàng thì lớn hơn một năm. Sử Nhược Mai cười thầm, nghĩ bụng, “Sư phụ cũng la sách quá, người chỉ cần nói một người là sư đệ, một người là sư tỷ thì không được sao? Hà tất phải mang sinh thần bát tự liệt khai chi tiết đầy đủ như vậy, giống như là gửi thông gia vậy”.
Nàng đâu biết rằng, Diệu Tuệ thần ni đích thực là có ý này. Phương Ích Phù là điệt nhi chí thân của bà, bà đương nhiên là hy vọng y lấy được một người vợ tốt. Bà có hai đệ tử, Sử Nhược Mai từ nhỏ đã được gả cho Đoàn Khắc Tà, Niếp Ẩn Nương còn chưa có người hỏi, điều này bà đều biết. Niếp Ẩn Nương lại tương đối lão luyện, tính tình càng hợp với tích cách của bà, bởi vậy mà rất muốn tác hợp cho cháu mình. Bất quá, bà cũng biết việc chung thân đại sự của nam nữ, phải do cả hai bên tâm đầu ý hợp mới thành, nếu như bà lấy thân phận sư phụ đứng ra làm mối, vốn dĩ với tính tình của Niếp Ẩn Nương, chỉ sợ trong lòng nàng không vui cho rằng sư phụ đã dùng thân phận mình mà ép đặt. Cho nên trong phong thư của bà tịnh không có nói rõ ràng, chỉ nói nhờ Niếp Ẩn Nương chiếu cố điệt nhi của bà, dụng ý là để cho hai người bọn họ có nhiều cơ hội tiếp cận lẫn nhau. Chuyện đó tự nhiên phát triển.
Niếp Ẩn Nương vốn tính tình khoáng đạt, trong lòng nàng sớm đã có Mưu Thế Kiệt, xem qua phong thư của sư phụ mặc dù cảm thấy sư phụ hơi có điểm khác thường nhưng cũng hoàn toàn chưa lãnh hội được ý tứ này của sư phụ, nàng lập tức cười nói:
“Phương sư đệ, võ công của đệ kiêm cả sở trường hai nhà, ta tự thấy thẹn làm sư tỷ, sau này còn phải nhờ đệ chỉ điểm nhiều hơn. Sư phụ quả thật phải nên nói ngược lại mới đúng chứ”.
Sử Nhược Mai cũng cười mà rằng:
“Thiết Ma Lặc là đại sư huynh của huynh, huynh còn sợ không có người chiếu cố hay sao?”
Phương Ích Phù nét mặt hơi đỏ, gã nói:
“Kim Kê lĩnh của Thiết sư huynh đã bị quan quân công phá, ta thực sự là đến tìm không được, chỉ đành trước tiên đến bái kiến hai vị sư tỷ”.
Nguyên lai gã cũng biết tâm ý của cô cô, gã không nói rõ thân phận của mình trước, cho đến tận khi cùng Niếp Ẩn Nương tỷ thí một trận mới nói ra, chính là vì muốn thử võ công của Niếp Ẩn Nương có phối được với gã không.
Sử Nhược Mai cười nói:
“Phương sư huynh, huynh nói ngược rồi. Huynh là đến bái kiến Niếp sư tỷ, sao lại kéo thêm ta vào? Chẳng lẽ huynh có khả năng tiên tri hay sao, biết được hôm nay ta cũng đến bái kiến Niếp sư tỷ? Huống hồ ta cũng không phải sư tỷ của huynh”.
Phương Ích Phù cười ha hả nói:
“Vậy ta xin nhận lỗi với muội, vừa rồi ta ở trên tửu lâu còn chưa biết muội là sư muội ta, hành vi cũng không đủ trang trọng, đã chọc giận muội rồi”.
Sử Nhược Mai đáp:
“Phương sư huynh, bây giờ ta đã minh bạch rồi, ta đánh thắng trận đó, thực tình là huynh đã ngầm ám trợ ta đúng không?”
Phương Ích Phù cười rằng:
“Muội vừa xuất thủ, ta liền biết muội là đồ đệ của cô cô ta. Sau đó muội đánh ngã hai tên bại hoại kia, nhảy xuống tửu lâu, ta vốn muốn nói với muội rõ ràng nhưng ta thấy muội đang rất đắc ý cho nên không muốn làm mất hứng của muội”.
Sử Nhược Mai mặt đỏ bừng, Niếp Ẩn Nương nghe rõ chuyện trải qua, cũng không nhịn được lại cười lên.
Phương Ích Phù nói:
“Sử sư muội, sao muội và Linh Sơn phái lại kết thù vậy?”
Sử Nhược Mai đáp:
“Muội cũng đang không hiểu ra sao. À, Linh Sơn phái là gì vậy, Phương sư huynh, nghe huynh nói vậy, có vẻ huynh biết được lai lịch của bọn chúng?”
Phương Ích Phù nói:
“Ta mới sơ tẩu giang hồ, số người biết được rất ít, lai lịch của hai tên bại hoại đó ta không biết chút gì. Bất quá, danh đầu của Linh Sơn phái ta có được nghe sư phụ nói qua. Muội dây vào bọn họ, sau này càng phải để tâm cẩn thận mới được”.
Sử Nhược Mai nói:
“Thế nào, bọn chúng thì không dây được sao? Muội thấy võ công của chúng mặc dù hơn muội một bậc nhưng cũng không có thấy là cao đến mức nào?”
Phương Ích Phù nói:
“Trong lời đàm thoại của tặc hòa thượng đó để lộ hắn là đệ tử của Linh Sơn phái. Võ công của hắn mặc dù bình thường nhưng tổ sư Linh Thứu thượng nhân của Linh Sơn phái lại là nhân vật cực kỳ khó đối phó”.
Nghỉ một hơi rồi y lại tiếp:
“Linh Sơn phái là một chi phái của Tây Vực Hồng giáo nhưng Giáo chủ Linh Thứu thượng nhân lại là người Hán, đồ đệ lão thu đủ loại phức tạp, Phiên, Hán mỗi bên một nửa, tăng tục cũng có. Nghe nói Linh Thứu thượng nhân năm đó là sư huynh của đại ma đầu danh chấn một thời Triển Long Phi, bởi vì lão bất đắc chí ở Trung Nguyên nên mới bỏ đến Tây Vực, cạo tóc làm tăng, mở một tông phái riêng biệt”.
Niếp Ẩn Nương giật mình kinh hãi, nàng nói:
“Triển Long Phi không phải là trượng phu của Triển đại nương, phụ thân của Triển Nguyên Tu đó sao?”
Phương Ích Phù gật gật đầu rồi nói:
“Không sai, Năm đó, các chánh phái vây công Triển Long Phi, sư phụ và cô cô ta cũng từng tham gia, còn hội họp với mấy người Phong Cái Vệ Việt, Tây Nhạc Thần Long Hoàng Phủ Tung mới đánh bại được y”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Linh Thứu thượng nhân là sư huynh của Triển Long Phi, thiết nghĩ võ công càng cao cường hơn. Nói như vậy, Linh Thứu thượng nhân này đích thực là nhân vật không thể dây vào được”.
Nhưng Linh Sơn phái ở mãi tận Tây Vực, Sử Nhược Mai lại là một vô danh tiểu bối tầm thường của võ lâm Trung Nguyên, một nữ tử vừa mới xuất đạo, cùng với Linh Sơn phái nước sông không phạm nước giếng, sao lại kết oán với bọn họ được? Mọi người đều đoán không nổi, thầm sợ đến toát mồ hôi.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Việc kỳ lạ khó hiểu thế này, muốn lý đến cũng không lý đến được, tạm thời không quản đến nó nữa. Phương sư huynh, huynh đi đâu nữa?”
Phương Ích Phù đáp:
“Ta có ý muốn đến Trường An tham gia anh hùng đại hội của Tần Tương, thu thêm kiến thức. Niếp sư tỷ, các người không phải cũng chuẩn bị đi xem náo nhiệt hay sao?”
Niếp Ẩn Nương biết câu chuyện hai người bọn họ vừa mới nói đã bị Phương Ích Phù nghe được, nàng nghĩ bụng, “Sư phụ trịnh trọng giao phó trách nhiệm cho ta chiếu cố y, nếu như không đồng hành cùng y thì cũng khó mà ăn nói”.
Lập tức nàng liền nói:
“Không sai, ta và Sử sư muội đang thương lượng việc đến Trường An, không ngờ Phương sư đệ cũng có ý như vậy, vậy chúng ta cùng đồng hành nha”.
Sử Nhược Mai một lòng muốn đến Trường An tìm Đoàn Khắc Tà, nàng cũng có chút không thích đồng hành với Phương Ích Phù nhưng Niếp Ẩn Nương đã đáp ứng như vậy, huống hồ Phương Ích Phù cũng là đồng môn, nàng cũng không tiện phản đối ngay.
Lập tức Niếp Ẩn Nương mời Phương Ích Phù nghỉ lại trong nhà một đêm, sáng sớm ngày thứ hai thì lên đường.
Niếp, Sử nhị nữ đã bỏ trâm sửa mày đóng giả làm quan quân. Niếp Ẩn Nương thấy Phương Ích Phù một thân y phục nhà nông đồng hành với các nàng thì không phù hợp lắm, liền kêu Phương Ích Phù cũng cải trang thành một giáo úy làm võ quan tùy tòng, lại dạy cho y những chú ý về ứng đối lễ nghi và thói quen của quan quân đương thời. Phương Ích Phù cười rằng:
“Ta chỉ một mực theo bên sư phụ, giúp người làm Ma kính tiểu tư [2], không nghĩ bây giờ lại một bước lên trời được làm quan lại. Nhưng làm quan lại có nhiều câu thúc như vậy, thế này kém xa với việc làm Ma kính tiểu tư tự do tự tại”.
Sử Nhược Mai lúc này mới minh bạch. Nguyên lai y trên người mặc trang phục thiếu niên quê mùa hoàn toàn không phải là cố tình giả trang mà bởi vì y theo sư phụ Ma Kính lão nhân nên có quan hệ đến việc mài kính.
Niếp Ẩn Nương chuẩn bị xong văn thư giả để thượng kinh, lại còn cấp phát cho Phương Ích Phù một yêu bài (thẻ bài giắt vào eo), sau đó chọn lấy ba thớt tuấn mã, ngay trong ngày lên đường đến Trường An.
Dọc đường đồng hành, không tránh khỏi cùng nhau bàn luận chuyện giang hồ, võ lâm nhàn sự, Niếp Ẩn Nương phát giác Phương Ích Phù mặc dù mới rời khỏi sư môn nhưng kiến thức so với nàng không kém hơn. Nguyên lai Ma Kính lão nhân dạy đồ đệ không giống người khác, lão không phải bế môn truyền nghệ mà muốn đồ đệ gánh vác dụng cụ mài kính, đi theo lão hết xuyên châu lại quá huyện. Cho nên kinh nghiệm giang hồ của Phương Ích Phù không thiếu. Niếp Ẩn Nương cười thầm, “Sư phụ bảo ta chiếu cố y, kỳ thật phải ngược lại kêu y chiếu cố ta mới đúng”. Nàng không nghĩ đến sư phụ lại có tâm tư khác.
Bọn họ phi ngựa thật nhanh, không quá bảy ngày đã đến được Hưng Bình, đây là một thị trấn tương đối hưng vượng, từ Hưng Bình đến Trường An cưỡi ngựa đi bất quá chỉ hai hôm là đến. Hoàng hôn gần xuống, một đoàn ba người vào đến thị trấn Hưng Bình, chọn một khách điếm lớn nhất để qua đêm.
Bước đến trước cửa khách điếm, Sử Nhược Mai chợt “uy” một tiếng nói:
“Ở đâu đến hai thớt ngựa tốt vậy?”
Niếp Ẩn Nương đưa mắt quan sát, chỉ thấy khoảng đất trống trước cửa điếm nơi buộc ngựa, sớm đã có hơn mười thớt ngựa của khách thương, trong đó có hai thớt ngựa nổi bật so với quần ngựa, một thớt toàn thân màu hỏa hồng, một thớt toàn thân màu tuyết bạch, mới nhìn là biết ngay tuấn mã nghìn vàng khó kiếm.
Sử Nhược Mai nhỏ giọng nói:
“Đây là chủng loại danh mã Khang Cư, số ngự mã mà Mưu Thế Kiệt cướp trước đây cũng cùng một loại. Ta từng cưỡi qua một thớt mã loại này nhưng cũng không so được với thần tuấn của hai thớt mã đây!”
Niếp Ẩn Nương lấy làm kinh hãi, “Chẳng lẽ có cao thủ đại nội ở đây?”
Nàng buộc ngựa của mình xong liền lặng lẽ bước đến gần để xem hai thớt danh câu. Nguyên lai ngự mã nhất định sẽ có đóng lạc ấn của nội phủ, khác với các con ngựa bình thường khác. Chỉ thấy hai thớt mã này một chút sẹo cũng không có chứ đừng nói đến một khối lạc ấn.
Hai thớt mã này rất có linh tính, thấy có người lạ đến gần, hơn nữa lại không ngừng xăm xoi bọn chúng, đột nhiên chúng đều phát tác giận dữ, hí vang một tiếng, dựng bờm dương vó, liền muốn đá Niếp Ẩn Nương. Ngay lúc đó, chỉ nghe một tiếng quát:
“Ngươi muốn chết à? Dám trêu chọc ngựa gia gia ngươi cưỡi!”
Của khách điếm chợt mở, một người thò đầu ra, trỏ ngón tay mắng, bộ dáng rất quái lạ, tựa như Trư Bát Giới được miêu tả trong Tây Du Ký, mũi hếch lên trời, trán bằng như bãi đất, tóc màu vàng được buộc lại bằng một chiếc kim hoàn, đúng là Tây Vực đầu đà, vừa nhìn đã khiến người khác thêm phần chán ghét.
Sử Nhược Mai không nhịn được tức giận, nàng mắng lại:
“Đây là cái lý gì, nhìn một chút thì có gì mà khó khăn, sao ngươi mở miệng là nói muốn đả thương người?”
“Đại sư đừng trách, chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một long câu thần tuấn như vậy, bất giác nhìn lâu một chút”.
Đầu đà kia thấy Niếp Sử nhị nữ hai người mang trang phục quan quân, Niếp Ẩn Nương lại khen thưởng hảo mã của y, hướng y bồi lễ cho nên tức giận cũng tiêu hết vài phần. Nhưng lão đối với Sử Nhược Mai lại làm như cố ý, hai mắt trừng trừng nhìn nàng.
Đang lúc hai bên còn chưa phát tác, lại có một người bước ra cửa, kéo đầu đà kia lại rồi cười nói:
“Khó được hai vị đại nhân đây thưởng thức tọa kỵ của chúng ta, sư huynh, huynh cũng nên cao hứng mới phải chứ”.
Y ngầm đưa mắt nháy đầu đà một cái, đầu đà kia ngẩn người ra rồi bất chợt hòa hoãn sắc mặt ôm quyền nói:
“Sái gia sinh ra vốn tính táo bạo, vừa rồi không biết là hai vị đại nhân, đã đắc tội nhiều, xin đừng trách, đừng trách”.
Đồng bạn của đầu đà kia cũng là một người Tây Vực, nhưng lại mặc trang phục tục gia, mũi sư miệng hổ, so với đầu đà kia thì anh tuấn hơn nhiều. Thế nhưng nhãn tình của y thì âm âm trầm trầm, mới nhìn qua là biết ngay giảo hoạt hơn đầu đà rất nhiều. Y hướng Niếp Sử hai ngươi cẩn thận dò xét một phen, rồi bước lên thỉnh giáo:
“Hai vị đại nhân cao danh quý tánh là gì, làm việc ở đâu?”
Sử Nhược Mai đang muốn nói: “Quan hệ gì tới ngươi?” Lời còn chưa thoát ra khỏi miệng, Niếp Ẩn Nương đã lén kéo tay nàng lại, tùy tiện nói ra hai cái tên giả. Người kia nói:
“À, nguyên lai hai vị đại nhân cũng là đến Trường An, Trường An qua vài ngày nữa có anh hùng đại hội, vừa lúc kịp đến xem trường đua tranh náo nhiệt”.
Niếp Ẩn Nương thản nhiên nói:
“Vậy sao? Xin thứ lỗi, chúng ta có việc công trong mình, xin thứ không thể nói nhiều được”.
Ngươi kia như chạm phải chiếc đinh nhọn, hắn sượng sùng bỏ đi.
Niếp, Sử, Phương ba người bước vào khách điếm, chỉ thấy đầu đà kia và chưởng quỹ đang tranh cãi. Chưởng quỹ nọ chắp tay vái thi lễ nói:
“Thật sự xin lỗi, thượng phòng đã có người trọ rồi. Đại sư, tôi chuẩn bị cho ngài một gian phòng ở hướng nam, so với thượng phòng cũng không kém bao nhiêu. Ngài ngủ tạm tại đó một đêm vậy”.
Đầu đà kia quát lớn:
“Nói vớ vẩn, ngươi vì sao không lưu thượng phòng lại cho ta? Hừ, có người trọ rồi à? Kêu hắn đi ra, nhượng lại cho ta!”
Chưởng quỹ kia mặt như đưa đám nói:
“Vị khách nhân đó là người đến trước”.
Đầu đà giận dữ:
“Quản gì hắn đến trước với đến sau, ngươi dám không nghe ta phân phó?”
Chợt thấy một âm thanh thanh thúy của thiếu nữ lạnh lùng nói:
“Loại người man rợ không nói lý lẽ này thật sự là hiếm thấy!”
Chúng nhân mắt hoa lên một cái, đã thấy một nữ tử xinh đẹp dung mạo động lòng người đứng trước mặt đầu đà kia.
Đầu đà không ngờ khách nhân của thượng phòng lại là một cô gái xinh đẹp như thế, bất giác hắn ngây người ra, tựa như bị dung nhan của nàng ta hớp mất hồn, tức giận cũng không phát tiết ra nữa.
Thiếu nữ kia hừ một tiếng rồi nói:
“Ngươi dựa vào cái gì mà muốn ta nhượng phòng cho ngươi?”
Đầu đà kia bị mắng cũng ngậm miệng không nói một lời, nếu như đối phương là một đại hán, song quyền của hắn sớm đã đấm ra rồi nhưng đối phương lại là một nữ tử thiên kiều bá mị, làm sao có thể ra tay đánh được chứ. Tên mũi sư tử từ đầu đến cuối cứ nhìn thiếu nữ không rời mắt, đột nhiên hắn bước lên phía trước hướng đầu đà kia líu líu lo lo vài câu, ước chừng là nói bằng tiếng Tây Vực, mọi người cũng đều không hiểu.
Thiếu nữ kia càng sanh tức giận, nàng “hừ” một tiếng, rồi lạnh lùng nói:
“Các ngươi lén lén lút lút thương lượng gì với nhau? Muốn đánh thì bước lên đây!”
Tên mũi sư tử cười nói:
“Cô nương hiểu nhầm rồi, là ta khuyên sư huynh ta hướng cô bồi lễ”.
Đầu đà kia lại ngẩn người, thần sắc trên mặt trông rất cổ quái nhưng nghe sư đệ nói như vậy, cũng là cúc cung phụng mệnh, quả nhiên thi lễ bồi tội nói:
“Đâu có đạo lý nam tử hán đòi nữ nhân nhường phòng. Ta vừa rồi không biết là cô nương ngươi trọ ở đây, buông lời lỗ mãng, xin cô đừng trách”.
Sử Nhược Mai cười thầm:
“Đôi sư huynh đệ này đúng là cặp bạn già nối khố, một người làm tốt, một kẻ làm xấu, đầu đà này bồi tội xem chừng cũng thành thói quen rồi”.
Thiếu nữ kia được đầu đà thi lễ, tranh cãi đã thôi nhưng tựa hồ chần chừ tức giận còn chưa hạ xuống, nàng chuyển thân quay lại phòng, một mặt đi một mặt nhấm nhẳng mắng:
“Cho là ta dễ khi phụ lắm hả? Hừ, thực sự là cái lý gì đây!”
Gian thượng phòng mà thiếu nữ trọ là gian cuối cùng của hành lang. Khi nàng ta vừa mở rèm cửa, trong thoáng chốc đó mục quang của Sử Nhược Mai cũng đúng lúc liếc qua, nàng mơ hồ thấy bóng lưng của một nam tử giống như đã từng quen biết nhưng khoảng cách quá xa, ánh sáng của hành lang lại ảm đạm. Thiếu nữ kia vừa vào phòng liền lập tức đóng kín cửa, Sử Nhược Mai muốn nhìn thêm cũng không thể.
Trong phòng, nam tử kia đang khuyên thiếu nữ đó, Sử Nhược Mai lại dỏng tai nghe, mấy câu đầu âm thanh rất nhỏ nhẹ, mơ hồ không rõ, sau đó nói tiếp, tựa hồ nam tử kia cũng có điểm tức giận, nói xong một câu rồi lớn giọng:
“Người khác đã không sinh sự rồi, ngươi cũng đừng mang phiền toái đến cho ta nữa!”
Có thể đoán rằng, nhất định là thiếu nữ kia xuất đầu, nam tử này thấy tranh cãi đã thôi, nên không muốn gây lại phong ba.
Sử Nhược Mai trong lòng chấn động, nguyên lai nàng nghe thấy chính là tiếng nói của Đoàn Khắc Tà! Đoàn Khắc Tà và nàng tranh cãi cũng đã vài lần, âm thanh ngữ khí chê trách của chàng nàng đều nghe quen thuộc hết. Chớ nói câu cuối cùng có thể nghe thấy rõ ràng, cho dù nghe không rõ ràng lắm nàng cũng có thể nhận ra là thanh âm của Đoàn Khắc Tà!
Nhưng Sử Nhược Mai trong lòng vẫn nghi ngờ, không dám hoàn toàn tin tưởng vào tai mình, nghĩ ngược nghĩ xuôi, “Sao lại là Khắc Tà được? Chàng sao có thể cùng với một nữ tử ngủ chung một phòng?” “Chẳng lẽ là người khác có giọng nói giống chàng? Nhưng làm sao có thể giống y hệt như vậy?”
Niếp Ẩn Nương không nghe ra là thanh âm của Đoàn Khắc Tà, nhìn thấy nàng nhãn tình ngơ ngác, đứng trơ ra ngây ngốc như khúc cây, bất giác cười nói:
“Vị cô nương này thật là một mỹ nhân ngây thơ, sao mà muội nhìn đến phát ngốc như vậy? Đáng tiếc người ta đã có trượng phu rồi, bộ dạng muội vô lễ vậy, đề phòng trượng phu người ta ra đánh cho một trân, thôi đừng ngây dại nữa, trước tiên lấy phòng trọ đã”.
Niếp Ẩn Nương đang muốn đến nói với chưởng quỹ kia, lại thấy tên mũi sư tử hi hi cười đứng một bên bàn chưởng quỹ hỏi thầm:
“Vị cô nương kia tên họ là gì, thiếu niên cùng trọ với cô ta là người nào, ngươi có biết hay không?”
Chưởng quỹ kia chỉ đáp:
“Quy củ của khách điếm chỉ cần trả tiền là có thể trọ lại, bất luận khách nhân sinh sống bằng nghề gì chúng tôi đều không tra hỏi. Lão ông hỏi vậy, xin thứ cho tiểu nhân hoàn toàn không biết”.
Tên mũi sư tử nói:
“Chẳng lẽ tính danh của bọn họ, ngươi cũng không hỏi qua sao?”
Chưởng quỹ chỉ đáp:
“Là thiếu nữ kia đã có giao ước với tôi, nam nhân kia cũng không nói ra”.
Tên mũi sư tử lại nói:
“Ta chính đang muốn biết tính danh của nữ nhân kia, nam nhân không cần thiết”.
Chưởng quỹ làm mặt đau khổ nói:
“Lão ông từ Tây Vực đến, ước chừng không rõ ràng tập quán của Trung Thổ, phương danh của cô nương kia, nàng ta đã không nói, chúng tôi cũng không tiện hỏi”.
Mũi sư tử nhíu nhíu lông mày, chợt hắn móc ra một đĩnh nguyên bảo rồi nói:
“Chỉ cần biết một cái họ cũng được, đĩnh nguyên bảo này sẽ thuộc về ngươi!”
Đĩnh nguyên bảo này có đến mười lượng, chưởng quỹ đưa mắt ước lượng, gãi gãi đầu rồi nói:
“Tôi nhớ ra rồi, tôi nghe thấy nam nhân kia gọi nữ nhân đó, tựa hồ gọi cô ta là Sử cô nương!”
Đầu đà kia thất thanh “ai chà” một tiếng, hai mắt sáng lên, thần tình vui mừng xen lẫn kinh ngạc, tên mũi sư tử ngầm dùng khuỷu tay huých hắn một chút rồi cười nói:
“Như vậy là được, bạc này cho ngươi!”
Hắn thảy đĩnh bạc xuống rồi liền cùng sư huynh quay về phòng.
Niếp Ẩn Nương thấy tên mũi sư tử dùng đến mười lượng bạc chỉ để nghe lấy một cái họ, trong lòng đương nhiên cũng cảm thấy kỳ quái nhưng cũng bỏ qua. Sử Nhược Mai bỗng cả kinh, nàng nhớ lại ngày hôm đó trên tửu lâu, nghe được tên đạo sĩ kia nói chuyện, nàng thầm nghĩ, “Có chuyện trùng hợp như vậy sao, vị cô nương này cũng là họ Sử, đạo sĩ kia nói Đoàn Khắc Tà cùng với một vị cô nương tốt với nhau, chẳng lẽ là chỉ cô ta! Chính đạo sĩ còn nói, Đoàn Khắc Tà chung quy không thích nữ tử kia nhưng sao bây giờ bọn họ lại ở một chỗ?”
Càng nghĩ nàng càng thấy hồ đồ, trong thời gian ngắn mà tâm sự như sóng triều, suy đoán nghi ngờ không thôi.
Niếp Ẩn Nương hướng chưởng quỹ kia đặt phòng, chưởng quỹ thấy bọn họ là quan quân, sợ bọn họ kén chọn, vội vàng chắp tay thi lễ vái chào rồi nói:
“Tiểu điếm chỉ còn hai gian khách phòng, không biết mọi người có hài lòng không”.
Niếp Ẩn Nương cười rồi nói:
“Chúng ta chỉ cần hai gian, chỉ cần ngủ được là được, chúng ta không giống như đầu đà Tây Vực kia không phải thượng phòng là không được”.
Chưởng quỹ chưa từng thấy quan lại đương thời có hòa khí như vậy, mừng rỡ lộ ra ngoài, lập tức đưa bọn họ đi. Niếp, Sử hai người một gian, Phương Ích Phùng một mình một gian. Khá trùng hợp là họ chỉ cách một gian phòng từ phòng thiếu nữ kia.
Sau khi chưởng quỹ đi, Phương Ích Phù đi qua bảo:
“Hai tên Tây Vực hành vi kỳ quái, đêm nay chúng ta cần phải đề phòng nhiều hơn”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Ta cũng thấy chọn chúng không phải người tốt, nhưng chúng ta là thân phận quan quân. Xem chừng bọn chúng cũng không dám khinh khi trêu chọc”.
Phương Ích Phù vâng vâng dạ dạ, nói chuyện một hồi rồi quay trở lại phòng.
Sử Nhược Mai mang đầy tâm sự, ăn cơm xong đã gần canh ba, trằn trọc không ngủ được, một mình đúng dựa trước cửa sổ. Niếp Ẩn Nương bắt chuyện với nàng, nàng cũng chỉ câu ậm câu ừ làm bộ dạng mất hồn.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Uy, muội lại nghĩ đến chuyện gì mà nhiều tâm sự như vậy?”
Sử Nhược Mai tâm tình chán nản, ủ rũ như không nghe thấy. Bên ngoài mưa phùn tựa lông trâu, gió lạnh buồn se sắt, trong vườn có mấy cây ngô đồng, lá cây từng phiến từng phiến rơi xuống. Mây đen mờ ánh nguyệt, đêm đen như mực, hạt mưa theo gió hắt lên khuôn mặt càng khiến lạnh lùng. Sử Nhược Mai trong lòng đầy xúc cảm, nàng chầm chậm ngâm:
“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên thai nhược bỉ lân!”
Diễn dịch:
“Bốn biển hãy còn người tri kỷ
Chân trời cũng tựa được kề bên”
Tiếng ngâm mặc dù rất nhẹ nhưng lại là vận dụng chân khí từ đan điền tống ra, tiếng thanh tựa nước, ngân như chuông bạc.
Niếp Ẩn Nương nhìn thân hình xiêu nghiêng của nàng cười nói:
“Nguyên là muội đang mắc bệnh tương tư, đáng tiếc Đoàn Khắc Tà không kề bên, cô phụ hồng nhan tri kỷ muội. Thôi, đừng ngốc nữa, không sợ làm kinh động giấc ngủ của người khác sao?”
Nàng ta đâu biết rằng Sử Nhược Mai chính là đang muốn làm kinh động giấc ngủ của người, nàng hy vọng Đoàn Khắc Tà nghe được tiếng nàng. Thế nhưng tâm tình nàng lại đang trong tình cảnh mâu thuẫn, một hồi thì hy vọng Đoàn Khắc Tà nghe tiếng mà đến, một hồi lại hy vọng mình nhận lầm người, Đoàn Khắc Tà đang không ở trong khách điếm này.
Niếp Ẩn Nương cười nói:
“Hải nội tồn tri kỷ, thiên nhai nhược bỉ lân. Hai câu thơ của Vương Bột viết thiệt là hay. Muội cùng với Đoàn Khắc Tà lòng đã hiểu lòng, người tại chân trời nhưng cũng tựa kề bên, không cần phải mãi lo lắng không yên, ngủ đi, ngủ đi nào”.
Nàng ta kéo Sử Nhược Mai rời khỏi song cửa, đang xoay thân mình nàng, chợt thấy nơi khóe mắt nàng có hai giọt lệ châu trong suốt. Niếp Ẩn Nương vừa thương xót lại vừa buồn cười, nàng nói:
“Muội thực sự là đa sầu đa cảm, cứ như vậy, ta xem muội sẽ phát điên mất đấy!”
Nàng ta đâu biết lời của mình lại động đến tâm sự của Sử Nhược Mai, càng khiến nàng thêm thương cảm. Sử Nhược Mai thở dài, u uẩn nói:
“Niếp tỷ tỷ, tỷ nào có biết, tình cảnh đêm nay phải nên ngược lại với hai câu thơ này mới đúng. Nếu như y thực kề bên, y sẽ không còn là tri kỷ của muội”.
Niếp Ẩn Nương lấy làm kỳ lạ không hiểu ra sao, nàng nói:
“Không phải muội sinh bệnh chứ? Hai câu thơ này là giả dụ, muội sao lại suy nghĩ vẩn vơ, lại nghĩ Đoàn Khắc Tà thực sự ở bên cạnh?”
Sử Nhược Mai khẽ cắn môi nói:
“Niếp tỷ tỷ, muội không phải suy nghĩ vẩn vơ, muội chỉ sợ Đoàn Khắc Tà thực sự ở đây”.
Niếp Ẩn Nương lấy làm kinh ngạc hỏi:
“Muội nói cái gì, y làm sao mà ở đây được?”
Lời còn chưa dứt chợt nghe tiếng “đinh đương” vang lên, tiếp theo có tiếng Phương Ích Phù quát:
“Ngươi đến đây làm gì?”
Trong khoảnh khắc, Sử Nhược Mai ngây người như khúc cây, sắc mặt chuyển trắng bệch. Niếp Ẩn Nương với bảo kiếm xuống, đẩy song cửa sổ, nhảy ra ngoài xem.
Chỉ thấy cách một mái ngói, trên nóc nhà có hai bóng đen đang đấu kiếm! Người hướng mặt về nàng, vừa liếc qua có thể nhìn ra là Phương Ích Phù, người xoay lưng về phía nàng thì trong đêm đen nên nhìn không rõ, chỉ thấy như đã từng quen biết.
Đúng vào lúc này, kiếm quang chớp động, đương đương hai tiếng, Phương Ích Phù bị hắc ảnh kia bức lui hai bước. Trong mưa mái ngói trơn ướt, Phương Ích Phù đứng không vững, tựa hồ suýt lăn xuống dưới nhưng hắc ảnh kia lại lập tức thu chiêu, ngược lại chuyển thân bỏ chạy. Niếp Ẩn Nương nhìn qua vài chiêu, trong lòng chấn động, hắc ảnh này không phải Đoàn Khắc Tà thì là ai? Trong sát na đó, Niếp Ẩn Nương cũng đột nhiên ngây người phát ngốc.
Nguyên lai, Đoàn Khắc Tà cùng Sử Triêu Anh đúng lúc cũng tá túc tại khách điếm này, bọn họ trọ trong một gian sáo phòng (phòng xép), ở giữa còn có một lớp ván ngăn cách. Đoàn Khắc Tà cũng nhìn ra hai người Hồ tuyệt không phải hạng thiện lương, mặc dù chàng trách mắng Sử Triêu Anh, không cho nàng ta gây thêm phiền toái nhưng bản thân chàng cũng không thể không cẩn thận, chú tâm đề phòng, cho nên đêm nay chàng cũng thức canh đến khuya, một mực ngồi trên giường dưỡng thần. Canh ba qua đi, tiếng ngâm của Sử Nhược Mai chợt truyền đến, Đoàn Khắc Tà kinh nghi bất định, liền theo tiếng ngâm mà đến, xem cứu cánh là gì.
Phương Ích Phù cũng vì đề phòng hai tên người Hồ sanh sự, sớm đã phục trên nóc nhà cảnh giới. Vừa thấy Đoàn Khắc Tà đi tới, thân pháp lại nhanh đến dị thường, sợ rằng không địch lại liền tiên phát chế nhân. Đoàn Khắc Tà mới đến gần bên người y, y liền nhảy lên lặng lẽ phóng tới một kiếm.
Phương Ích Phù kiếm thuật được đắc truyền từ hai phái, tinh diệu vô cùng. Đoàn Khắc Tà suýt nữa thì bị y đâm trúng, đành phải bạt kiếm nghênh địch. Trong khi giao thủ hai người đều cả kinh, bội phục đối phương cao cường. Nhưng Đoàn Khắc Tà dù sao cũng cao hơn một bậc, đấu tới chiêu thứ bảy, Đoàn Khắc Tà chiếm thế công, bức bách Phương Ích Phù liên tiếp lùi về phía sau, cơ hồ sắp ngã lăn xuống dưới.
Đoàn Khắc Tà bị phát hiện hành tung thì cảm thấy xấu hổ, trong lòng nghĩ thầm, “Gây ra lộn xộn cũng không hay. Có người ngoài, cho dù gặp được Nhược Mai cũng không tiện nói chuyện”.
Nào ngờ chàng muốn rút đi, Phương Ích Phù cũng không chịu buông tha. Phương Ích Phù vừa mới xuất đạo, lần đầu cùng “địch” nhân chính thức giao thủ, lại bị nếm mùi thiệt thòi không tránh khỏi không cam tâm, lại vì lúc này y nhìn thấy Niếp Ẩn Nương đi ra, trước mặt sư tỷ càng không muốn mất thể diện, vì vậy hét lớn một tiếng:
“Tiểu tặc, ngươi lén lén lút lút đến đây làm gì? Không nói rõ ràng lại muốn chạy à?”
Chân điểm lên mái ngói, phi thân đánh tới một chiêu “Ưng Kích Trường Không”, người còn đang lơ lửng trên không, kiếm quang đã như dải lụa đâm xuống thật nhanh.
Đoàn Khắc Tà không biết Phương Ích Phù là ai, làm sao chịu mang nguyên do ra nói cho Phương Ích Phù. Chàng lãnh đạm nói:
“Các hạ nhất định quản chuyện của người khác, bức bách ta, ta chỉ đành phụng bồi vậy”.
Chàng hoành kiếm chém ra, hoàn lại một chiêu, lúc này chàng đã dùng đến tám chín phần công lực. Phương Ích Phù thân hình lắc lư, còn chưa bị ngã xuống đã lại lập tức phát ra chiêu thứ hai “Ngư Trường Thiển Để”.
Niếp Ẩn Nương kêu lên:
“Phương sư đệ, dừng tay, là người quen!”
Phương Ích Phù ngẩn người, tránh qua một bên. Đoàn Khắc Tà cảm giác âm thanh rất quen thuộc, trong nhất thời còn chưa kịp nghĩ đến Niếp Ẩn Nương. Trong lúc song phương đang muốn hỏi rõ ràng, chợt nghe thấy “bùng” một tiếng, một đạo hỏa quang đột nhiên từ một gian phòng ốc nổ bung ra!
[1] Sinh thần bát tự: giờ, ngày, tháng, năm sinh viết theo Thiên can và Địa chi tổng cộng là tám chữ gọi là “sinh thần bát tự”.
[2] Ma kính tiểu tư: gã sai vặt cho việc mài kính. Ma kính là một nghề nghiệp thời cổ, thời đó dùng đồng kính tức gương đồng, cứ sau một đợt lại phải mang gương đồng mài sáng lại.