Tory cuộn mình nằm ngủ bên dưới cánh tay che chở của Brett. Hơi thở anh ấm áp và đều đặn phả vào vai cô, cơ thể anh là một bức tường chắn giữa cô và thế giới. Nhưng Tory bị chìm sâu trong giấc ngủ đầy mộng mị đến nỗi không biết mình đang được an toàn. Vào lúc này, tiềm thức đang làm chủ tâm trí cô, và cô đã lún sâu vào ác mộng không tài nào thoát ra được.
Ngọn gió gào rú, nhấn chìm mọi tiếng khóc than của đứa bé. Đêm đã đến và đi những hai lần mà nó vẫn cô đơn một mình. Từ chỗ trốn trong tủ, nó có thể thấy những tia sáng ban mai đầu tiên bắt đầu xuyên qua cánh cửa hé mở. Nó kéo đầu gối lên sát ngực và vùi mặt vào đó. Từ lúc nào nó đã không còn đếm được số giờ nó chui vào trong cái tủ này. Tất cả những gì nó biết là, ở đây nó được an toàn.
Cái gì đó lao vụt qua sàn nhà bên ngoài. Nó quấn hai cánh tay quanh đầu gối chặt hơn nữa và nhắm tịt mắt lại, sợ phải nhìn, sợ phải cử động. Khi bụng nó rộn lên, nó rên rỉ và liếm môi. Đói. Nó đã đói lắm rồi. Nó cứ nghĩ về bữa tiệc của Mary Ellen và những chiếc kẹo dẻo nướng mà chúng đã được ăn. Ôi, nó ước bây giờ có một chiếc kẹo như thế biết mấy. Một nhu cầu khác vượt lên cả cơn đói của nó, nhu cầu cần được giải toả. Mặc dù nó ngọ nguậy một cách khó chịu nhưng vẫn không sẵn lòng rời bỏ chiếc tủ an toàn.
Nỗi sợ hãi quá lớn của nó gom mọi âm thanh trong ngôi nhà trống lại và khuyếch đại chúng lên nhiều lần: tiếng lá khô cọ trên sàn nhà; tiếng gió thổi vù vù qua những cửa sổ mở hé; thậm chí cả tiếng ô tô đi lại trên đường cũng làm con bé sợ chết khiếp. Nó không nhớ rằng mình đã từ bỏ hy vọng, nhưng sự trống rỗng trong lòng nó lúc này không liên quan gì đến cái đói.
Hai chân Tory giật lên khi cô cuộn tròn lại, hơi thở đứt đọan, hổn hển. Một cách vô thức, cô kéo mình ra khỏi Brett trong lúc bị đẩy sâu hơn vào ký ức trẻ thơ trong giấc mơ.
Có một tiếng động! Có thể nào là …? Và rồi cô bé khẽ rên rĩ và cắn chặt môi. Tiếng nó nghe được không phải là tiếng ô tô mà là tiếng xe máy. Nhận ra điều đó, cô bé bắt đầu rùng mình. Nó biết đấy là ai. Hắn đã từng đến đây. Quần áo của hắn đen thui, bóng lộn, thắt lưng, ủng và hai cổ tay của hắn lủng lẳng những sợi xích. Lúc ấy hắn đã chế nhạo nó, và tất cả những gì nó trông thấy là hàm răng vàng xỉn tách đôi bộ râu rậm rạp đen sì của hắn.
Nghe thấy tiếng hắn gọi, nó bắt đầu lùi sâu hơn vào trong góc tủ, chỉ còn thiếu nước nín thở để che giấu bản thân.
“Này, Ollie! Có ai ở nhà không? Tao đến để…”
Có một khoảng ngừng, và nó tưởng hắn đã bỏ đi, nhưng rồi lại có tiếng hắn lẩm bẩm.
“Chó má. Thằng khốn chuồn đi trốn nợ mình. Chắc thế rồi”
Tiếp theo cơn thịnh nộ của hắn là sự im lặng. Ngay khi nó nghĩ hắn sẽ bỏ đi, nó lại nghe thấy hắn vòng lại. Một nỗi khiếp đảm bắt đầu lan ra khắp người nó. Giọng của hắn to và giận dữ - y như nó còn nhớ. Cử động cũng sợ, không cử động cũng sợ, nó từ từ đứng dậy, ấn chặt mình vaò góc xa nhất của tủ quần áo. Đôi mắt nó mở lớn sợ hãi, nhìn đăm đăm qua cánh cửa he hé, lắng nghe tiếng bước chân của hắn lại gần hơn nữa…gần hơn nữa!
Mồ hôi rịn ra dưới tóc nó và bắt đầu chảy xuống gáy. Cô bé có thể nhìn thấy cánh tay, rồi đến vai, và giờ là một bên mặt hắn. Hắn quay sang và nhìn thẳng vào trong tủ, như thể đang nhìn xuyên qua bóng tối tới tận chỗ nó đang trốn.
Lúc hắn với tay cầm nắm đấm cửa tủ, một dòng chất lỏng ấm nóng bắt đầu chảy xuống bên trong đùi cô bé. Khi cái bóng của hắn đã chắn giữa nó và sự tự do, nó bắt đầu khóc. Hắn giơ tay tóm nó, cười toe toét.
Cô bé ngửa đầu ra sau và hét.
Brett bật dậy đúng lúc tiếng hét thoát ra khỏi cổ họng Tory. Cô giật người lại, gần như bật ra khỏi giường. Anh phải tóm lấy cô trước khi cô ngã xuống.
“Tory, em yêu, dậy đi! Dậy đi! Anh đây, Brett đây! Chỉ là mơ thôi, một giấc mơ! Em đang mơ đấy.”
Cô tỉnh lại chỉ sau vài giây nghe tiếng của anh, nhưng không thể ngừng khóc. Tất cả những gì cô còn nhớ được sau giấc mơ là một nút thắt ở đáy bụng và cảm giác cần được ôm dữ dội. Cô lăn tròn vào vòng tay Brett, nức nở nghẹn ngào, không nói được thành lời.
Brett ôm đầu Tory và kéo cô vào gần hơn, đung đưa người cô như thể cô là một đứa bé.
“Thôi nào cưng, không sao đâu. Chỉ là mơ thôi.”
Bám chặt lấy hai cánh tay anh, cô rùng mình và vùi mặt vào ngực anh.
“Brett?”
“Ừ, em yêu, anh đây.”
“Em… em đã gặp ác mộng.”
Anh tiếp tục vuốt tóc và mặt cô một cách chậm rãi, nhẹ nhàng. “Nhưng nó qua rồi, Tory. Giờ đã hết rồi. Anh ở đây và em được an toàn, đúng không?”
Người Tory vẫn còn lẩy bẩy trong lúc thẩm thấu sự hiện diện của anh. Bằng giọng nói run run, cô khẽ thì thầm yêu cầu.
“Đèn… làm ơn bật đèn cho em.”
Brett với tay qua vai cô và kéo sợi dây đèn bàn, lập tức Tory được tắm trong ánh sáng vàng dịu. Khi có thể nhìn thấy mọi thứ xung quanh, cô bắt đầu thả lỏng, và khi những cơn nức nở của cô dịu đi thành những tiếng sụt sịt thưa thớt, Brett cũng bắt đầu thư giãn.
Trong lúc ôm cô, anh không thể không nghĩ chuyện này có vẻ kỳ cục thế nào đó. Tory không phải lọai phụ nữ hay gặp ác mộng. Cô độc lập đến mức anh đã tưởng là cô miễn nhiễm với tất cả mọi thứ, vậy mà lần này đã là lần thứ hai, trong vòng vài ngày từ khi cô trở về, Tory cư xử hoàn toàn không giống mình chút nào.
Nhà thám tử trong anh vô cùng tò mò, nhưng người đàn ông trong anh yêu cô đủ nhiều để chờ cho cô tự nói ra, mặc dù anh đã hiểu cô đến mức biết rằng không nên nín thở chờ đợi. Cô giữ mọi thứ lại cho mình. Nếu có điều gì cô muốn cho anh biết về quá khứ của mình thì anh còn hơn cả sẵn lòng lắng nghe, nhưng điều đó phải được nói ra theo ý cô, chứ không phải ý anh. Và trong lúc anh suy nghĩ, Tory đã bắt đầu nhấp nhổm. Anh vuốt ve lưng cô chầm chậm rồi hôn lên đỉnh đầu cô.
“Cảm thấy khá hơn chưa?”
Tory lăn ra khỏi tay anh. “Em muốn dậy. Đêm nay em không muốn nằm trên cái giường này chút nào nữa.
Brett liếc nhìn đồng hồ. Năm giờ kém mười lăm. Anh ôm má cô.
“Cưng này, hết đêm rồi. Trời đã gần sáng. Em có muốn anh pha ít cà phê còn em thì lôi cái bánh kia ra không?”
Cô gần như nặn ra được một nụ cười. “Anh sẽ tìm được lý do để ăn thêm ít bánh nữa phải không?”
Mừng vì thấy cô đã chuyển hướng suy nghĩ, anh hùa theo trò đùa, ra khỏi giường rồi quay lại để kéo cô dậy.
“Thôi mà, đừng làm anh thấy có tội. Em cũng thích ăn còn gì.”
Cô liếc về phía cánh cửa tủ quần áo khi đứng dậy. Nó cũng đang he hé mở. Một cơn ớn lạnh bất chợt làm gáy cô nổi da gà, không nghĩ ra là tại sao, cô đóng sập tủ lại. Lờ đi thực tế Brett đang theo dõi nhất cử nhất động của mình, cô với tay lấy áo choàng.
“Anh pha chocolate nóng thay cà phê được không?”
Brett đang chờ, hy vọng có lời giải thích nào đó cho hành động kỳ quặc của Tory, nhưng khi điều đó một lần nữa không xảy ra, anh bắt kịp sự thay đổi đề tài này.
“Anh sẽ làm bất cứ thứ gì em muốn.” Rồi anh chữa lại, “Chỉ trừ những thứ có từ hai nguyên liệu trở lên.”
Tory cười phá lên và anh bắt đầu thở dễ dàng hơn.
Anh vòng tay quanh eo cô “Em cứ cười thoả thích. Chỉ cần nhớ lại xem lần cuối cùng anh cố gắng nấu nướng đã ra kết quả thế nào. Cái máy nghiền rác đã bị kẹt suốt một tuần.”
Tory mỉm cười khi Brett đưa cô vào trong bếp. Tới lúc chocolate nóng được pha xong và bánh cũng được cắt xong, cô đã quên hẳn cơn ác mộng. Trong vòng một tiếng nữa mặt trời sẽ mọc. Và đó là khởi đầu của một ngày hoàn toàn mới.
Tory đặt các bức ảnh rải rác trên bất cứ chỗ nào để được trong căn hộ, rồi chọn những tấm mà cô sẽ dùng để viết bài báo. Sau khi nói chuyện với biên tập viên của mỉnh ở tờ tạp chí, cô quyết định sẽ đưa câu chuyện đi theo hai hướng khác nhau, và cô có đủ số ảnh để làm được việc đó. Cô có những vẻ mặt chán nản của các công nhân phục vụ lễ hội, lại có cả niềm vui và háo hức hoàn toàn đối lập trên mặt những người tham dự. Đó sẽ là một bài báo có tác động lớn. Nhưng trước hết phải chọn ra được những bức ảnh đi cùng với lời minh hoạ, và đó là việc cô sẽ làm ngày hôm nay.
Chốc chốc cô lại chọn lên một bức và thêm nó vào tập ảnh để trên bàn bếp. Khi các tấm hình đã được kết thành một khối trong đầu, cô bắt đầu thấy phấn khích, tưởng tượng ra câu chuyện đi kèm theo nó sẽ được hé lộ như thế nào. Tấm ảnh đám đông mà cô thích nhất sẽ trở thành điểm then chốt, bởi nó bắt được cả hai mặt của câu chuyện, mô tả những công nhân phục vụ lễ hội cũng như người tham dự.
Như mọi khi, cứ hễ có một tấm ảnh đặc biệt nào đó lọt vào mắt, Tory đều nghiên cứu kỹ xem tại sao. Khi nhìn vào bức ảnh chụp đám đông, cô nhận ra rằng ngay lần đầu tiên trông thấy nó, ánh mắt mình đã dính chặt vào một khuôn mặt.
Tò mò, cô mang nó vào trong phòng tối rồi bật đèn trần lên. Sau khi lục qua các ngăn kéo, cô tìm được một chiếc kính lúp và đưa nó lên trên bức ảnh.
Tory cau mày thất vọng khi chỉ nhìn thấy khuôn mặt một người đàn ông lớn tuổi, không có gì nổi bật. Ông ta có vẻ mặt nghiêm nghị và trông như đang nhìn vào một điểm nào đó phía trên máy chụp ảnh, nhưng hình ảnh của ông ta rất nhỏ và không thể nào giải thích nổi tại sao cô lại bị hút về phía khuôn mặt ấy.
Chán nản với bản thân, cô trở lại công việc. Ấy vậy mà hơn hai lần cô quay lại với bức ảnh đó và nhìn chăm chăm vào gương mặt ông già. Vậy là cô đành chấp nhận thất bại. Cô quá hiểu bản thân nên biết rằng mình sẽ không thể làm việc cho đến khi giải quyết được tình thế nan giải này. Cô lại cầm bức ảnh lên, nhìn chăm chú vào nó vài giây nữa.
“Có lẽ nếu mình phóng to nó ra…”
Được ý tưởng đó khuyến khích. Tory đặt bức ảnh xuống. Như thế nghĩa là cô sẽ phải đi một chuyến xuống phố để mua thêm dụng cụ, nhưng vậy cũng đáng. Việc này đang khiến cô phát điên.
Vài phút sau, cô đang trên đường ra cửa thì điện thoại reo. Tory đứng đó, tay đặt lên nắm đấm cửa và chờ cho máy trả lời tự bật. Giọng nói này cô nhận ra, nhưng cô để mặc cho người gọi đến nói mà không nhấc máy. Lòng cô lại chất thêm cảm giác tội lỗi.
“Này Brett, mẹ của anh đây. Có nhớ ra là ai không? Người đã sinh ra anh, đã dạy anh rửa con cá đầu tiên ấy. Người mà anh hiếm khi gọi điện ấy.”
Khi lắng nghe giọng của bà Cynthia Hooker, một cái gì đó trong lòng Tory bắt đầu đóng lại. Lúc Tory bước ra khỏi căn hộ, lặng lẽ đóng cánh cửa lại sau lưng, bà Cynthia vẫn còn đang nói. Cô không bỏ đi mà cứ đứng bên ngoài, lắng nghe phần còn lại của lời nhắn.
“Thôi đừng để ý đến bài thuyết giảng. Chắc là con cũng muốn biết giờ mình đã lên chức cậu. Em gái con Celia vừa sinh hạ một bé gái xinh xắn – ba cân sáu. Melissa Carol và mẹ bé đều khoẻ. Nói chuyện với con sau nhé! Mẹ yêu con. À…mà gửi tình yêu của chúng ta cho cả Victoria nữa nhé!”
Mắt Tory nheo lại khi cô ra đến cầu thang. Yêu à? Lúc nào họ cũng nói thế. Gửi Victoria tình yêu của chúng ta. Họ thật tử tế vì muốn thêm cả cô vào đời sống gia đình mình, nhưng thứ ấy không dành cho cô. Cô không cần đến người khác để hoàn thiện cuộc sống của mình. Cô học được từ nhiều năm về trước cách sống hạnh phúc mà chẳng cần đến ai khác, và cô đã học rất giỏi. Nếu bạn không phụ thuộc vào bất kỳ ai ngoài chính bản thân, bạn sẽ chỉ phải đổ lỗi cho mình nếu đời làm bạn thất vọng.
Mình không cần ai hết. Và rồi cô nghĩ đến Brett và cái mỏ neo mà anh đã mang đến cho cuộc sống của cô. Có lẽ là trừ Brett ra, nhưng anh ấy thì không tính. Anh ấy sẽ luôn ở đó chờ mình.
Bất chấp sự tự tin Tory dành cho Brett và tình yêu mà họ cùng chia sẻ, trong lòng cô vẫn cộm lên một mối hoài nghi không thể rũ bỏ. Tại sao hả Tory… tại sao mày lại chắc chắn về Brett đến thế?
“Bởi vì anh ấy đã hứa.” cô bảo với giọng nói tọc mạch kia như thế. “Đó là lý do.”
Một con mèo hoang nhảy xuống từ một bậu cửa sổ đã vỡ kính khi Brett đưa xe vào nhà kho Santa Fe và đỗ lại. Vào ngày đẹp trời mà phải xuống đầu này của phố Reno cũng đã đủ tệ rồi, thế mà một giờ trước trời lại bắt đầu mưa, và mọi thành phần cùng khổ sẽ đi tìm chỗ trú ẩn. Anh liếc nhìn đồng hồ. Đã năm giờ kém mười lăm, và trong vòng bốn giờ qua, anh cứ đi từ toà nhà này sang đến toà nhà khác, cố xác định vị trí của một nhân chứng then chốt cho sếp anh.
Với hầu hết người dân có công ăn việc làm của thành phố Oklahoma, bây giờ đã gần đến giờ về, thế nhưng với các điều tra viên của phòng công tố hạt Oklahoma thì không. Giờ làm việc của họ tuỳ thuộc vào nhu cầu của toà nhiều hơn là vào sự thích hợp.
Don Lacey, vị công tố viên của hạt, sếp của Brett, là một người khá quyền thế, và trong khi luôn cố hết sức mình để kết tội những kẻ bị cảnh sát bắt, ông đồng thời cũng phải xoay xở với những điều luật cứng ngắc. Đôi khi, bất kể mọi người có làm việc vất vả thế nào, công lý vẫn không được thực thi. Chính vì những điều thất vọng này mà các điều tra viên như Brett phải lao ra đường, kiểm tra đi kiểm tra lại mọi điều công tố viên cần để xử lý một vụ án. Và trong trường hợp này thì công việc cần thiết là tìm một người đàn ông tên Harold Tribbey.
Tháng ba năm 1995, Harold Tribbey làm việc cho một cửa hàng ở trung tâm thành phố Oklahoma. Ông ta đang ngồi ở bục nhận hàng đằng sau cửa hàng máy móc trong giờ nghỉ trưa, thưởng thức món bánh kẹp thịt gà và salad của mình thì hai người đàn ông bước ra khỏi toà nhà ở bên kia phố. Trước khi ông kịp nuốt xong miếng cuối, một người bất thình lình lôi súng ra và bắn thẳng vào người trước mặt.
Chết đứng vì tội ác mình vừa chứng kiến, Harold nhìn trân trối vào tay súng đang biến mất, vào máu và não bị bắn lên phố của người đàn ông kia rồi nôn ra bằng sạch những thứ vừa ăn vào. Chỉ trong nháy mắt, Harold đã trở thành nhân chứng cho một tội ác.
Một thời gian sau, ông đã chỉ ra một nghi phạm trong số những kẻ đứng xếp hàng mà không biết rằng đó chính là tay chân của Romeo Leeds, trước là trùm xã hội đen của Chicago còn giờ là của Oklahoma.
Việc người của mình bị nhận dạng khiến Romeo Leeds lâm vào tình thế hiểm nghèo. Nếu gã này phải ra toà thì cầm chắc Leeds cũng sẽ bị lôi xuống bùn cùng với gã. Vì thế hắn đã kéo các luật sư của mình vào cuộc, đưa hết kiến nghị này đến kiến nghị khác để cản trở việc đưa vụ án này ra toà. Và trong lúc cỗ xe công lý chậm rãi chuyển động, thế giới mà người dân trung tâm thành phố Oklahoma vẫn quen sống bất ngờ bị thay đổi mãi maĩ.
Ngày 19 tháng Tư, toà nhà Alfred P. Murrah cùng với mọi toà nhà khác trong góc phố ấy, bao gồm cả cửa hàng máy móc mà Harold đang làm việc, đã bị một quả bom tàn phá. Vài tuần sau khi người chủ bị phá sản, Harold mất việc.
Kết quả là ông ta cùng với vài trăm con người khác sống sót sau vụ nổ ấy đã bắt đầu lâm vào tình trạng rối loạn thần kinh do chấn thương sau thảm họa. Nhưng vấn đề của Harold trở nên trầm trọng thêm bởi một quá khứ mà những người sống sót khác không có. Vốn là một cựu chiến binh từ Việt Nam trở về, ông ta đã bị những hồi ức của nhiều năm trước ám ảnh. Bây giờ ông ta không ngủ được, không ăn được, và tính cách thay đổi hoàn toàn. Ông ta trở nên giận dữ, nghi hoặc tất cả mọi người xung quanh và không thể giữ nổi một việc làm.
Sau đó Harold Tribbey mất vợ, mất nhà và xe. Ông ta trở nên ốm yếu, cả tinh thần thể xác, và gần một năm trước đã sống lang thang trên đường phố. Nhưng trong khi tội ác mà Harold đã chứng kiến vài năm trước nhạt nhoà đáng kể với ông ta, nó không hề bị gạt đi khỏi sổ ghi án của Toà án hạt Oklahoma. Các luật sư của Romeo Leeds đã hết thời gian và sự lựa chọn. May cho họ, nhân chứng duy nhất đã biến mất.
Trong lúc Harold dần suy sụp, Leeds đã không hề phí phạm thời gian của mình. Hắn đã lớn mạnh cả về quyền lực lẫn tiền tài, tới mức trở nên gần như bất khả xâm phạm. Công tố viên không mong gì hơn là kết thúc được vụ giết người và lôi Leeds ra khỏi xã hội, nhưng trừ khi tìm được Harold Tribbey, vụ án này sẽ bị ném khỏi toà.
Cả sở cảnh sát lẫn người của văn phòng công tố đều quyết tâm không để chuyện ấy xảy ra. Nhiệm vụ của Brett là hỗ trợ truy tìm Tribbey, và anh đã cày nát khu vực trung tâm thành phố Oklahoma nhiều ngày nay. Khoảng một giờ trước có người đã mách cho anh là Harold thi thoảng đến ngụ ở nhà kho Santa Fe, đặc biệt là khi thời tiết xấu.
Brett quan sát qua làn mưa đang ào ạt đổ xuống kính chắn gió. Anh liếc nhìn toà nhà, cẩn thận ghi chú số cửa sổ và cửa ra vào bị bịt kín, rồi cầm điện thoại lên. Dù chỉ là vấn đề cá nhân, nhưng anh ghét cay ghét đắng việc đi vào một chỗ như thế này mà không biết có đường nào đi ra không. Khi người trực tổng đài của phòng cảnh sát trưởng trả lời cuộc gọi, anh nói rất ngắn gọn:
“Hooker đây. Tôi đang ở nhà kho Santa Fe trên phố Reno. Giờ tôi sẽ đi vào. Nếu đến năm giờ mười lăm anh không nghe tin gì từ tôi thì hãy cử ai đó đến kiểm tra.”
Brett trượt điện thoại vào túi quần lúc ra khỏi xe, rồi đưa một tay sờ áo khoác, đảm bảo là súng và bao súng của mình vẫn còn đó.
Nước mưa quất vào mặt Brett khi anh chạy về phía toà nhà. Áo khoác ngoài của anh không thấm nước, nhưng quần jeans thì có. Trong vòng vài giây, quần và ủng của anh đã ướt nhẹp. Một cơn gió mạnh tạt nước mưa vào mắt làm anh phải chớp mắt lia lịa và quay mặt đi. Khi nhìn trở lại, anh thoáng thấy bóng một người đàn ông ở ngưỡng cửa. Anh chưa kịp phản ứng gì, ông ta đã biến mất.
Brett với tay lấy khẩu súng theo bản năng. Kể cả khi không phải người đàn ông anh đang tìm gặp rắc rối, những kẻ khác tìm nơi tránh mưa ở đây cũng có thể mang một lương tâm tội lỗi.
Anh đứng thủ thế ở bên mé cửa, khẩu Glock nằm gọn trong tay. Nhưng mưa đang đổ ầm ầm, mạnh tới mức anh chẳng phân biệt được âm thanh gì, và chẳng muốn chờ đợi thêm nữa. Anh hít một hơi rồi lẻn vào trong nhà kho, ép sát người vào tường trong lúc để mắt thích nghi với khung cảnh tăm tối.
Từ đâu đó phía trên ngưỡng cửa, một mảnh kim loại rơi xuống sàn nhà xi măng gây nên một tiếng lanh canh lớn, làm gián đoạn sự im ắng do màn mưa tạo ra. Brett giật mình vì tiếng vọng và quay lại đúng lúc ba người đàn ông vừa mới bước ra khỏi một đống kệ gỗ và bắt đầu chạy về cuối toà nhà. Khi một trong số chúng bất ngờ dừng lại và quay đầu về phía anh, tóc gáy Brett dựng đứng, anh lao xuống sàn nhà mà không cần suy nghĩ.
Hành động bốc đồng này đã cứu mạng Brett. Nhiều viên đạn ghim vào bức tường nơi anh vừa mới đứng và hàng tá khác sượt qua những kệ gỗ mà anh đang trốn ở đằng sau, nảy lên trên sàn xi măng cạnh chân anh.
“Ôi,” Brett lẩm bẩm rồi cầm điện thoại của mình và gọi 911. “Tôi là Hooker của phòng Công tố hạt. Tôi đang ở nhà kho Santa Fe cũ phía đông Reno. Có kẻ đã nổ súng. Tôi cần trợ giúp.”
Brett chưa kịp di chuyển, đầu bên kia nhà kho chợt có tiếng ồn ào rồi tiếp đó là im lặng. Anh đổi tư thế, qùy rồi đứng dậy, khom lưng đi dọc theo bức tường, tay lăm lăm cò súng. Trước cả khi nghe thấy tiếng còi cảnh sát đang lại gần, anh đã biết bộ ba kia đã đi mất. Khi nhìn thấy những tấm ván bịt cửa sổ bị cạy ra, anh chửi thề.
Sau khi đã quan sát tỉ mỉ khu vực, anh trở lại mặt trước tòa nhà. Vài phút sau, anh bắt gặp một đống những kệ gỗ và thi thể của một người phụ nữ đang nằm úp mặt xuống vũng máu của chính bà ta. Brett âm thầm nguyền rủa. Giờ anh đã biết đích xác vì sao chúng bỏ chạy.
Tránh không làm xô lệch hiện trường, anh đi trở lại chỗ cửa. Hai chiếc xe tuần tra của cảnh sát vừa thắng lại bên cạnh xe anh. Khi cả hai cảnh sát đều ra khỏi xe với súng lăm lăm trong tay, Brett giơ hai tay lên và hét vang tên mình. Họ thả tay súng rồi chạy lại chỗ anh.
“Trong kia có xác một phụ nữ, nhưng hung thủ đã bỏ chạy qua một cửa sổ ở đằng sau. Làm ơn gọi về báo giùm tôi được không?”
Một trong hai cảnh sát gật đầu và trở lại chỗ xe anh ta, còn người kia đút súng vào bao.
“Này Hooker, anh không biết đã đến giờ về rồi à?”
Brett nheo mắt nhìn qua màn mưa, nhận ra anh cảnh sát kia là người quen từ hồi anh còn trong học viện.
“Thôi đi Ernie, cậu biết Lacey và tôi rồi mà. Việc chưa xong bọn tôi còn chưa từ bỏ.”
Như mọi cảnh sát khác, khi tổng đài báo tin có một vụ nổ súng vào đồng nghiệp, adrenaline trong họ liền trào dâng, nhưng khi nguy hiểm rõ ràng đã qua, họ lại cười đùa để giảm bớt căng thẳng.
“Làm sao mà cậu lại dính vào vụ lùm xùm ở đây thể?” Reynolds hỏi.
“Đi tìm một nhân chứng và bước vào một vụ giết người. Chúng đã bắn vài ổ đạn vào tôi rồi chạy như ma đuổi. Tới lúc tôi đến được đầu kho bên kia thì chỉ thấy mưa ngoài cửa sổ thôi.”
Tiếng cười của Brett vẫn còn vang vọng khi họ bước vào trong nhà kho. Ít nhất anh cũng có một chỗ khô ráo để chờ nhân viên pháp y đến.
Sau khi lao ra ngoài cửa sổ nhà kho Santa Fe, Gus Huffman cùng đồng bọn: Tony và Raul Gomez, tạm trú ở gần khu Bricktown, một khu vực nội đô cũ của Oklahoma đã được sửa chữa lại, và giờ trở thành một chỗ “thời thượng”. Bất chấp cuộc chạy xuyên màn mưa, chúng cũng không bị ướt hơn các thực khách đang xếp hàng chờ bàn ở Spaghetti Warehouse là bao.
Gus ghét những chuyện lộn xộn, nhưng hôm nay nhờ sự xuất hiện của một kẻ lạ mặt mà nhiệm vụ lúc đầu vốn đơn giản của hắn đã biến thành một vụ lằng nhằng lớn. Mùi xốt Marinara và mỳ ống thoảng qua mũi làm dạ dày hắn cuộn lên.
“Chết tiệt, Gus, cái hàng người này chả rục rịch gì cả. Đi chỗ khác đi.” Raul phàn nàn.
Gus lắc đầu. “Đã quá bảy giờ rồi. Ở đâu cũng phải xếp hàng thôi, và giờ tao chẳng có tâm trạng để bị ướt thêm trước khi lấp đầy cái bụng.”
Tony Gomez gật đầu đồng tình và tọng thêm một que kẹo cao su vào mồm, “Ừ, đúng đấy Raul, ngoài kia mưa lắm, hay là anh còn chưa biết?” Rồi gã cười rinh rích trước câu đùa của mình và nháy mắt với cô hầu bàn.
Gus lờ hai anh em chúng đi. Bọn chúng là những kẻ đầu óc đần độn chẳng nghĩ được gì mấy ngoài kiếm tiền và kiếm gái, cái nào trước cũng được. Hắn đổi chân ra vẻ sốt ruột khi người bồi bàn đi ngang qua với một khay đầy mỳ. Sau thảm họa vừa rồi, hắn không chắc liệu bọn chúng có được trả tiền không. Romeo sẽ không vui vẻ gì. Chuyện chúng vừa đóng một kẽ hở trong đời ông ta chẳng là gì so với chuyện chúng lại mở ra một kẽ khác. Mặc dù công bằng mà nói thì làm sao chúng biết có người sắp xuất hiện ở nhà kho được chứ, đặc biệt là trong một ngày như hôm nay.
Bên ngoài, mưa vẫn tiếp tục trút xuống và Gus nhìn qua cửa kính một cách vô hồn. Đầu óc hắn bận nghĩ lại cảnh xả súng và cảnh người đàn ông bước vào trước khi chúng có cơ hội tẩu thoát. Có một điều chắc chắn là hắn sẽ nhận ra thằng con hoang đó nếu có cơ hội gặp lại.
Gus liếc nhìn đồng hồ. “Ít nhất phải mười lăm phút nữa bọn ta mới có bàn. Tao đi gọi cho ông chủ đây.”
Hắn lách ra khỏi hàng và hướng về phòng vệ sinh nam. Có hai người ở bên trong và hắn chờ đến khi họ đi khỏi mới lấy điện thoại ra gọi. Điện thoại chỉ đổ một hồi chuông. Khi nghe thấy giọng Romeo Leeds, hắn hít một hơi dài.
“Tôi, Gus đây.”
“Xong chưa?”
“Rồi, không vấn đề gì.”
“Tốt, mai qua văn phòng thanh toán.”
“Vâng, à… thưa ông chủ, nhưng mà…”
Romeo Leeds đã ở thế giới ngầm lâu đến mức có thể đánh hơi được rắc rối trong giọng của Gus.
“Nhưng sao?”
Gus rùng mình. Cái điệu kéo dài giọng của Leeds rất giả tạo, và hắn biết điều đó. Romeo Leeds không phải loại người trịnh trọng.
“Có thằng bước vào trước khi bọn tôi kịp tẩu thoát.”
“Có, nhưng trời khá tối. Tôi không nghĩ hắn nhìn kỹ được mặt bọn tôi.”
Giọng Leeds càng dài ra thêm. “Mày không nghĩ… Mày không chắc… Mày không biết…” Rồi hắn bùng nổ. “Chính ba cái mớ thối tha đó có thể lôi mày xuống bùn đấy, mày rõ rồi chứ gì. Tìm xem nó là ai rồi xử lý đi, nghe rõ chưa?”
Gus gật đầu rồi nhận ra Leeds không thể trông thấy mình. “Vâng, thưa ông chủ, tôi nghe rồi, rõ rành rành.”
“Mà này Gus…”
“Vâng ạ?”
“Chưa làm xong việc thì đừng nghĩ tới chuyện đi lấy tiền công nhé. Tao không trả tiền cho bọn nửa mùa, hiểu chưa?”
Anh em nhà Gomez sẽ tức lắm đây, nhưng Gus chẳng thể làm gì được.
“Vâng, thưa ông, tôi hiểu, và tôi sẽ xử lý mọi chuyện, đừng lo gì cả.”
Romeo Leeds dập máy bên tai Gus. Gus không cho đó là một tín hiệu tốt. Hắn trở lại phía trước nhà hàng đúng lúc cả bọn sắp sửa được ngồi.
“Chết tiệt, Gus, mày đúng lúc quá,” Raul nói, cười toe toét và vỗ vào lưng hắn. “Đến đây ăn mừng nào.”
“Ăn thì ăn, chứ không phải là mừng.” Gus nói. “Bọn ta sẽ không được trả tiền cho đến khi dọn sạch cái mớ hổ lốn gây ra ngày hôm nay.”
Raul cau mày. Sau khi cô hầu bàn rời đi, gã vươn người tới với giọng nói hằn thù, “Nghe này Huffman, mày đã hứa chia phần cho bọn tao. Giờ tao muốn phần của mình.”
Giọng Gus nhỏ hơn và đôi mắt hắn loé lên tia cảnh cáo với Raul.
“Mày sẽ được tiền khi nào tao được trả.” Hắn nói khẽ. “Giờ hãy nhớ xem mày đang ở đâu và câm miệng lại đi. Bọn ta đến để ăn, và sẽ ăn. Khi nào ăn xong tao muốn mày cút đi cho khuất mắt tao. Hiểu nhau chưa?”
Gomez gật. Trong khu của mình gã là một tên cộm. Nhưng so với Gus Huffman, gã chỉ là thằng học việc, và gã biết điều đó.
“Không vấn đề gì, người anh em.” Raul nói. “Tao chỉ nói thế thôi. Mày biết rồi đấy. Không có ác ý gì, được chưa?”
Gus đẩy thực đơn về phía gã. “Câm miệng và chọn món đi.”