Hoa Khai đi rồi, Tử Trúc cũng không ở lại trong núi mà vái chào từ biệt vị đạo sĩ.
Vị đạo sĩ chỉ nặng nề thở dài, thầm nói hai chữ “nghiệt duyên”, nhưng cũng không giữ hắn lại. Bái biệt sư phụ xong, Tử Trúc lên đường trở về ngọn núi lớn kia, nơi có một người trường sinh bất tử ngày ngày canh giữ.
Lác đác trên nhánh cây ven đường vào núi có mấy mảnh vải đỏ bay phất phới trong gió. Đó chính là lúc chia tay, Liễu Thanh đã cột vào cây cối bên đường. Hôm đó nàng chỉ nhìn Tử Trúc, cười mà không nói lời nào, xem ra đã sớm đoán được hắn sẽ trở về tìm nàng.
Tử Trúc đi dọc theo con đường được đánh dấu, từng bước tiến đến gần tương lai ngay cả hắn cũng không nhìn rõ, lại không hề do dự.
Quanh quẩn một hồi, cuối cùng Tử Trúc cũng về tới nơi này.
Khi đó Liễu Thanh đang đứng dưới tàng cây hòe to lớn, dường như cảm giác được Tử Trúc đã đến, nàng xoay người lại, nhìn Tử Trúc, không hề bất ngờ nở nụ cười: “Ngươi đến rồi.” Trời đã vào cuối thu, cây hòe đã sớm qua mùa hoa nở, lá cây yếu ớt, ố vàng rụng lả rả theo từng cơn gió mạnh.
“Quyết định xong chưa?” Liễu Thanh hỏi.
Tử Trúc gật đầu, thong thả, kiên định.
“Cho dù kết cuộc của ngươi là bị thiên lôi trừng phạt, chết không được tử tế, ngươi vẫn đồng ý? Tần Tử Trúc, bây giờ ngươi muốn đổi ý vẫn còn kịp.”
Tử Trúc nhẹ nhàng lắc đầu, buồn bã nói: “Giờ phút ta bốc quẻ cho nàng, ta đã quyết định. Ta không thể để nàng chết, không thể.”
Liễu Thanh cười cười, trong đôi mắt sâu không thấy đáy là niềm thương cảm vô bờ. Thương hại bọn họ, cũng là thương hại cho chính mình. Muốn thoát khỏi sự an bài của vận mệnh, lại nhất định phải dùng cái phương pháp mà chính nàng cũng cảm thấy đáng thương này.
“Đi theo ta.” Liễu Thanh gọi Tử Trúc rồi đi thẳng vào phòng.
Tử Trúc vào đến nơi, Liễu Thanh đã ngồi cạnh chiếc bàn gỗ, bên trên bày một chén nước trong vắt. Nàng tự cắn ngón tay mình, từng giọt máu đỏ tươi nhỏ vào trong chén, nhanh chóng tan ra. Liễu Thanh nháy mắt, ý bảo Tử Trúc làm theo. Tử Trúc hiểu ý, tự nhỏ máu mình vào trong chén. Nàng lấy ra một lá bùa vàng, niệm thầm một lúc, lá bùa đột nhiên bốc cháy. Ánh lửa vàng rực làm nổi bật gương mặt tái nhợt của Liễu Thanh. Nàng bỏ lá bùa đã cháy gần hết vào trong chén, ngọn lửa lập tức tắt ngúm.
“Uống đi.” Liễu Thanh đưa chén cho Tử Trúc.
Tử Trúc cầm lấy, nhưng không uống ngay. Hắn nhìn tàn tro lềnh bềnh trong chén một lúc lâu, đột nhiên cười nhạt rồi uống một hơi cạn sạch.
“Ngươi không bao giờ còn cơ hội để hối hận nữa.” Liễu Thanh nói.
“Ta sẽ không hối hận.” Tử Trúc nhìn cái chén không, nói.
Đúng lúc này, một con bướm trắng đơn côi không biết từ đâu bay tới, đậu trên vai Tử Trúc, run rẩy hai cánh. Nếu bọn họ có thể hiểu được tâm tình con bướm, nhất định sẽ hiểu được bướm trắng đang khóc, nước mắt âm thầm, lặng lẽ rơi.
Thời gian trong núi trôi nhanh hơn so với tưởng tượng của Tử Trúc. Ngày này tiếp ngày kia, cứ như bị gió lạnh trên núi thổi bay. Mùa đông đã đến từ lâu, tán cây hòe cao lớn nay chỉ còn cành cây trơ trụi. Bầu trời u ám trĩu nặng, chắc không bao lâu nữa sẽ có tuyết rơi.
Điều quan trọng nhất Tử Trúc phải làm mỗi ngày là nghiên cứu cho thật thông suốt mấy quyển cổ thư Trường Sinh để lại. Mỗi khi lật đến trang được viết bằng máu kia: “Trường sinh bất lão, cải tử hồi sinh, ở ngoài luân hồi. Thuật giả, vi phạm thiên mệnh, ngũ lôi oanh đỉnh, chết không toàn thây”, Tử Trúc liền cảm giác có gì đó lành lạnh chạy dọc khắp thân thể.
Tuy Tử Trúc có năng khiếu hơn người đối với đạo thuật, nhưng so với thiên tài như Trường Sinh thì chỉ như đứa con nít chưa hiểu chuyện với cụ già kiến thức đầy mình. Huống chi lúc Trường Sinh viết quyển sách này, tinh thần hắn đã không còn tỉnh táo. Chữ nghĩa trong sách nhìn có vẻ cao thâm ảo diệu, nhưng thật ra không phải là kiến thức chính thống, vẫn là cuồng ngôn loạn ngữ. Nhưng một khi trong đầu bắt được ý niệm, lại khiến người ta bị chấn động như sét đánh ngang tai.
Tử Trúc không hiểu được hết những điều trong sách đã ghi, nhưng mỗi lần nghĩ đến Hoa Khai, hắn lại cảm thấy nôn nóng. Cảm giác này gặm nhấm tinh thần hắn ngày này sang ngày nọ, khiến hắn lúc nào cũng lo lắng bất an. Trong sách có rất nhiều chỗ chữ nghĩa như của người trời viết, rất khó hiểu. Có đôi khi Tử Trúc cảm thấy không chừng mình đã hóa điên. Những lúc thế này, Liễu Thanh đều mang một chén nước trong vắt tới cho hắn. Uống xong cũng bình tĩnh được đôi chút.
Mặt trời ngả về tây, trong núi sập tối rất nhanh. Liễu Thanh châm ngọn đèn dầu. Ngọn lửa to như hạt đậu lắc lư trong gió lạnh. Trong ánh đèn lập lòe, Tử Trúc vẫn cầm sách cần mẫn đọc tiếp, mãi cho đến khi hai mắt mờ đi mới thôi. Liễu Thanh lấy một cái áo lông cáo choàng lên người Tử Trúc. Nàng nói: “Đừng đọc nữa, nghỉ một lát đi. Hôm nay trời lạnh lắm, lát nữa sẽ có tuyết rơi.”
Lúc này Tử Trúc mới nhớ tới mình đến ngọn núi này đã được hơn nửa năm, không biết Hoa Khai sao rồi.
Khoác áo choàng, Tử Trúc bước ra cửa. Bên ngoài gió lạnh thấu xương, gào rít khoan thủng núi rừng, u u như tiếng vô số oan hồn buồn bã khóc than. Chân trời đen như mực, sao trên đầu cũng không tỏa sáng. Những ngày ở trong núi, ngoại trừ quyển cổ thư về trường sinh bất tử kia, Liễu Thanh đều mang tất cả những gì mình biết truyền lại cho Tử Trúc, bao gồm cả xem thiên tượng đoán thiên mệnh. Về phương diện này, Tử Trúc lĩnh ngộ rất nhanh, bây giờ còn giỏi hơn nàng. Cho dù trời không trong, sao không sáng cũng có thể nhìn được rõ ràng.
Liễu Thanh từ trong nhà đi ra, đứng bên cạnh Tử Trúc. Nàng ngẩng đầu nhìn bầu trời, sau đó nói: “Trên trời có khí lành mờ ảo, xem ra không bao lâu nữa sẽ có thụy thú (*) giáng phàm. Ta nhớ ba trăm năm trước là kỳ lân hạ giới, không biết lần này sẽ là con gì đây.”
*Thụy thú: thú mang lại điềm lành.
Tử Trúc cũng nhìn thấy, nhưng đây không phải điều hắn quan tâm. Hắn cố tìm cho được ngôi sao chiếu mệnh của Hoa Khai, ánh sáng mỏng manh yếu ớt. Xung quanh sắc trời hỗn độn, mây đen dày đặc, là điềm đại hung. Điều an ủi duy nhất chính là ngôi sao này vẫn tiếp tục tiến về phương Bắc, chứng tỏ Hoa Khai còn sống, tạm thời không có nguy hiểm đến tính mạng.
Tử Trúc thở dài một hơi, lấy từ trong lòng ra lọn tóc đen nhánh được buộc bằng vải đỏ. Nó lẳng lặng nằm trong lòng bàn tay Tử Trúc. Ngực như bị ai bóp nghẹt, hắn không kềm được thầm gọi tên: “Hoa Khai.” Thanh âm khẽ khàng.
Mấy ngày sau, thiên tượng không còn trầm trọng như hôm đó, nhưng bầu trời như cái miệng rộng điên cuồng thổi ra gió tuyết, lẫn cả băng sương rét buốt, chỉ hận không thể chôn vùi tất cả. Trời lạnh thấu xương.
Tử Trúc ngã bệnh. Nói cho cùng hắn cũng chỉ là một người phàm. Phong hàn đã thấm vào xương cốt, muốn khỏi hẳn dĩ nhiên không dễ. Nhưng Tử Trúc lại không chịu nằm trên giường dưỡng bệnh mà đêm nào cũng bò ra ngoài xem thiên tượng, trời chưa sáng là không chịu vào nhà. Trong cơn mưa tuyết mù mịt, ngay cả sự vật trước mắt còn không nhìn rõ được, huống chi là xem thiên tượng?
Liễu Thanh vài lần khuyên Tử Trúc vào nhà, nhưng hắn vẫn cứng đầu không nghe. Nàng hỏi vì sao, Tử Trúc nhìn Liễu Thanh, gương mặt trắng bệch, yếu ớt nói: “Ta cảm thấy nàng đã xảy ra chuyện.” Nói xong câu đó, Tử Trúc liền ngất đi.
Tuyết lớn rơi suốt ba ngày ba đêm, vùi lấp thiên địa trong biển trắng mênh mông, cuối cùng cũng dừng lại.
Tuyết ngừng rơi một ngày một đêm sau, Tử Trúc mới tỉnh lại. Vừa tỉnh, câu đầu tiên hắn hỏi chính là: “Tuyết ngừng rơi rồi sao?” Giọng nói khàn khàn, chậm chạp.
Liễu Thanh không nói gì, chỉ đỡ hắn ngồi dậy. Nàng bưng chén nước ấm kề lên miệng Tử Trúc, giúp hắn uống hết.
Tử Trúc lại hỏi lần nữa: “Tuyết ngừng rơi chưa?”
Liễu Thanh do dự một hồi, mới gật đầu.
“Dìu ta ra ngoài.”
Liễu Thanh khuyên nhủ: “Trên trời không có lấy nửa ngôi sao, hôm nay không xem được đâu. Ngươi lo dưỡng bệnh trước tốt hơn.”
“Dìu ta ra ngoài.” Tử Trúc khăng khăng.
Liễu Thanh đành thở dài, giúp Tử Trúc đi từng bước một ra ngoài nhà. Nhìn thần thể gầy còm vừa qua cơn trọng bệnh của Tử Trúc, đến mức gió lớn một chút dường như cũng có thể thổi bay, Liễu Thanh lại không đành lòng.
Bên ngoài, không giống như Liễu Thanh nói không có ngôi sao nào, bầu trời vô cùng trong trẻo. Hàng ngàn vì sao lấp lánh, ánh trăng cũng đặc biệt sáng ngời, trải dài trên nền tuyết trắng. Đây chính là lúc tốt nhất để xem thiên tượng.
Nhưng toàn thân Tử Trúc cứng đờ, gương mặt càng lúc càng trắng bệch, hồi lâu sau vẫn không thốt nên lời. Hắn gom hết khí lực toàn thân mới đủ sức quay đầu, nhìn Liễu Thanh, mất một lúc mới tìm được giọng nói của chính mình: “Sao chiếu mệnh của Hoa Khai đâu? Sao lại không thấy?” Biểu cảm đó, dường như chỉ cần Liễu Thanh lên tiếng, hắn sẽ cứ thế mà chết đi.
Đây chính là nguyên nhân Liễu Thanh không muốn Tử Trúc ra khỏi nhà. Trăng vừa lên cao, Liễu Thanh đã ra ngoài xem thiên tượng. Nàng cũng không nhìn thấy sao chiếu mệnh của Hoa Khai. Thậm chí Liễu Thanh vẫn không thể nào tin, trong lòng nàng, vận mệnh Hoa Khai không phải như vậy.
Mỗi người đều có ngôi sao chiếu mạng của mình. Ngôi sao của Hoa Khai biến mất, chứng minh nàng đã chết. Liễu Thanh không dám nói ra miệng, chỉ trầm mặc lắc đầu. Nhưng nàng vẫn muốn an ủi cái người đang đau đến chết đi sống lại trước mặt mình: “Ta đã xem qua tướng mệnh của Hoa Khai, ba năm này là kiếp số của nàng. Tương lai là tốt hay xấu cũng đều được định sẵn rồi. Bây giờ còn chưa đến một năm, chắc không có việc gì đâu.”
Tử Trúc vẫn không động đậy, thân thể dường như đã đông cứng, mặt mày vàng vọt như tờ giấy.
Liễu Thanh không đành lòng nhìn dáng vẻ hắn như vậy, lên tiếng thúc giục: “Vào trong trước đi. Bây giờ cần nhất là ngươi tịnh dưỡng cho tốt, đổ bệnh lần nữa là không chống đỡ được đâu.”
Trong lúc Liễu Thanh còn chưa nói hết câu, cả người Tử Trúc đột nhiên giật giật, sau đó nôn ra rất nhiều máu, dính đầy trên quần áo và tuyết trắng, đỏ tươi vô cùng. Hai mắt hắn nhắm nghiền, không còn hơi thở.
Đêm đó, Liễu Thanh dùng hết sức bình sinh mới có thể cứu sống hắn, vớt được một hơi thở mỏng manh. Hôm sau Liễu Thanh lại xem thiên tượng, bất ngờ phát hiện một chuyện không thể tin được. Nàng vội vàng vào nhà, nói với Tử Trúc đang hôn mê bất tỉnh: “Ngươi còn bất tỉnh nữa, nhất định sẽ hối hận cả đời!” Nhưng sau đó, cho dù bao nhiêu thuốc đổ vào miệng hắn cũng giống như đá chìm đáy biển. Mà hơi thở Tử Trúc lại như ngọn đèn cầy sắp tàn, bất cứ lúc nào cũng có khả năng tắt phụt, vĩnh viễn không tỉnh lại nữa.
Lúc đó Liễu Thanh cũng chú ý thấy có một con bướm trắng cứ bay tới bay lui quanh người Tử Trúc, lâu lâu lại đậu lên trán hắn, thật lâu cũng không chịu bay đi.
Liễu Thanh nhìn gương mặt tái nhợt của Tử Trúc, nói với con bướm trắng: “Hắn là hoài niệm của ngươi, nhưng ngươi lại không phải của hắn.”
Con bướm không bay đi.
Đêm khuya, vạn vật chìm trong yên tĩnh. Thân thể nó phát ra ánh sáng lấp lánh, như đang rót thứ gì đó vào cơ thể Tử Trúc, một lúc sau mới bay đi. Nhưng hình như nó yếu hơn hẳn.
Khi Tử Trúc tỉnh lại đã là một tháng sau. Khoảnh khắc hắn vừa hé mắt, Liễu Thanh đã lật đật kéo hắn ra ngoài, chỉ tay lên trời nói: “Xem kìa, nàng đã trở lại rồi.”
Tử Trúc không dám ngẩng đầu. Hắn chỉ sợ nhìn rồi sẽ khiến mình càng thêm đau khổ.
Nhưng dưới sự thúc giục liên tục của Liễu Thanh, cuối cùng Tử Trúc cũng từ từ ngẩng đầu lên. Bầu trời trong vắt, ngôi sao chiếu mệnh của Hoa Khai thật sự ở trên đó, nhàn nhạt tỏa sáng. Tuy không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng đó chính là sự thật.
Nàng còn sống, nàng còn sống. Nước mắt không ngăn được trào ra. Tử Trúc không muốn khóc, ủy mị như nữ tử, nhưng tình cảm sâu sắc như thế, làm sao có thể khống chế?
Bệnh của Tử Trúc cuối cùng cũng khỏi, hắn như sống lại lần nữa. Chuyện lần này càng củng cố chấp niệm của hắn, dù bất cứ giá nào cũng không thể để Hoa Khai xảy ra chuyện. Hắn không thể nào chịu nổi cảm giác so với chết còn đau đớn hơn lần nữa.