“A nguyên lai là đã quá hơn ba mươi chiêu, lời các ngươi nói có tính hay không tính, dập đầu hay không dập đầu?”
Tần gia huynh đệ đâu chịu dập đầu, một lời không nói, tấn công càng gấp. Thiếu niên cười lạnh nói:
“Làm cường đạo ngoại trừ phải xem trọng một chữ nghĩa, còn phải xem trọng chữ tín nữa, các ngươi không biết sao?”
Uất Trì Nam cười nói:
“Nguyên lai làm cường đạo cũng có thứ phải xem trọng, nhưng bọn chúng lại có thể khi áp ngư dân, hiển nhiên không phải cường đạo thượng lưu. Ngươi giảng đạo lý với bọn chúng không phải là thừa thãi sao? Ta thấy, trừ phi ngươi đánh cho bọn chúng chịu quỳ gối xuống, nếu không bọn chúng nhất quyết không chịu hướng ngươi dập đầu đâu”.
Thiếu niên nói:
“Đúng, hai người các ngươi cam tâm làm cường đạo hạ lưu không chịu dập đầu trước ta, ta đây không làm gì khác hơn là phải dụng đến vũ lực”.
Bỗng dưng y đảo ngược mũi kiếm, chuôi kiếm đánh ra, Tần lão đại kêu ối lên một tiếng, hai gối quỵ xuống. Tần lão nhị thất kinh, chưa kịp tránh né đã bị thiếu niên phóng một cước trúng ngay đầu gối. Tần lão nhị cũng không giữ được thân mình liền quỵ xuống. Do lực quỵ xuống quá lớn, đầu cả hai đều đập xuống mặt đất, mặc dù lại ngửng lên ngay nhưng cũng có thể xem là chúng đã dập đầu.
Thiếu niên cười ha hả nói:
“Các ngươi như vậy đã dập đầu, ta sẽ miễn cho các ngươi hình phạt, Lần sau nếu còn thị cường ép nhược, động phải tay ta, ta sẽ không cần các ngươi dập đầu mà sẽ xuyên thủng xương tỳ bà các ngươi, nhớ kỹ lời này, cút đi!”
Tần gia huynh đệ đứng lên, đầy mặt hổ thẹn, chỉ hận cha mẹ không sinh ra thêm hai chân nữa, vội vàng nhanh chóng đào tẩu, kỳ dư những cường đạo còn lại cũng đều hô nhau giải tán.
Chỉ trong chốc lát, quần đạo đều trốn đi hết không còn thấy bóng dáng tăm hơi, chỉ còn lại có Uất Trì Nam và thiếu niên kia. Uất Trì Nam giơ ngón tay cái lên khen:
“Đánh hay lắm, đánh rất tuyệt! Họ Mưu kia, ngươi cũng có thể coi là một hảo hán!”
Thiếu niên cười đáp:
“Tướng quân đã quá khen, thật xấu hổ không dám nhận”.
Uất Trì Nam đột nhiên nhướng to mắt, kêu lên:
“Đáng tiếc, đáng tiếc!”
Thiếu niên kia hỏi lại:
“Cái gì đáng tiếc”.
Uất Trì Nam nói:
“Đáng tiếc cho ngươi, tuy là một trang hảo hán, nhưng ta vẫn không thể không bắt ngươi giải lên kinh!”
Thiếu niên lại nói:
“Đáng tiếc, đáng tiếc!”
Uất Trì Nam hỏi:
“Ngươi thì đáng tiếc cái gì?”
Thiếu niên đáp:
“Ta an bài ngươi vào lúc cuối cùng, trong lòng vốn nghĩ, trận chiến này giữa ta và ngươi có thể được miễn bỏ, nhưng ngươi bây giờ lại nhất định muốn bắt ta, không có biện pháp nào, ta chỉ còn cách đánh với ngươi một trận. Tâm nguyện không đạt, vậy không phải đáng tiếc sao?”
Uất Trì Nam nhíu lông mày, nói:
“Ngươi cùng đám cường đạo đó kết oán, nghe ra đều là ngươi có đạo lý, do là tại đối phương....”
Thiếu niên ngắt lời:
“Ta làm việc bao giờ cũng đều nói đạo lý”.
Uất Trì Nam liền nói:
“Tốt, ta đây muốn nghe ngươi nói đạo lý của ngươi, ngươi vì sao lại tập hợp đồng đảng cướp ngựa của Hoàng thượng, hơn nữa lại là đến hơn ba trăm thớt ngựa! Đó là Đại Uyển Lương Mã do Khang Cư Quốc tiến cống, Hoàng thượng chuẩn bị dùng cấp cho vũ lâm quân sử dụng, ngươi có biết không?”
Thiếu niên kia cười đáp:
“Ta trước đó đều đã biết rõ”.
Uất Trì Nam cả giận:
“Ngươi đã biết rõ tại sao còn ra tay, ở đây thì có cái đạo lý gì?”
Thiếu niên cười hỏi lại:
“Thống Lĩnh vũ lâm quân bây giờ là Long Kỵ đô úy Tần Tương tướng quân phải không?”
Uất Trì Nam đáp:
“Không sai, chính là Tần đại ca, ngươi hỏi làm cái gì? Ngươi cũng biết Tần đại ca sao? Như vậy càng không nên cướp số ngựa đó”.
Thiếu niên nói:
“Nghe nói Tần tướng quân rất giỏi về ngựa, tọa kỵ của hắn chính là thiên lý mã”.
Uất Trì Nam liền nói:
“Uy, Ta bảo ngươi nói đạo lý của ngươi ra, ngươi vì sao lại cùng ta nói chuyện không đâu”.
Thiếu niên kia cười nói tiếp:
“Tướng quân từ từ chớ nóng nảy, ta sẽ nói đến chánh đề. Tần tướng quân nếu là người giỏi về ngựa, ngự lâm quân do y thống lĩnh nhất định đều phải là nhân cường mã tráng chứ?”
Uất Trì Nam đáp lời:
“Cái này là đương nhiên. Người, ngựa của Vũ lâm quân đều là trong ngàn chọn một. Người là tráng sĩ, ngựa là tuấn mã, tuyệt không hàm hồ!”
Thanh niên kia lại hỏi:
“Vũ lâm quân chỉ có ba nghìn, nghe nói lại có đến gần bốn nghìn thớt ngựa, điều này có thật không?”
Uất Trì Nam hỏi lại:
“Uy, tiểu tử nhà ngươi làm sao lại biết rõ như vậy?”
Thiếu niên cười nói tiếp:
“Nói như thế, thì điều này là thật? Tốt, đây chính là đạo lý của ta. Ngươi đã nói số ngự mã ấy đều dùng để cấp cho vũ lâm quân sử dụng, nhưng vũ lâm quân tịnh không có thiếu ngựa, bọn họ còn cần thêm làm gì! Ta lấy đi ba trăm thớt ngựa của bọn họ, xem ra bọn họ cũng không có quan tâm”.
Uất Trì Nam bực tức nói:
“Không thể nói như vậy được, ngươi lấy ngựa của Vũ lâm quân là nhiều hay ít, tổng lại đó là ngựa tiến cống cho Hoàng thượng, ngươi không được động vào chúng”.
Thiếu niên cười lớn nói:
“Ngươi là hưởng lộc của hoàng gia, những thứ đó của Hoàng thượng đều không động tới được. Thân phận của ta với ngươi lại không giống, suy nghĩ cũng sẽ không giống. Ta chỉ hỏi về lý có nên hay không nên bắt? Không quản đó là Hoàng thượng hay bách tính”.
Uất Trì Nam nói:
“Tốt rồi, không quản ba trăm thớt ngựa đó là của ai. Ngươi cướp đồ của người, như thế nào mà ngươi lại còn chiếm lý?”
Thiếu niên đáp:
“Vũ lâm quân rất nhiều ngựa, ba trăm thớt ngựa này cấp cho vũ lâm quân tác dụng không lớn, thậm chí có thể là làm hại bọn chúng, nhưng nếu chúng ta lấy, chúng ta cũng có dũng sĩ, nhưng lại thiếu tuấn mã”.
Uất Trì Nam kêu lên:
“A, ta đã minh bạch, ngươi chính là cầm đầu cường đạo?”
Thiếu niên cười nói:
“Lời này chỉ đúng có một nửa”.
Uất Trì Nam thắc mắc:
“Phải là phải, không là không, tại sao lại là một nửa?”
Thiếu niên kia đáp:
“Ta hiện tại còn chưa chánh thức chiếm núi lập trại, nên không thể xem là đầu tử cường đạo. Bất quá, ta đúng là chuẩn bị gia nhập làm cường đạo. Thật không giấu diếm, sắp tới đây, có một đại hội lục lâm, các lộ hào kiêt chuẩn bị đưa Thiết Ma Lặc lên làm Minh chủ, ba trăm thớt ngựa này, ta đã bắt mang đi làm lễ diện kiến, kết nghĩa với Thiết Ma Lặc. Uất Trì tướng quân, ngươi có muốn cũng không lấy lại được!”
Uất Trì Nam mặc dù tính tình hào sảng, nhưng rốt cục cũng là quan quân triều đình, nghe vậy không khỏi cả giận hét:
“Nguyên lai các ngươi là cường đạo muốn đối địch với triều đình, ta đây càng không thể thả ngươi được”.
Thiếu niên cười nói:
“Tướng quân, lời của ngươi chỉ đúng có một nửa”.
Uất Trì Nam hỏi:
“Như thế nào mà chỉ đúng có một nửa”.
Thiếu niên kia liền đáp:
“Chúng ta là cường đạo, nhưng không nhất định là đối địch với triều đình, ít nhất hiện tại là không như vậy. Ta cướp số ngự mã kia, thậm trí có thể nói đối với Hoàng thượng chỉ có tốt không hề có hại!”
Uất Trì Nam lấy làm lạ hỏi:
“Lời thuyết pháp này của ngươi nghe rất mới lạ, tốt, ta lại nghe xem đạo lý của ngươi”.
Thiếu niên nói:
“Xin hỏi tại Ngụy Bác này, ai có quyền lực lớn nhất?”
Uất Trì Nam trả lời:
“Cái này còn phải hỏi, đương nhiên là Tiết độ sứ Điền Thừa Tự”.
Thiếu niên lại hỏi tiếp:
“Tại Lộ Châu thì sao?”
Uất Trì Nam đáp:
“Đó là Tiết Tung”.
Thiếu niên liền nói:
“Nói như vậy, Điền Thừa Tự tại Ngụy Bác, Tiết Tung tại Lộ Châu, cũng ngang với Hoàng đế không sai”.
Uất Trì Nam nói:
“Cũng có thể nói như vậy, bọn họ hai nơi đó đúng là thổ địa Hoàng đế”.
Thiếu niến kia mới cười nói:
“Theo như ta thấy, tại trong địa phận quản hạt của bọn họ, quyền lực của bọn họ so với Hoàng đế còn lớn hơn, lão bách tính chỉ sợ Tiết độ sứ chứ tịnh không có sợ Hoàng đế”.
Uất Trì Nam yên lặng không nói, thiếu niên kia lại nở một nụ cười rồi nói:
“Vũ lâm quân của triều đình có ba ngàn, Điền Thừa Tự chiêu mộ dũng sĩ gọi là Ngoại Trạch Nam, quân số cũng không duới ba ngàn, biên chế giống như vũ lâm quân các ngươi, vốn đây là bất hợp pháp, triều đình vì sao không quản tới?”
Uất Trì Nam nói:
“Cái này, cái này, ngươi quản chuyện này để làm gì? Ngươi cũng đâu phải tể tướng”.
Thiếu niên đáp:
“Lời này của ngươi nói sai rồi, Hoàng đế đều quản không được, hà huống là tể tướng? Lại xin hỏi, triều đình có luật lệ, điền thuế phải có định quy, nhưng đám Tiết độ sứ đó, có được mấy tên là chiếu theo luật lệ trị dân? Có tên nào là không tham ô bỏ mặc phép nước, tàn hại bá tánh? Thu thuế ở Ngụy Bác, so với quy định của triều đình nặng hơn ba lần, gần đây Điền Thừa Tự cho con hắn định thân, sính lễ gửi đi đều là từ quan khố, những chuyện này, ngươi biết không? Ngươi nói ta không quản, Hoàng đế có quản không?”
Uất Trì Nam thở dài nói:
“Ta cũng phẫn nộ như ngươi, nhưng đây là việc không thể tránh được. Bọn chúng đều có binh quyền, cho nên, cho nên...”
Thiêu niên cười nói:
“Cho nên triều đình muốn nhúng tay vào cũng không được, chỉ có thể quản những tên ăn trộm ngựa như ta, phải không?”
Uất Trì Nam nói:
“Ngươi định lái câu chuyện đi đâu nữa? Đến đây chúng ta hãy quay lại chính đề. Ngươi là muốn nói cho ta nghe đạo lý mà cướp ngự mã, cớ sao lại bỗng dưng chửi bới bọn Tiết độ sứ?”
Thiếu niên kia đáp:
“Ngươi còn nghe không minh bạch sao? Đó chính là đạo lý của ta! Cứ nghĩ, hiện tại là phiên trấn cát cứ, Tiết độ sứ chuyên quyền, thành thật mà nói, hiệu lệnh của Hoàng thượng các ngươi thật sự là không ra khỏi cửa. Chúng ta là cường đạo thế thiên hành đạo, đối với Hoàng đế các ngươi có cái gì là tổn hại? Nếu nói có người bị hại, là chỉ có các Tiết độ sứ các nơi và quan lại thuộc hạ của chúng, cái này không phải đối với Hoàng thượng các ngươi có hữu ích lắm sao? Vũ lâm quân của y không dám đánh Tiết độ sứ, chúng ta dám đánh. Ta cướp ba trăm thớt ngựa đó của Hoàng thượng, hiện tại cũng đã dùng để cùng quan quân Ngụy Bác, Lộ Châu đối địch. Gián tiếp mà nói, cũng đã giúp cho Hoàng thượng các ngươi, làm suy yếu lực lượng của Điền Thừa Tự và Tiết Tung, Hoàng thượng các ngươi mà biết chân tướng hẳn là còn cảm tạ chúng ta!”
Uất Trì Nam ngây người chốc lát rồi nói:
“Ngươi nói cũng có chút đạo lý, nhưng ta không thể mang điều ngươi nói chuyển tấu lên Hoàng thượng được. Ta chỉ là là phụng mệnh của Tần đại ca đi bắt ngươi”.
Thiếu niên nói:
“Tốt, ngươi thừa nhận ta có đạo lý là được. Phần chúng ta rốt cục không tránh khỏi một trận đánh là một chuyện khác”.
Uất Trì Nam đột nhiên kêu lên:
“Uy, ta có một biện pháp, chúng ta có thể không cần đánh nhau, ngươi chịu nghe ta nói không?”
Thiếu niên kia nói:
“Xin nguyện nghe cao kiến của tướng quân”.
Uất Trì Nam đáp:
“Không bằng ngươi mang thuộc hạ đầu thuận triều đình, như vậy không phải quá tốt sao? ta nguyện ý làm người dẫn lối cho các ngươi, thỉnh Tần đại ca mang các ngươi biên vào vũ lâm quân. Như vậy, ba trăm thớt ngự mã kia cũng coi như là mang cấp cho các ngươi, không cần phải truy cứu. Tương lai Hoàng thượng muốn thảo phạt các phiên trấn cường hoành, các ngươi cũng có thể xuất lực”.
Thiếu niên nọ ngửa mặt lên trời cười lớn nói:
“Ngươi xem ta có khiếu làm quan không, nhớ năm đó, Thiết Ma Lặc cũng đã từng cùng với huynh trưởng ngươi là Uất Trì Bắc và Tần Tương hai người cộng sự, cũng đã làm đến Tán Kỵ đô úy, kết quả y vì không chịu được thói xấu xa của bọn gian thần mà bỏ đi? Ta đây là người quen tự tại, so với Thiết Ma Lặc càng chịu không nhịn được tức giận, tướng quân, hảo ý của ngươi ta xin tâm lĩnh!”
Uất Trì Nam ngây người một hồi lâu, cố sự của Thiết Ma Lặc, y cũng biết, lập tức không tiếp tục khuyên nữa, thở dài một hơi rồi nói:
“Ta có lòng muốn cùng ngươi kết giao làm bằng hữu, nhưng đáng tiếc ta phụng lệnh cấp trên truy bắt, lại không thể không bắt ngươi, nói không được, chúng ta chỉ còn cách động thủ, thỉnh ngươi xuất kiếm ra!”
Thiếu niên kia ngược lại tra kiếm vào bao, cười nói:
“Ta chỉ đối với địch nhân mà ta thống hận mới dùng đến bảo kiếm. Ngươi đã có lòng cùng ta kết giao bằng hữu, ta sao có thể dùng kiếm với ngươi. Ta tay không bồi tiếp ngươi đôi chiêu!”
Uất Trì Nam nói:
“Uy, cái này không phải là trò đùa đâu”.
Thiếu niên nói:
“Ta biết, ngươi chỉ cần để tâm thi triển, đả thương ta, bắt giữ, ta đều sẽ không trách ngươi”.
Uất Trì Nam không khỏi có chút điểm tức giận, y thầm nghĩ: “Ngươi nếu biết ta không có chơi đùa, lại còn dùng tay không đối phó với trường tiên của ta, không phải là coi thường ta sao?”
Uất Trì Nam nộ khí bốc lên, liền nói:
“Được, ta đây sẽ xem công phu ‘Không thủ nhập bạch nhận’ của ngươi lợi hại ra sao”.
Một tiên liền phóng ra, nhưng rốt cuộc trong lòng y cũng có chút thương tiếc, cho nên tiên này còn chưa dùng toàn lực.
Thiếu niên thân hình lay động, mu bàn tay đón lấy ngọn tiên, song chỉ kẹp lại rồi nói:
“Ngưỡng mộ tiên pháp gia truyền của tướng quân đã lâu, vì sao không sử ra”.
Cái kẹp này khiến thân mình Uất Trì Nam chuyển động hai bước, Uất Trì Nam chấn kinh thầm nghĩ: “Tiểu tử này xác thật bản lĩnh phi phàm, ta nếu còn lưu tình, sẽ làm tổn hại đến uy danh Uất Trì gia thần tiên”.
Thiếu niên song chỉ chưa kịp buông ra, Uất Trì Nam đã rung trường tiên lên. Thiếu niên cảm thấy không thể giữ được, liền vội vàng đảo người một thế “Đảo Thái Thất Tinh bộ”, tránh khỏi một tiên của Uất Trì Nam, trong lòng cũng rúng động: “Tiên pháp Uất Trì Cung truyền lại quả nhiên không tầm thường”.
Uất Trì Nam là hậu nhân của Đường triều khai quốc Uất Trì Cung, Uất Trì Cung năm trước phụ tá Đường Thái Tông Lý Thế Dân nam chinh bắc thảo, một cây Thủy Ma Cương Tiên đã đánh gục không biết nhiều ít bao nhiêu hào kiệt, võ nghệ của Uất Trì Nam không kém hơn tổ tiên năm đó, y triển khai sáu mươi tư đường Thủy Ma tiên pháp, bàn, đả, lạp, chuyển, thôi, áp, quyển, tảo, mỗi chiêu mỗi thức, đều là vững như trầm lôi, nhanh như chớp điện. Niếp Ẩn Nương từ xa nhìn lại, chỉ thấy tiên ảnh bay lượn, bám chặt lấy thân mình ý trung nhân của nàng. Niếp Ẩn Nương mặc dù biết rõ bản lĩnh của thiếu niên kia, đối với y cục kỳ tin tưởng, nhưng cũng không khỏi âm thầm kinh hãi.
Nhưng nào biết Uất Trì Nam càng kinh hãi hơn, y chỉ nghe thấy thiếu niên kia luôn miệng tán dương:
“Hảo tiên pháp, hảo tiên pháp!”
Thế nhưng Thủy Ma tiên pháp của y, đến ngay cả chéo áo của đối phương cũng không chạm đến.
Uất Trì Nam tổ truyền có hai môn tuyệt kỹ, một là Thủy Ma tiên pháp, môn còn lại chính là công phu “Không thủ nhập bạch nhận”. Tổ phụ y là Uất Trì Cung năm đó từng tại Khiêu Mã Giản tay không đoạt được thiết giáo của kiêu tướng Ngõa Cương trại là Đan Hùng Tín, cứu Lý Thế Dân thoát hiểm, nên danh lừng thiên hạ. Uất Trì Nam tư chất chậm chạp, tuyệt kỹ gia truyền còn chưa luyện đến hóa cảnh, không so được với ca ca y là Uất Trì Bắc, tuy nhiên cũng là một đại hành gia. Cho nên lần này, khi thiếu niên họ Mưu nói muốn dùng tay không đối phó với cương tiên của y, y lúc đầu còn cười thầm, cười thiếu niên này nông cạn không nhận thức được Thái Sơn, thực là múa búa trước cửa Lỗ Ban.
Nào ngờ, qua hơn mười chiêu, Uất Trì Nam mới biết “Thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân”. Thiếu niên này bất quá chỉ dựa vào thân pháp khinh linh, tránh né nhanh nhẹn, thế nhưng dưới tiên pháp như gió cuồng sấm giật của y vẫn thấy nhàn nhã điềm tĩnh tấn công. Công phu “Không thủ nhập bạch nhận” của thiếu niên này chứa nhiều thủ pháp, ngay cả y cũng chưa từng học qua, xem ra quyết không dưới ca ca Uất Trì Bắc.
Uất Trì Nam nghĩ thầm: “Ca ca mỗi lần dùng công phu “Không thủ nhập bạch nhận” cùng ta quá chiêu, ước chừng cứ khoảng năm mươi chiêu thì khả dĩ đoạt được cương tiên của ta. Nhưng ca ca từng chỉ giáo ta bí quyết chữ “Huyền”, trong lúc nguy cấp, khả dĩ có thể dụ cho địch nhân tiến vào trung lộ, sau đó sử ra chiêu thức tiên pháp sát thủ “Bát Phương Phong Vũ Hội Trung Châu”, bất luận công phu “Không thủ nhập bạch nhận” của đối phương lợi hại thế nào, chỉ cần hắn không phải người nhà Uất Trì, sẽ quyết không thể hóa giải được!”
Nhưng lập tức y lại nghĩ: “Bất quá, nếu như ta sử chiêu sát thủ thần tiên này, sẽ đánh thiếu niên họ Mưu không chết cũng bị trọng thương, hắn cũng là một trang hảo hán anh hùng vậy!”
Uất Trì Nam còn có lòng thương tiếc, nhất thời trù trừ không quyết, nhưng thiếu niên kia càng lúc càng nhanh càng gấp, trong nháy mắt đã qua đi hơn ba mươi chiêu, Uất Trì Nam âm thầm kinh hoảng, trong lòng thầm nghĩ: “Không hay, sắp đến năm mươi chiêu, công phu của tiểu tử này còn trên ca ca ta, ta nếu không dùng chiêu đó, cương tiên nhất định sẽ bị hắn đoạt mất, ai da, thực là làm khó ta, dùng hay không dùng?”
Thiếu niên nọ thấy Uất Trì Nam đã cầm cự qua hơn bốn mươi chiêu, tiên pháp vẫn như trước không hề sơ hở, trong lòng cũng rất bội phục. Hốt nhiên y thấy cước bộ của Uất Trì Nam loạng choạng, trung lộ lộ ra một khoảng trống sơ hở. Thiếu niên này là người cực kỳ tinh minh, nếu như đối thủ là một người khác, y quyết sẽ không dám liều lĩnh khinh địch tiến tới. Thế nhưng y đã thấy rõ Uất Trì Nam là mãng hán hữu dũng vô mưu, không nghĩ mãng hán này cũng biết dùng kế trá ngụy. Y liền lập tức từ trung lộ đột nhập vào chuẩn bị dùng thủ pháp xảo diệu để đoạt cương tiên của Uất Trì Nam mà không khiến cho đối phương bị thương chút nào.
Tâm niệm vừa động, Uất Trì Nam xoay mình quát lớn:
“Cẩn thận!”
Cương tiên quét nhanh, nhất thời nổi lên hàng ngàn tiên ảnh trùng trùng điệp điệp phủ lấy thân hình thiếu niên. Một cây Thủy Ma Cương Tiên nặng sáu mươi tư cân, trong sát na đó đã biến thành một cây nhuyễn tiên có thể hóa lực “Nhiễu Chỉ Nhu”, một vòng tựa sóng ba đào dồn dập vỗ tới. trong nhu có cương, trong cương có nhu, thực là biến hóa khôn lường, thần diệu vô cùng, một chiêu này chính là chiêu sát thủ thần tiên “Bát Phương Phong Vũ Hội Trung Châu” của Uất Trì gia!
Chiêu này do Uất Trì Cung lúc về già sáng tạo ra, chuyên dùng để phá công phu “Không thủ nhập bạch nhận” của địch nhân, không thuộc sáu mươi tư chiêu Thủy Ma tiên pháp. Lại nói trở lại cố sự xưa: Nguyên lai năm đó Uất Trì Cung sau khi tay không đoạt giáo, bắt sống Ngõa Cương trại kiêu tướng Đan Hùng Tín, có một lần yến tiệc cho các công thần, Tần Quỳ (Tần Thúc Bảo) hỏi y rằng:
“Thủy Ma tiên pháp của ngươi, mưa gió không thấu, nếu người khác cũng dùng công phu “Không thủ nhập bạch nhận”, có thể đoạt được cương tiên của ngươi không?”
Uất Trì Cung đáp:
“Cái này quyết không thể!”
Tần Quỳ lại hỏi:
“Không thủ nhập bạch nhận của ngươi rất lợi hại, đương thời không ai có thể thắng ngươi. Ngươi liệu có thể tùy tâm sở dục, bất kể đối phương dùng binh khí gì đều có thể đoạt được không?”
Uất Trì Cung đáp:
“Ngươi là đại ca ta, ta không dám giấu ngươi, môn công phu này có lẽ trước mắt không ai có thể thắng ta, nhưng ta cũng chưa luyện đến hóa cảnh, gặp phải người võ nghệ thật sự cao minh, ta cũng vị tất đoạt được vũ khí của họ. Ví dụ như song giản của lão huynh đây, nếu thực cùng ta giao đấu mà nói, ta không dám chỉ bằng đôi nhục chưởng đấu lại”.
Tần Quỳ lại hỏi:
“Tốt, nếu như ngươi luyện thành, thì sẽ đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa thế nào?”
Uất Trì Cung đáp:
“Môn công phu này của ta, thế đại tương truyền, ảo diệu vô cùng, nếu như thật sự luyện đến hóa cảnh, bất luận địch nhân cường mạnh đến đâu, nhất định có thể đoạt hạ được binh khí của hắn”.
Tần Quỳ cười nói:
“Nếu như ‘dĩ tử chi mâu, công tử chi thuẫn’, có một người tinh thông công phu ‘Không thủ nhập bạch nhận’, lại có một người tinh thông sáu mươi tư đường Thủy Ma tiên pháp của ngươi, hai người giao đấu, Thủy Ma Cương Tiên có bị đoạt? Hay là người chỉ dùng không thủ sẽ bị cương tiên đả chết?”
Uất Trì Cung ngây người một hồi lâu, rồi nói:
“Cái này ta cũng chưa từng nghĩ qua”.
Sau cuộc nói chuyện đó, Uất Trì Cung đã dồn hết tâm trí để giải quyết nan đề mà Tần Thúc Bảo đưa ra. Cuối cùng y sáng tạo ra một chiêu tiên pháp “Bát Phương Phong Vũ Hội Trung Châu”. Bởi vì bản thân y là một đại hành gia về “Không thủ nhập bạch nhận”, cho nên một chiêu sáng tạo ra này có thể khiến đối phương sử dụng bất kỳ thủ pháp nào, nếu như không lui nhanh sẽ bị đánh không chết cũng trọng thương. Cũng vì thế mà Uất Trì Nam trì hoãn không muốn sử dụng chiêu này.
Nhưng thiếu niên họ Mưu nhất thời coi thường, khinh địch tiến lên, trong giây lát chỉ thấy tiên ảnh trùng trùng điệp điệp tựa như trái núi áp xuống, y quát lên một tiếng:
“Hảo tiên pháp!”
Ngay trong sát na đó, y thi triển tuyệt đỉnh khinh công, thân hình bốc lên khỏi mặt đất. Trường tiên của Úy Trì Nam cuốn đến, vừa vặn giữ lấy đùi bên trái của y kéo xuống!
Uất Trì Nam quát:
“Ngã này, ngã này!”
Thiếu niên kia chợt cười nói:
“Chưa chắc đâu!”
Thân hình đang treo trên không, đột nhiên tả cước bay ra nhằm cổ tay của Uất Trì Nam phóng thẳng tới. Uất Trì Nam cũng không nghĩ được rằng cương tiên đã quấn chặt một bên đùi y, vậy mà y còn đủ lực tung ra một cước, đột ngột không kịp phòng bị, cổ tay nắm cương tiên bị y một cước đá trúng, nhất thời cả cánh tay tê dại, cương tiên rơi ra!
Thiếu niên kia mang theo cả cương tiên, giữa không trung xoay người hạ xuống, bình ổn đứng trên mặt đất, mặt không đỏ, hơi thở không gấp, cười hì hì gỡ Thủy Ma Cương Tiên ra, hai tay đưa qua trả lại cho Uất Trì Nam.
Uất Trì Nam tiếp nhận cương tiên, mặt đen nghệt ra, ngây ngốc một khắc, đột nhiên kêu lên:
“Họ Mưu kia, ta lần này thực là phục ngươi rồi!”
Thiếu niên nói:
“Đa tạ tướng quân hạ thủ lưu tình, nếu không thì chân phải của ta sớm đã bị đánh gãy. Chúng ta lần này coi như bình thủ”.
“Không phải, khi Thủy Ma Cương Tiên của ta quấn được ngươi, mặc dù không dùng toàn lực, nhưng trong hoàn cảnh như vậy, ngươi vẫn tung ra được một cước, cũng đã cước hạ lưu tình, không làm tổn thương gân mạch ta, ta cũng biết chắc như vậy. Ta sẽ không nói lời khách khí nữa, ha ha, nếu như chúng ta vừa rồi có địch ý, thì tất sẽ lưỡng bại câu thương, nhưng nhất định ta bị ngươi đánh trọng thương nặng hơn. Cho nên ta thực sự khâm phục ngươi, hướng ngươi nhận thua”.
Thiếu niên kia nói:
“Ai thua ai thắng, hà tất phải so đo? Chúng ta không đánh không quen, điều này mới thật đáng vui mừng!”
Uất Trì Nam kêu lên:
“Đúng, có thể kết giao với một một bằng hữu như ngươi, trong lòng thực sự vô cùng vui sướng! Ta vì ngươi mà bị giáng ba cấp cũng không một câu oán thán”.
Thiếu niên họ Mưu cười nói:
“Ha, khi Tần đô úy sai ngươi xuất kinh, đã nói qua như vậy sao? Nhưng ngươi bất tất phải lo lắng...”
Uất Trì Nam nói:
“Ta lo lắng cái gì chứ? Mưu huynh đệ, ngươi nghĩ sai về ta rồi, làm quan hay không làm quan ta không để trong lòng. Bất quá, do nhà ta là hậu nhân công thần, mấy đời thụ ân triều đình cho nên không thể cùng ngươi làm cường đạo”.
Thiếu niên cười nói:
“Ta không có nói như vậy, ta cũng biết ngươi tịnh không tham phú quý công danh. Nhưng theo như ta thấy, Tần đô úy sẽ không chấp pháp như sơn, tấu lên với Hoàng thượng để biếm ngươi ba cấp quan”.
Uất Trì Nam hỏi:
“Sao ngươi nghĩ vậy? Ngươi không biết Tần đại ca này của ta là người thiết diện vô tư sao? Ta lần này nhục mạng quay về, y có thể để yên không xử phạt ta sao?”
Thiếu niên liền giải thích:
“Ngươi cũng biết huynh trưởng ngươi cũng giống như vị Tần đại ca này đều là bằng hữu tối hảo của Thiết Ma Lặc, ngươi quay về bất tất phải giấu giếm, cứ theo sự thật mà nói lại với Tần đô úy, ta cướp số ngự mã ấy là để tặng cho Thiết Ma Lặc, y mặc dù là thiết diện vô tư cũng nhất định không tấu lên Hoàng thượng”.
Uất Trì Nam hỏi:
“A, ngươi nói là Tần đại ca sẽ làm vậy vì muốn giữ vẹn mối giao tình với Thiết Ma Lặc?”
Thiếu niên đáp:
“Không hẳn như vậy, nhưng nếu y tấu rõ với Hoàng thượng, Hoàng thượng đương nhiên sẽ bắt y đi tiễu trừ Thiết Ma Lặc. Hoàng thượng cũng biết y và Thiết Ma Lặc có giao tình, y không sợ Hoàng thượng nghi ngờ sao? Lúc đó y sẽ lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cho nên chỉ cần ngươi nói thật với y, y sẽ vì ngươi mà giữ kín, không lý nào lại hành tội ngươi? Tóm lại, trên quan trường tổng thể không ngoài một chữ “Huyền”, hiện tại đạo phỉ vô số, y nói nhất thời không tra ra đạo tặc cướp ngự mã là ai, thì Hoàng thượng của các ngươi cũng chẳng có biện pháp gì, đây chỉ là chuyện nhỏ, lâu rồi cũng sẽ quên đi”.
Uất Trì Nam như vừa tỉnh mộng, vòng tay nói:
“Đa tạ chỉ giáo, cáo từ, bao giờ ngươi đến Trường An, ta và ngươi sẽ đối ẩm một trận thống khoái!”
Nói xong lại lập tức lại cười ha hả:
“Bất quá, ngươi làm sao có thể đến được Trường An? Ta cơ hồ quên mất ngươi là đạo tặc!”
Thiếu niên cười nói:
“Thế sự vốn không thể dự liệu được, nói không chừng ta cũng sẽ đến Trường An ngao du. Khi đó nhất định sẽ bái phỏng tướng quân. Ha ha, chỉ cần ngươi không sợ ta làm liên lụy đến ngươi là được”.
Hai người cười lớn chắp tay chào từ biệt. Uất Trì Nam một mình xuống núi, Niếp Ẩn Nương cùng với Sử Nhược Mai cũng mới đi đến.
Thiếu niên kia tiến lên nghênh tiếp, cười nói:
“Đa tạ nàng đến cổ vũ ta, ta lúc không thấy nàng tới còn tưởng là lệnh tôn đã ngăn cản”.
Y lại quay sang hỏi:
“Vị tiểu muội này là ai vậy?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Phụ thân ta không quản thúc ta, hôm nay đến muộn là bởi trong phủ Tiết độ sứ của Điền Thừa Tự có chuyện hỗn loạn”.
Thiếu niên liền hỏi:
“Xảy ra chuyện gì?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Ta sẽ nói cho huynh sau, trước hết ta xin giới thiệu với huynh, đây là Hồng Tuyến muội muội mà ta thường nhắc với huynh, nhưng hiện tại nàng ta đã cải tính danh, gọi là Sử Nhược Mai”.
Tiếp theo quay sang Sử Nhược Mai, Niếp Ẩn Nương nói:
“Vị đại ca này họ Mưu, tên gọi Thế Kiệt. Y là đệ tử đời thứ tư của Cầu Nhiêm Khách, thúc thúc y, Mưu Thế Lãng mấy năm trước từng đến Trung Nguyên, với Đoàn Khắc Tà cũng có một đoạn duyên. Mưu Thế Lãng hiện tại là Đảo chủ Phù Tang đảo”.
Hai người hành lễ diện kiến xong, Mưu Thế Kiệt nói:
“Sử cô nương cùng Đoàn thiếu hiệp có quen biết sao?”
Niếp Ẩn Nương cười nói:
“Không chỉ có quen biết, y....”
Sử Nhược Mai hai má đỏ hồng, khẽ liếc Niếp Ẩn Nương một cái, Niếp Ẩn Nương liền đổi giọng nói:
“Không chỉ quen biết, bọn họ còn là bằng hữu rất tốt, thật không dám giấu...”
Sử Nhược Mai vội bịt miệng Niếp Ẩn Nương, nhưng Niếp Ẩn Nương cũng đã kịp nói xong:
“Thật không dám giấu, ta đến đây không phải để cổ vũ cho huynh, ta đến là vì sự tình của Nhược Mai muội muội, đến nhờ huynh giúp đỡ”.
Mưu Thế Kiệt nói:
“Xin cứ nói, chỉ cần ta có thể làm, ta sẽ tận hết sức”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Chuyện này không cần huynh phải phí sức, ta chỉ muốn nhờ huynh nghe ngóng về một người”.
Mưu Thế Kiệt hỏi:
“Là ai vậy? A, là Đoàn thiếu hiệp Đoàn Khắc Tà phải không?”
Niếp Ẩn Nương sớm đã nở nụ cười đáp:
“Đúng rồi, là Đoàn Khắc Tà”.
Mưu Thế Kiệt lộ chút vẻ kỳ lạ, nghĩ thầm: “Hai người nếu đã cùng hắn quen biết vậy còn cần ta nghe ngóng làm gì”.
Niếp Ẩn Nương đoán ra trong lòng y đang nghĩ điều gì, cười nói:
“Huynh thông minh một đời mà hồ đồ nhất thời. Nhược Mai muội muội là nữ nhi nhà lễ giáo, mặc dù quen biết Đoàn Khắc Tà, nhưng cũng chưa gặp qua trên giang hồ”.
Mưu Thế Kiệt nói:
“A, thì ra hai người không biết địa chỉ của Đoàn thiếu hiệp, muốn nhờ ta giúp đỡ dò hỏi phải không? Nhưng thật không dám giấu, ta đã nghe danh Đoàn thiếu hiệp từ lâu, nhưng cũng chưa từng gặp mặt”.
Sử Nhược Mai vô cùng thất vọng, Mưu Thế Kiệt lại cười:
“Bất quá, chuyện này cũng rất dễ dàng thu xếp. Khoảng mười ngày nữa, quần hùng lục lâm tại Kim Kê lĩnh mở quần anh đại hội, chuẩn bị đưa Thiết Ma Lặc lên làm Minh chủ. Đoàn thiếu hiệp và Thiết Ma Lặc có giao tình sâu sắc, nghe nói còn trên cả thân thích, lúc đó chắc chắn sẽ đến. Hai người lên Kim Kê lĩnh có thể gặp y ở đó”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Nhưng là lục lâm đại hội, chúng ta không tiện đến!”
Mưu Thế Kiệt nói:
“Có gì mà khó khăn? Các người đóng giả nam trang, chịu ủy khuất làm thủ hạ của ta, khả dĩ có thể đến được”.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Nếu như bị phát giác, không phải rắc rối sao?”
Mưu Thế Kiệt nói:
“Hắc đạo vốn có rất nhiều tị kỷ, trong đó sợ nhất là bị người trà trộn trong công môn. Bất quá hai người là bằng hữu của ta, Sử cô nương lại là bằng hữu của Đoàn Khắc Tà, có bị phát giác, Thiết Ma Lặc cũng quyết không đuổi hai người đi. Nói không chừng còn đa tạ ta đã mang đến hai vị khách quý. Không cần cố kỵ, cứ đi, không sao cả”.
Niếp Ẩn Nương cười hỏi Nhược Mai:
“Muội muội, muội xem chủ ý này có được không?”
Sử Nhược Mai nãy giờ chưa nói gì, lúc này mới đáp:
“Tốt thì tốt, nhưng vẫn còn chuyện cần Mưu đại ca giúp đỡ”.
Mưu Thế Kiệt nói:
“Không cần khách khí, xin cứ nói”.
Sử Nhược Mai hai má đỏ hồng nói:
“Ta quyết theo kế mà làm, nhưng mong Mưu đại ca giữ bí mật cho, đừng nói cho người ngoài hay”.
Niếp Ẩn Nương cười hỏi:
“Ngay cả Đoàn Khắc Tà cũng không cho y biết hay sao?”
Sử Nhược Mai đáp:
“Tốt nhất là không cho y biết, chờ muội thấy y, muội, muội....”
Niếp Ẩn Nương lại cười nói:
“Được rồi, chuyện giữa hai người, đương nhiên do đich thân muội nói với y mới tốt”.
Mưu Thế Kiệt “a” lên một tiếng, minh bạch vài phần, lập tức cũng cười nói:
“Sử cô nương yên tâm, ta đây là người tuyệt không nói lung tung, ta chỉ phụ trách hộ tống hai người đến, những chuyện về sau là tùy ý hai người”.
Mưu Thế Kiệt lại tiếp:
“Thúc thúc ta thường tán dương Đoàn đại hiệp, sau khi ta đến Trung Nguyên, vốn là muốn đi tìm y, chỉ vì không biết nơi ở của y, cho đến tận bây giờ vẫn chưa gặp qua. Tương lai tại “anh hùng hội” gặp mặt, còn muốn nhờ Sử cô nương dẫn kiến cho ta”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Đáng tiếc, đêm nay huynh không đến Tiết độ phủ của Điền Thừa Tự, nếu không đã có thể trợ giúp cho Đoàn thiếu hiệp”.
Mưu Thế Kiệt nói:
“A, nàng vừa nói Điền phủ hôm nay có chuyện hỗn loạn, là do Đoàn thiếu hiệp làm phải không?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Đúng vậy, y đến để “ký đao lưu giản”, đã cùng với Dương Mục Lao đấu một trận”.
Liền đó nàng mang sự tình vừa qua sơ lược kể lại. Mưu Thế Kiệt nghe qua, mặt mày hớn hở nói:
“Ta sớm đã biết sính lễ của Điền Thừa Tự mang đến Lộ Châu bị lục lâm hảo hán đoạt mất. Không ngờ lại là do Đoàn thiếu hiệp làm, thật khiến lòng người vô cùng khoan khoái!”
Niếp Ẩn Nương cười nói:
“Huynh còn chưa biết hết, Điền Thừa Tự mang sính lễ cho nhi tử là để hỏi cưới vị muội muội này”.
Sau đó nàng liền mang thân thế của Sử Nhược Mai nói ra. Mưu Thế Kiệt kinh ngạc, không ngừng tán thưởng:
“Sử cô nương đối với phú quý của Tiết độ sứ không đặt trong lòng, chí nguyện hành sự cao khiết, thật sự là không dễ”.
Sử Nhược Mai nói:
“Muội còn phải trở lại Lộ Châu một chuyến, mang kim hạp này giao cho nghĩa phụ, sau đó mới có thể cùng hai người đến Kim Kê lĩnh”.
Mưu Thế Kiệt nói:
“Vậy trước đại hội một ngày, ta tại Phù Ly Tập dưới Kim Kê lĩnh chờ hai người được không? Trong mấy ngày này ta cũng có một việc phải làm”.
Sau khi ước định, mọi người chia tay. Niếp Ẩn Nương đưa Sử Nhược Mai một đoạn đường. Trên đường đi nàng mang chuyện mình với Mưu Thế Kiệt quen biết ra sao kể lại cẩn thận một lần. Sử Nhược Mai lúc ấy mới biết, nguyên lai Niếp Ẩn Nương sở dĩ đến Ngụy Bác, ngoài việc để bảo vệ cha, còn có một nguyên nhân nữa, đó là muốn gặp Mưu Thế Kiệt. Mưu Thế Kiệt và đám người ước hẹn tại Bắc Mang sơn, phụ cận của Ngụy Bác, sớm đã nói cho nàng biết. Niếp Ẩn Nương không hề giấu giếm Sử Nhược Mai, nàng và Mưu Thế Kiệt đã tình ý tương đầu.
Sử Nhược Mai trong lòng có chút băn khoăn, liền nói:
“Mưu đại ca lần này đưa chúng ta lên Kim Kê lĩnh, nếu bị phát giác thì....”
Niếp Ẩn Nương trấn an:
“Mưu đại ca không phải đã nói qua rồi sao, nếu bị phát giác, y sẽ nói rõ với Thiết Ma Lặc, ta là bằng hữu của y, muội là bằng hữu của Đoạn Khắc Tà, đảm bảo vô sự. Muội sao còn băn khoăn”.
Sử Nhược Mai cười khổ nói:
“Y đương nhiên sẽ nhận tỷ là bằng hữu, nhưng Khắc Tà không biết có chịu nhận muội hay không?”
Niếp Ẩn Nương cười nói:
“Muội và y lại càng không giống, các người không chỉ là bằng hữu mà là vừa mới sanh đã có danh phận phu thê. Y thế nào mà lại không nhận muội? Muội muội, muội yên tâm, vị như ý lang quân này của muội không mất đi đâu được”.
Sử Nhược Mai thầm nghĩ: “Tỷ nào có biết, tiểu oan gia đó đối với ta hiểu lầm sâu sắc”. Nhưng nàng vốn là người kiên cường, nên không chịu mang chuyện Đoạn Khắc Tà nhục mạ mình kể cho Niếp Ẩn Nương.
Niếp Ẩn Nương tiễn Sử Nhược Mai một đoạn rồi hẹn đến phủ của phụ thân nàng tương hội, sau đó mới đi Phù Lý Tập tìm Mưu Thế Kiệt. Sau khi chia tay với Niếp Ẩn Nương, Sử Nhược Mai lập tức trong lòng lại ngập tràn tâm sự, một mình trở lại Lộ Châu.
Sử Nhược Mai mang kim hạp của Điền Thừa Tự giao cho Tiết Tung, rồi lập tức cáo từ. Tiết Tung có được kim hạp thì hoan hỉ vô cùng, đối với việc đi hay ở của Sử Nhược Mai cũng không bận tâm. Nhưng ngược lại, thê tử của Tiết Tung, đối với nữ nhi này lại giữ mãi không chịu rời. Lúc chia tay lên đường, bà lại khóc một trận lớn. Sử Nhược Mai sửa lại gọi bà là nghĩa mẫu, hứa là rồi sẽ quay lại thăm bà, phải khó khăn lắm mới khiến bà ngừng khóc.
Tiết Tung mang kim hạp đi mật phong, kêu ký thất (thư ký) viết cho hắn một phong thư, trên phong thư có dấu của hắn, thư viết: “Hôm qua có khách từ Ngụy Bác đến,vân vân... nói là có thu hoạch một kim hạp của Nguyên soái, không dám giữ, nên kính cẩn phong lại mang nạp”. Rồi hắn cho khoái mã cấp tốc mang đi. Điền Thừa Tự nhận lấy kim hạp, kinh hãi vô cùng, trong lòng run sợ, từ nay không dám có mưu đồ thôn tính Lộ Châu nữa, ngược lại sẽ cùng Tiết Tung hai bên liên kết, nhưng đây là chuyện về sau, không cần nhắc đến.
Lại nói đến Sử Nhược Mai đến phủ nha của Niếp Phong. Niếp Phong cũng đã từ Ngụy Bác trở về, từ lời của nữ nhi mà biết hết thảy. Y bình sanh bội phục nhất là Đoàn Khuê Chương, nghe nói Sử Nhược Mai bây giờ đã rời khỏi Tiết độ phủ của Tiết Tung để đi tìm vị hôn phu của nàng, hơn nữa vị hôn phu ấy lại chính là nhi tử của Đoàn Khuê Chương, nên càng cao hứng, không chút ngăn trở, cho phép nữ nhi cùng đi với Sử Nhược Mai. Y còn cho Sử Nhược Mai biết tin, Dương Mục Lao cũng đã dưỡng thương tốt, hơn nữa lại tìm được người trợ thủ, đang chuẩn bị lục soát nơi hạ lạc của Đoàn Khắc Tà, nhắc Sử Nhược Mai chuyển cáo cho Đoàn Khắc Tà biết, khuyên chàng nên cẩn thận. Mặt khác còn có một tin tức, đó là Điền Thừa Tự đã cho hủy bỏ hôn lễ của nhi tử mình, cũng không dám tra cứu thêm. Sử Nhược Mai nghe xong thập phần vui mừng.
Niếp Ẩn Nương giúp Sử Nhược Mai cải trang nam nhân. Sử Nhược Mai trước đó không hề có kinh nghiệm, nhưng nàng vốn nhanh nhẹn hoạt bát, chỉ một chút là hiểu, theo Niếp Ẩn Nương học một hồi về thần tình cử chỉ nam tử đã bắt chước rất giống. Hai người sánh vai đứng cạnh nhau, đúng là một đôi mỹ thiếu niên ngọc thụ lâm phong, khiến cho Niếp Phong cũng phải ha hả cười.
Sử Nhược Mai ở lại phủ nha của Niếp Phong một đêm, sáng sớm hôm sau, hai tỷ muội cùng đồng hành. Các nàng tính toán lộ trình chuẩn xác, vừa đúng trước một ngày đại hội diễn ra thì đến được Phù Ly Tập bên dưới Kim Kê lĩnh. Mưu Thế Kiệt sớm đã ở nơi này chờ bọn họ.
Mưu Thế Kiệt mang theo nhiều người, khí thế rất lớn, đến Kim Kê lĩnh, Trại chủ Tân Thiên Hùng đối với y đặc biệt tôn kính, tự thân mở cổng nghênh tiếp. Những người đi theo y cũng được nhất nhất ân cần chào hỏi, lễ độ vô cùng.
Niếp Ẩn Nương qua trò chuyện mới biết, nguyên lai những người đi theo Mưu Thế Kiệt đều là những nhân vật hắc đạo thành danh, trong đó có vài người thậm chí là Trại chủ. Niếp Ẩn Nương nghe qua, phương tâm vừa ngạc nhiên và vui sướng, “Chàng đến Trung Nguyên chưa được một năm, lại thu phục được nhiều anh hùng hảo hán đến như vậy, bản lĩnh thật không nhỏ”.
Tân Thiên Hùng nói:
“Xin thứ cho tiểu khả kém mắt, hai vị tựa hồ chưa từng được gặp qua”.
Mưu Thế Kiệt đỡ lời:
“Hai vị này là bằng hữu tiểu đệ mới kết giao, vị Sử huynh này và Đoàn thiếu hiệp cũng có quen biết, bọn họ đều chưa từng có sơn trại, đây là lần đầu tiên tham gia anh hùng hội của lục lâm”.
Tân Thiên Hùng vội vàng chắp tay nói:
“Hạnh ngộ, hạnh ngộ. Thiên hạ lục lâm là một nhà, hai vị huynh đài tuy là người mới đến, nhưng nhìn mặt thấy là hảo bằng hữu, xin đừng khách khí”.
Trong lòng y thầm nghĩ: “Trong giới lục lâm những nhân vật như vậy thật hiếm gặp, xem ra bọn họ chỉ có ôn văn, nên mới tuấn tú như vậy, giống như là ca nhi đọc sách, chỉ biết văn thơ, không biết giang hồ là gì”. Bất quá bởi vì do Mưu Thế Kiệt đưa đến, cho nên Tân Thiên Hùng cũng không nghi ngờ.
Sử Nhược Mai nghe thấy Mưu Thế Kiệt đề cập đến Đoàn Khắc Tà, tưởng rằng Tân Thiên Hùng sẽ nói tiếp, thế nhưng vì có quá đông khách, Tân Thiên Hùng phải vội vàng tiếp đón nên không đề cập lại Đoàn Khắc Tà, làm cho Sử Nhược Mai thất vọng.
Các lộ anh hùng lục tục kéo đến, đông kín sảnh đường, trong đó đa phần đều là nhân vật nổi tiếng từ lâu, các bên đều tỏ lòng ngưỡng mộ lẫn nhau, không khí cực kỳ náo nhiệt. Chỉ có Niếp, Sử nhị nữ, ngoại trừ Mưu Thế Kiệt ra, ai cũng không biết, lẻ loi đứng sang một bên. Sử Nhược Mai lưu tâm để ý, thủy chung không nhìn thấy Đoàn Khắc Tà.
Chợt nghe có người nói:
“Nghe nói Đoàn Khắc Tà đại náo Ngụy Bác tiết độ phủ, thật là niên thiếu anh hùng, sao còn chưa thấy đến?”
Sử Nhược Mai vội vàng lắng nghe, chỉ thấy có một người nói:
“Nghe nói y đơn thân độc mã đi gặp Hoàng Hà Ngũ Phách, không biết có bị cản trở không?”
Lại có một người tiếp lời:
“Chư vị an tâm, Đoàn thiếu hiệp có nói với ta, y không phải hôm nay thì là ngày mai, nhất định sẽ trở về”.
Người này, râu ba chòm dài, phiêu dật bất phàm. Mưu Thế Kiệt đi qua cùng y đối đáp. Sử Nhược Mai mới biết đó là Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh đỉnh đỉnh đại danh trên giang hồ.
Có người nói:
“Hoàng Hà Ngũ Phách cũng dữ dằn không ít, Đoàn thiếu hiệp đơn thân độc mã đến đó, chỉ sợ có điểm không hay?”
Đỗ Bách Anh cười nói:
“Bản lãnh tên hiền điệt này của ta có thể nói là thế gian ít có, theo như ta thấy, y so với phụ thân y còn có phần mạnh hơn, đừng nói là Hoàng Hà Ngũ Phách, dù có là Thập Phách, y cũng đối phó được. Y nói sẽ trở lại thì nhất định sẽ trở lại!”
Có người còn chưa biết Đoàn Khắc Tà là ai, sau khi nghe nói mới biết đó là nhi tử của Đoàn đại hiệp Đoàn Khuê Chương năm xưa danh trấn tứ hải. Người người tán thán, khen ngợi, đều nói Đoàn đại hiệp có hậu nhân. Đỗ Bách Anh lại mang chuyện y và Đoàn Khắc Tà đoạt sính lễ của Điền Thừa Tự ra kể một lượt. Quần hào lục lâm nghe qua càng mở cờ trong bụng, người người đều muốn gặp mặt vị niên thiếu anh hùng. Sử Nhược Mai nghe thấy nhiều người tán thưởng vị hôn phu của mình, phương tâm vô cùng khoan khoái, tự mình không biết nói sao. Bất quá nàng âm thầm để ý, cũng phát giác ra có người để lộ thần tình đố kỵ.
Chúng nhân đang huyên náo đàm luận, chợt nghe có người lớn tiếng hô lên:
“Thiết trại chủ đến”.
Chỉ thấy một hán tử mày rậm mắt to, lưng hùm vai gấu, anh khí bừng bừng, vừa vào đến cửa liền cất giọng sang sảng hỏi:
“Vị nào là Mưu đại hiệp? Xin thứ cho Thiết Ma Lặc mỗ đến muộn”.
Niếp, Sử nhị nữ kinh ngạc vô cùng, nguyên lai Thiết Ma Lặc trước kia đã từng ở trong nhà Niếp Phong dưỡng thương, lúc ấy y dùng hóa danh là Tiểu Hắc, được Niếp Phong tương trợ mạo nhận làm đồng hương của Tiết Tung, Tiết Tung tín nhiệm Niếp Phong, cũng không tra cứu lý lịch của Thiết Ma Lặc, lại hồ đồ chọn Thiết Ma Lặc làm vệ sĩ của mình. Cho nên sau đó tại quần thần đại yến của An Lộc Sơn mới xảy ra một hồi phong ba hỗn loạn. Tiết Tung sợ An Lộc Sơn hỏi tội, nên mới bội phản An Lộc Sơn đầu thuận triều đình.
Khi đó Sử Nhược Mai bất quá mới chỉ là nữ hài mười tuổi, nàng cùng Niếp Ẩn Nương cơ hồ mỗi ngày đều muốn Thiết Ma Lặc luyện võ cho các nàng. Lần này đột nhiên trùng phùng tại đây, trong lòng vừa mừng vừa kinh ngạc, nàng thầm nghĩ: “Nguyên lai Thiết Ma Lặc chính là y! Sớm biết là y, chúng ta không cần người giúp đưa đến, có thể tự mình đến hỏi y”.
Thiết Ma Lặc và Mưu Thế Kiệt nổi danh đã lâu, nhưng đây mới là lần đầu diện kiến. Mưu Thế Kiệt nói:
“Tiểu đệ chính là Mưu Thế Kiệt, đại hiệp, hai từ này thực không dám đảm đương!”
Thiết Ma Lặc cười lớn nói:
“Làm cường đạo thì không thể đồng thời làm đại hiệp được sao? Mưu huynh, ngươi trong giới lục lâm nổi lên, mọi việc làm đều khiến người ta thán phục, mặc dù là cường đạo nhưng cũng không thẹn với hai chữ “hiệp nghĩa”. Tiểu đệ thực sự bội phục vô cùng!”
Tiếp đó Thiết Ma Lặc lại nói:
“Huynh tặng ta một món hậu lễ, ta thật xấu hổ không dám nhận”.
Việc Mưu Thế Kiệt cướp ngự mã, sớm đã chấn động giới lục lâm, lần này mọi người mới biết nguyên lai là Mưu Thế Kiệt cướp để tặng cho Thiết Ma Lặc làm lễ tương kiến, không khỏi chúc mừng hai người một phen.
Mưu Thế Kiệt nói:
“Nói đến số ngự mã đó, ta còn nhân đó mà kết giao được với một vị bằng hữu, nói ra chắc Thiết huynh cũng biết”.
Sau đó y mang chuyện y cùng với Uất Trì Nam nhờ giao đấu mà kết giao tình kể ra cho Thiết Ma Lặc nghe. Thiết Ma Lặc cũng ha hả cười lớn.
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Nghe nói có hai vị thiếu niên anh hùng cùng với Mưu huynh đến đây, là bằng hữu của Đoàn hiền đệ ta. Không biết là hai vị nào?”
Mưu Thế Kiệt ngoắc tay gọi Niếp, Sử nhị nữ rồi nói:
“Là hai vị này”.
Thiết Ma Lặc nhìn thấy, cảm giác thấy rất quen, nhưng trong nhất thời không tưởng tượng được là nhi nữ của Tiết Tung và Niếp Phong cải nam trang lên sơn trại của y.
Niếp, Sử nhị nữ nói bừa ra một cái tên rồi cùng Thiết Ma Lặc hành lễ tương kiến. Thiết Ma Lặc hỏi:
“Chúng ta trước đây đã từng gặp qua chưa?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Thiết trại chủ chắc nhận lầm người rồi, chúng tôi là vãn bối mới lần đầu xuất đạo, nếu không phải thịnh hội hôm nay, chúng tôi lấy đâu ra phúc khí để thấy kim diện Thiết trại chủ?”
Thiết Ma Lặc nói:
“Ài, hai người các ngươi khách khí quá, các ngươi là bằng hữu của Đoàn hiền đệ, thì cũng là bằng hữu của ta, cái gì mà xưng hô là vãn bối?”
Tiếp theo y lại nói:
“Ta cũng đã nhiều năm không gặp Đoàn Khắc Tà, hai ngươi với hắn quen biết như thế nào?”
Sử Nhược Mai trên mặt hồng vựng, Thiết Ma Lặc thấy vậy không khỏi âm thầm lấy làm kỳ quái, trong lòng thầm nghĩ: “Người này sao lại xấu hổ thẹn thùng như nữ tử vậy, chưa nói mặt đã đỏ hồng?”