Vương Uy thoạt nhìn đã giật thót mình, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc
chưa từng thấy cái này bao giờ, nhưng Vương Uy từng đối diện nó, đã
nhìn rõ mồn một gương mặt ấy, liền nói:
- Đây là thứ ẩn náu trong sương mù trên bức tượng ấy, té ra hình
dáng nó là thế này.
Đúng như Vương Uy lúc ấy trông thấy, thứ đó có một gương mặt
Phật, mũi và miệng giống hệt như Di Lặc cười, mắt trợn tròn như
chuông đồng, lông mi đỏ rũ xuống đến quá tầm mắt, tựa như một vầng
lửa che phủ đôi mắt.
Nhị Rỗ quan sát kỹ con thú khổng lồ, thấy thân hình nó to lớn
kềnh càng, nằm dài trên mặt đất, hệt như một con sư tử đang ngủ.
Dáng dấp nó to lớn, những khớp xương vồng lên thành hình vòng cung
tràn trề sinh lực, tưởng chừng như hễ chồm lên là có thể vồ người
tới nơi, đầy vẻ oai phong hùng dũng.
Dương Hoài Ngọc bước ra đằng sau con thú, Vương Uy đi vòng sang bên
cạnh, quan sát kỹ sinh vật mấy lần suýt dồn họ vào chỗ chết, đúng
là càng nhìn càng kinh hãi. Con thú này nanh sắc móng nhọn, thể
hình cường tráng, chẳng trách gì nó đi lại thoăn thoắt như gió, mắt
người không thể nhìn rõ được.
Kỳ lạ nhất là bộ mặt của nó, bộ mặt giống với mặt Di Lạc, rõ
ràng được khắc họa dựa theo mặt người. Nếu thoáng nhìn chắc chắn
sẽ cho rằng bộ mặt này chỉ là do con người tưởng tượng ra rồi tạc
thành, nhưng Vương Uy đã từng trông thấy con thú này bằng xương bằng
thịt, gương mặt đó quả thực giống pho tượng băng này như khuôn đúc,
là một gương mặt Phật đầy đủ thần thái.
Nhị Rỗ từ phía sau đi vòng ra phía trước, chợt lớn tiếng kêu:
Nghe Nhị Rỗ nói, Vương Uy vội chạy lại, quả nhiên thấy đằng sau
con thú này còn một đám những con thú nhỏ, chỉ lớn bằng sư tử hoặc
hổ thông thường, sắp xếp thành trận pháp. Thoáng nhìn có vẻ rất
lộn xộn, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy, cách sắp xếp những con thú nhỏ này
giống hệt như những đường nét trong mấy bức vẽ trên lòng bàn tay pho
tượng đất.
Trông thấy vậy, ba người sực hiểu ra, trận thế của những con thú
này đã chứng minh các đường nét trên tranh vẽ đúng là khắc họa con
thú ẩn náu trong sương mù. Nhưng các bức vẽ cũng như cự thú trận
này đều bày ra cũng một trận thế, điều này nhằm mục đích gì? Lẽ
nào việc bụng bức tượng đất nổ tung có liên quan đến con thú này
sao? Và làm thế nào để thông qua những con thú này, tìm thấy được
hai cánh cửa đồng có hai chiếc kích hình dã thú?
Tất cả những điều này vẫn còn là bí ẩn.
Vương Uy cảm thấy đứng dưới đất khó mà trông rõ được thú trận.
Anh liền gọi Nhị Rỗ, hai người từ hai bên leo lên mình con thú “đầu
lĩnh”. Thân mình nó quá lớn, băng lại rất trơn, hơn nữa tay chân họ
cũng không thể bấu víu vào đâu được, nếu bị dính vào băng sẽ bị
bóc hẳn một mảng da.
Vương Uy lấy từ trong ba lô ra một sợi dây thừng, đầu dây có buộc
móc câu ba cạnh, đồ vật này trong giới lục lâm giang hồ gọi là “bò
cạp vượt tường”, là công cụ thiết yếu để bọn trộm cắp trèo tường.
Người đứng bên ngoài ném “bọ cạp vượt tường” ra, móc ba cạnh sẽ móc
vào khe ngói ở mái hiên, móc này rất chắc, hơn nữa kết cấu rất đặc
biệt, hễ móc vào khe ngói nếu không khéo léo thì không thể nào lấy
xuống nổi. Móc ba cạnh là lợi khí vượt tường của bọn trộm cắp, nên
quan trên cấm người dân sản xuất.
Tổ tiên Vương Uy vốn là thế gia trong giới lục lâm, những thứ này
không những anh thấy nhiều mà còn sử dụng thành thạo, hễ vung lên là
móc câu móc vào đúng vị trí đã định, không sai một phân. Lực đạo
của tuyệt kỹ này chính là lực cổ tay mà anh luyện được khi tập
ngón Đoạn Môn chỉ, chỉ cần vung tay lên là phát ra kình lực hùng
hậu, anh nhắm đúng vị trí, vùng mạnh, “bò cạp vượt tường” bay vút
ra như rắn, vượt qua lưng con dã thú sang bên kia, rơi xuống hơn mười
mét, rồi quấn vào chân nó, móc sắt bám vào khe băng.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc tròn mắt, há hốc mồm ra, công phu này
của Vương Uy quả là xảo diệu vô cùng, trong khéo còn có cái khéo
hơn. Cả hai đều là kẻ sống trên đầu mũi đao mũi kiếm, từng trải
không ít sự đời, nhưng công phu xảo diệu thế này quả là chưa thấy bao
giờ, khiến họ không khỏi nhìn Vương Uy bằng con mắt khác.
Vương Uy quay sang bảo Nhị Rỗ:
- Đứng sững ra đấy làm gì, mau leo lên.
Hai người nắm lấy sợi dây thừng, hồi hộp leo lên lưng con thú cao
hơn chục mét. Vì thân hình con thú rất lớn, họ nằm bò trên tấm lưng
nó như trên mặt đất, không sợ bị trượt ngã.
Nhị Rỗ bảo Dương Hoài Ngọc đi sang phía bên cạnh thú trận đằng
sau, như vậy có thể dựa vào ánh đuốc bên dưới, để quan sát toàn cục
trận thế. Hai người căng mắt nhìn kỹ, lại so sánh với những bức vẽ
trong trí nhớ, xác định thú trận này được bài trí sắp xếp giống
hệt với những đường nét trong các bức tranh trên bàn tay pho tượng.
Vương Uy leo lên để nhìn cho rõ xem bên trong thú trận còn có gì
lạ không, nhưng nhìn mãi nhìn mãi, ngoại trừ kỹ thuật điêu khắc đã
đạt đến độ hoàn mỹ, thì không thấy gì khác.
Khỏi cần phải nghi ngờ gì nữa, cung điện băng nằm sâu dưới lòng
đất này rõ ràng là do bàn tay con người tạc nên, nhưng quái lạ là,
từng đường nét chạm trổ đều không chút tì vết tinh tế đến lạ lùng.
Theo ba người thấy, đây gần như là chuyện không thể. Dẫu rằng phải
mất rất nhiều sức người, sức của điêu khắc được hoàn mỹ như vậy,
nhưng lâu ngày băng tan chảy, chắc chắn các pho tượng sẽ tổn hại lớn.
Vậy mà không thể nhận ra một chút tổn hại nào nơi cung điện băng
dưới lòng đất này, ngay cả những nét chạm khắc đơn giản cũng được
thực hiện rất cẩn thận, không dính chút vụn băng nào, quả là bất
thường.
Vừa bước vào cổng vòm, Vương Uy đã chú ý ngay đến điểm này. Tòa
cung điện này quá hoàn chỉnh, tinh tế, thoạt nhìn đã biết là do
những người thợ giỏi, tay nghề điêu luyện tạo nên. Nhưng những bước
tượng băng xuất hiện dưới lòng đất sâu mấy nghìn mét như vậy quả là
ngoài sức tượng tượng, khả năng duy nhất đó là hằng ngày đều có
người sửa sang tu chỉnh chúng. Những người làm nên cung điện băng này
từ bấy đến giờ vẫn chưa chết, họ sống trong thế giới dưới lòng
đất, hằng ngày giữ cho tòa cung điện này thật hoàn mỹ, không để xây
xước mảy may nào.
Đó là cách giải thích duy nhất đối với việc những bức điêu khắc
bằng băng này. Nghĩ đến điểm này, toàn thân Vương Uy toát mồ hôi
lạnh, những người thợ từ hơn một nghìn năm trước vẫn sống đến ngày
nay, hằng ngày tu sửa cho những bức tượng băng, chuyện này quả là
quái gở. Trước đây gặp phải ba tên lính mặc quân phục màu vàng trong
hẻm núi lớn, anh đã cảm thấy quải gở lắm rồi, sau đấy lại đụng độ
mấy lần, anh vẫn không xác định được đó là người hay ma, thắc mắc
này vẫn đeo đẳng trong anh suốt dọc đường. Vậy mà thứ lần này gặp phải
lại càng quái lạ hơn, những pho tượng băng này không thể giải thích
bằng lý lẽ thông thường được.
Hai người nhìn hồi lâu, không thấy trong thú trận có gì khác, bèn
tuột xuống theo sợi dây thừng. Nhị Rỗ nghiêng người, dùng chân gỡ sợi
dây thừng đang quấn vào chân con thú ra, Vương Uy soi đuốc cho gã, Nhị
Rỗ vừa gỡ vừa chăm chú quan sát.
Vừa gỡ được sợi dây thừng ra, bỗng Nhị Rỗ mở to mắt, nhìn chằm
chằm vào lưng con thú, Vương Uy cũng nhận ra sự khác thường của Nhị
Rỗ, liền cúi xuống nhìn, phát hiện ra dưới lưng con thú có một khối
đen đen.
Vật ấy nằm sâu dưới lớp băng, vì lớp băng quá dày nên không biết
vật đó nằm sâu bao nhiêu, cũng không thấy rõ được hình dạng. Vương Uy
bỗng thấy tình cảnh này hệt như lúc họ phát hiện cỗ quan tài trong
suốt trong rừng ở Xương Đô, chẳng nhẽ bên trong có người chết?
Nhị Rỗ nói:
- Thưa chỉ huy, có thể đây là một manh mối, chúng ta tìm cách lấy
ra xem, nói không chừng lại là một xác chết từ nghìn năm nay đấy?
Vương Uy gật đầu. Nhưng nói thì dễ, muốn phá lớp băng dày mấy
mét thế này thì chẳng phải chuyện đơn giản, dùng báng súng đập thì
chỉ vỡ ra một ít vụn băng, không có tác dụng gì.
Cái chân khổng lồ của con thú thụt xuống hố, mặt đất liền vang
lên tiếng lách cách, ba người đang ra sức đập, chợt Nhị Rỗ ngoảnh
lại nhìn, vội kêu lên kinh hãi, thì ra con thú bằng băng kia đã lung
lay sắp đổ.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lập tức lăn ngay sang một bên, Nhị Rỗ
nhanh chân hơn, đã chạy tuốt ra đến cửa điện, Vương Uy và Dương Hoài
Ngọc tức tốc vùng dậy, không dám ngoảnh nhìn, cứ thế cắm đầu chạy
ra ngoài theo Nhị Rỗ.
Bấy giờ, trong đại điện vang lên tiếng nổ đinh tai nhức óc, cả
tòa cung điện bắt đầu rung lên, khối băng trên đỉnh trần ầm ầm rơi
xuống, khiến ba người hốt hoảng chạy khỏi cung điện.
Nhị Rỗ vừa chạy vừa ngoảnh lại nhìn, thấy tảng băng to như tảng
đá lớn rơi xuống, đập vào nền đất cứng làm lủng một hố sâu, vụn
băng bắn tung tóe, vô cùng kinh hãi. Nhị Rỗ chạy cuối cùng, trước
mặt sau lưng đều nghe thấy tiếng gió phần phật do những tảng băng rơi
xuống tạo nên, gã kinh hãi cắm đầu chạy, gai ốc nổi cùng mình.
Ba người ra khỏi cung điện băng, thì mọi chấn động trong đại điện
cũng ngừng lại, chỉ còn tiếng những tảng băng nhỏ rơi lách cách.
Những bức tường băng ở đây đều kiên cố vô cùng, hơn nữa kết cấu của
tòa cung điện băng rất lạ, nó có một mái nhà hình chóp đứng, sức
nặng của lớp băng dày trên mái có thể thông qua mặt băng phân tán đều
cho mấy bức tường băng. Cho nên toàn bộ tòa cung điện lúc gặp phải
lực xung kích có thể phân tán đến những bề mặt khác nhau rồi truyền
đến tường băng, nhờ vậy, cả cung điện luôn luôn vững như bàn thạch.
Lúc Vương Uy leo lên lưng con dã thú, anh đã đứng trên cao quan sát
kỹ toàn bộ mái vòm cung điện. Bấy giờ anh rất lấy làm lạ, không
hiểu sao tòa cung điện băng này lại xây mái vòm như thế này, nhưng
hiện giờ anh đã hiểu nguyên do. Tòa cung điện này nằm dưới lòng đất
cả nghìn mét, nếu không có kết cấu chống chấn động như thế này,
hẳn quá nửa cung điện đã bị nát vụn vì địa hình biến đổi rồi.
Ba người đoán chừng những khối băng trên mái cung điện đã rơi
xuống gần hết, bèn quay lại vào bên trong. Lúc này, cả cung điện băng
hoàn mỹ đã bị con thú băng kia đổ xuống đè cho gãy vỡ ngổn ngang cả
lên, chỗ nào cũng thấy mảnh băng và vụn băng, thú trận bằng băng
phía sau con thú “đầu lĩnh” càng thảm hại hơn. Vì con thú đổ kềnh
về phía sau, vừa khéo ngã đổ lên thú trận, con thú băng kềnh càng
nhường ấy đổ xuống, đè nát toàn bộ thú trận, không còn nổi một pho
tượng nào nguyên vẹn.
Nhị Rỗ tiếc rẻ lắc đầu, nói:
- Đẹp thế mà bị vỡ. Tiếc rằng không phải vàng ngọc gì, nếu
không mang ra ngoài cũng kiếm được bộn tiền.
Vương Uy bước vào cung điện, lập tức đưa mắt quét qua mọi chỗ,
xác định trên vòm cung điện không còn băng rơi xuống nữa, xung quanh
cũng đã an toàn, mới gọi Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc lại.
Hai người kia hiểu ý, cùng đến trước đống băng vỡ của con thú.
Nửa thân con thú khổng lồ nằm đè lên thú trận, đầu, cổ, toàn thân
đều vỡ thành mấy mảnh. Cả thú trận vỡ nát ùn lại như một gò băng
vụn cao ngất, ba người hối hả leo lên, bắt đầu bới tìm vật đen đen
kia quanh mấy đoạn thân thể của con thú “đầu lĩnh”.
Trong đống băng đổ nát, ngoài vô số mảnh băng vụn, vẫn còn những
tảng băng to như bức tường nằm chềnh ềnh giữa đống băng vỡ, khiến
công tác dọn dẹp phát hiện trở nên rất phiền phức, bởi không có
cách nào chuyện dịch nổi những tảng băng. Vì thế thoạt đầu họ chỉ
dọn những vụn băng nhỏ xung quanh, nhưng sau một hồi thu dọn, đào bới
hết cả, vẫn không thu lượm được gì.
Ba người đứng quanh tảng băng lớn, mỗi người một cách, nhưng đập mãi
mà nó vẫn không hề suy chuyển. Trước những khối băng kiên cố lạ thường
như vậy, ho không có bất kỳ dụng cụ nào khả dĩ, cũng chẳng có nhân
lực dồi dào, muốn đập vỡ khối băng này chẳng khác gì châu chấu đá
xe.
Nhị Rỗ xua tay, nói với Vương Uy:
- Chúng ta đi vòng quanh đây xem, nói không chừng lại phát hiện thứ
gì khác, chứ vật đen đen kia sợ rằng không moi ra nổi đâu.
Vương Uy không nói gì, chỉ dùng báng súng tiểu liên của Nhị Rỗ,
thọc vào kẽ khối băng, định bẩy nó ra một chút, rồi soi đuốc nhìn
xem thứ bị chôn chặt bên dưới. Vương Uy vận sức mấy lần, tuy khối băng
vẫn đè lên lớp băng vụn, nhưng nó không hề lỏng ra như anh mong đợi
chút nào. Trái lại, những mảnh băng vụn mắc kẹt vào báng súng bỗng
nhiên vang lên âm thanh răng rắc. Ngay lúc ấy, Vương Uy chợt nghe thấy
tiếng va chạm mạnh, lòng anh bỗng trầm xuống.
Âm thanh ấy tuyệt nhiên không phải tiếng bẩy băng, băng và báng
súng chèn vào nhau sẽ phát ra âm thanh giòn tan, nhưng tiếng va chạm
này, hình như lại là tiếng do rất nhiều thứ cùng phát ra.
Vương Uy thấy hai người kia vẫn đang mải miết đập khối băng, vẻ như
không hề nghe thấy âm thanh ấy, thật vô cùng quái đản. Vương Uy không
làm kinh động bọn họ, tiếp tục cúi xuống đập băng, nhưng tai thì
dỏng lên nghe ngóng động tĩnh xung quanh.
Một lúc sau âm thanh ấy lại vang lên, hơn nữa không phải một tiếng
mà là một chuỗi, nghe như tiếng chân cả đoàn người đi trên băng vậy,
rất có tiết tấu, âm thanh lại không gần không xa, hình như ngay ở bên
ngoài cung điện vậy.
Lần này Vương Uy đã hoàn toàn xác định được, đúng là có âm thanh
lạ. Anh ngước nhìn Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc, thấy hai người kia
cũng đang sững sờ nhìn mình, liền hiểu ra ngay, mọi người đều nghe
thấy âm thanh ấy.
Ba người vội vàng súng, chạy ra ngoài cung điện. Lúc chui vào
bụng bức tượng đất họ đã trông thấy rất rõ, cách duy nhất để vào
đây chỉ có thể là bay từ trên không vào, pho tượng đất này có hai
tay, không biết trên lòng bàn tay kia có chim sắt hay không nữa. Nhưng
lúc tiến vào họ thấy trên mặt đất có một lớp bụi phủ dày, những
xác chết cứng đơ nằm kia hình như cũng không có ai đụng vào, hẳn đã
lâu lắm rồi không có người vào đây. Cho nên rất ít khả năng lúc họ
bay vào bụng pho tượng, cũng có người cùng bay vào theo.
Phạm vi chiếu sáng của ba bó đuốc khá rộng, ba người chạy ra
khỏi cung điện, chỉ thấy bên ngoài băng hoa đầy cây, những đóa hoa lung
linh tinh xảo, cùng con đường nhỏ thăm thẳm không một bóng người. Bóng
tối đè nặng, xung quanh lặng lẽ đến rợn người, chỉ cần có động
tĩnh, âm thanh sẽ được phóng đại lên nhiều lần.
Ba người chia nhau đi quanh một vòng, trong phạm vi mấy trăm mét có
hơn một chục tòa cung điện nguy nga như vậy, cùng những con thú bằng
băng giống hệt nhau nằm ở đủ mọi góc trong thế giới dưới lòng đất
này. Bên ngoài băng cung còn có tường băng bao bọc, tất cả trông như
một khuôn viên lớn, cây băng chạm hoa, đường mòn quanh co, gần như một
hoa viên hoàn mỹ, nhìn khung cảnh bên ngoài cung điện tự cảnh chùa
chiền Tây Tạng vậy.
Nhưng người đi trong đó lại có cảm giác rất ngột ngạt, mọi thứ
trong khuôn viên được chạm khắc vô cùng tinh xảo bị bóng tối nặng nề
bao phủ, tạo cảm giác không thoải mái, tưởng như sắp có vật gì từ
trong bóng tối chồm ra.
Ba người đi một vòng, xem xét hết các ngóc ngách trong khuôn viên
nhưng chẳng hề thấy dấu vết người sống. Họ lại quay về Thần Thú
đại điện, việc cần kíp nhất trước mắt là phải đào bằng được vật
đen đen trong lớp băng lên đã.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc vội chạy tới đỡ Vương Uy dậy,
Vương Uy vẫn chưa hoàn hồn, tay chân cứng đơ, hai người kia cố
mãi vẫn không đỡ được anh lên. Vừa gắng gượng đứng dậy, chân
đã chuội đi, không giữ nổi mình.
Nhị Rỗ hoảng hốt bảo Dương Hoài Ngọc:
- Hỏng rồi, e rằng xương cốt trên mình chỉ huy đã gãy hết,
ở đây thứ nhất không có trạm cứu thương, thứ hai là chỉ anh Uy
mới biết bó xương, có khi anh ấy thành ra tàn phế mất.
Nhị Rỗ gật đầu lia lịa, hai người bèn để Vương Uy nằm ngay
ngắn trên mặt đất rồi sờ nắn chân anh, xác định xem bị gãy
chỗ nào.
Vương Uy không nói nên lời, chỉ biết giương mắt nhìn hai người sờ sẫm mình như thầy bói xem voi. Thật ra anh chỉ là bị nén
khí trong ngực, không xuôi đi được, nên cả người nghẹn tắc, đành giương mắt ra đó.
Nhị Rỗ sờ nắn một lúc không thấy có chỗ nào bất thường,
nhất thời cũng lúng túng chẳng biết Vương Uy bị thương ra sao.
Trong lúc bối rối, gã liền cuống quýt cầu trời khấn Phật, từ Quan Thế m Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát, Khách Ba Bồ tát đủ cả. Vương Uy chỉ biết mở trừng mắt ra nhìn, tay chân mỗi lúc
một cứng hơn.
Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy có vẻ khác thường, liền vỗ
mạnh vào ngực anh một cái, vuốt xuôi khí nghẹn trong ngực. Vừa mở miệng, anh lập tức chửi toáng lên:
Vương Uy cũng cho ngón tay vào, quả nhiên sờ thấy vách trong
của bầu chuông có một đường rãnh chìm, khe rãnh rất hẹp, xem
ra những lá đồng bịt kín các lỗ vuông kia cũng rất mỏng.
Nhị Rỗ kiểm tra từ đầu xuống chân cái xác lính nhà Thanh,
không thấy có một lá đồng nào, gã vẫn chưa tin, lại tìm từ dưới lên trên một lần nữa, cởi hết quần áo, vẫn không thấy gì.
Vương Uy nói:
- Cái chuông Kim Cương quái gở như thế, những lá đồng bịt kín lỗ
vuông kia lại mới là quan trọng, xem ra chưa hẳn đã dễ tìm đâu, phải mất công một chút.
Nhị Rỗ hoang mang gật đầu, Vương Uy nói nghe rất có lý, nhưng lúc này không tìm ra đầu mối, thì dù có nói lý đến đâu cũng bằng không.
Đúng lúc ấy, bên ngoài đống đổ nát của cung điện băng lại vang lên
một loạt tiếng chân người. Lần này không chỉ có vài tiếng chân lẻ tẻ đơn điệu mà rầm rập hết trận này tới trận khác, nghe như một đại đội đang
hành quân vậy, hơn nữa bước đi còn rất có trật tự, chỉ nghe cũng có thể
biết đó là quân chính quy.
Ba người nhìn nhau, lần này thì thật rồi, tiếng chân này từ trong
khuôn viên băng vọng ra, hơn nữa còn vang hơn lần trước, nghe thật hơn
nhiều.
Cả ba gần như đồng thời chạy xộc ra khuôn viên băng, ba ngọn đuốc len lỏi giữa đám cây cối bằng băng, hắt ánh vàng lên lớp băng long lanh
trông vô cùng đẹp mắt.
Tiếng bước chân nghe như gần ngay trước mắt, nhưng khi ba người xộc
vào hoa viên bằng băng, lại không thấy dấu vết gì của sinh vật cả, ánh
đuốc xé toang một mảng tối, chỉ thấy những cây băng đan chéo, ngoài ra
đâu còn gì khác?
Những hàng cây bằng băng chia cắt ba người, chỉ thấy ba ngọn đuốc
chập chờn giữa bóng tối mênh mông. Có điều tiếng bước chân bí ẩn kia vẫn vang lên, nghe như ở ngay bên tai nhưng mọi nơi mà ánh đuốc chiếu đến,
lại chỉ có những tảng băng im lìm.
Nhị Rỗ và Vương Uy đứng cách nhau vài gốc cây lớn, khoảng cách giữa
đôi bên chừng hơn chục mét. Cả hai đứng dưới gốc cây băng, lắng tai nghe ngóng động tĩnh, thấy bước chân hình như vang lên ở ngay dưới gốc cây,
nhưng Nhị Rỗ soi đuốc xuống nhìn lại chỉ thấy mặt băng dày cộp và gốc
cây băng cắm sâu xuống mặt băng, chẳng hề có gì khác.
Nhị Rỗ vốn là kẻ táo bạo, mười mấy năm đánh trận giết không biết bao
nhiêu người mà kể, đừng nói gì đến quỷ, ngay cả thần tiên gã cũng chẳng
coi vào đâu, vậy mà bây giờ cũng thấy nơm nớp. Nghe tiếng bước chân rầm
rập cứ dội vào tai, Nhị Rỗ vã cả mồ hôi trán, những giọt mồ hôi to như
hạt đậu, vừa nhỏ xuống đất đã đóng thành băng, lòng gã càng thêm kinh
hãi. Vương Uy cũng căng thẳng chẳng kém, bên trái anh là Nhị Rỗ, bên
phải là Dương Hoài Ngọc, ba người đứng cách nhau không xa lắm, tiếng
bước chân hình như ở ngay trước mặt, nhưng anh tìm mãi cũng không thấy
được là do thứ gì phát ra.
Vương Uy soi đuốc vào mấy cái cây quanh đấy, nhưng không thấy bất cứ
thứ gì. Anh chợt nhớ lại dạo ở Xuyên Trung, từng nghe được chuyện “ma
hành quân” lưu truyền trong dân chúng. Hồi ấy đơn vị anh đóng quân ở một làng, đó là giai đoạn hỗn quan hỗn quân, quân phiệt đấu đá lẫn nhau,
rất nhiều thanh niên trai tráng trong làng đều bị bắt vào lính, không
quá ba tháng đã trở thành bia đỡ đạn.
Trước đấy ít lâu, một trận đánh ác liệt vừa diễn ra ở thung lũng đối
diện với làng, nửa thung lũng bị đạn pháo tàn phá. Trận ấy là quân chủ
lực của Lưu Tương đánh nhau với quân tinh nhuệ của Dương Sâm, quân số cả hai bên đều rất đông, nói ra cũng thật kỳ lạ, trong trận đó, cả hai bên gần như đều bị tiêu diệt hoàn quân, chẳng còn mấy người sống sót.
Hồi ấy Vương Uy chỉ là một đại đội phó trong một đơn vị tinh nhuệ
dưới cờ của Lưu Văn Huy mà thôi, cả đơn vị anh được cử đến chiến trường
để điều tra nguyên nhân toàn quân bị tiêu diệt, nhưng điều tra mãi mà
vẫn không tìm ra nguyên nhân.
Ngôi làng mà họ đóng quân không còn tráng đinh, chỉ có ông già và bà
lão. Lúc đó đang độ gió thu thổi rát, người già trong làng đều phải
chuẩn bị củi cho mùa đông, ra khỏi làng phải băng qua mấy ngọn núi, qua
cả thung lũng nơi diễn ra trận đánh. Nghe nói có mấy ông già kết bạn với nhau, lúc gùi củi đi ngang qua thung lũng ấy, còn nghe thấy tiếng súng
nổ đì đùng cùng tiếng lính chạy rầm rập bên trong, hệt như đang đánh
nhau.
Khi mấy ông già về ngang qua đó thì trời đã tối, thình lình nghe thấy tiếng súng và tiếng quân lính chạy, họ sợ đến nỗi ngồi phệt xuống đất,
vỡ cả mật.
Hôm sau, đại đội của Vương Uy vào thung lũng, gặp ngay mấy ông già sợ quá đâm ra ngớ ngẩn kia, có một ông lão vẫn còn chút tỉnh táo, bèn kể
lại mọi chuyện, khiến đám lính kỳ cựu dạn dày lửa đạn nghe mà toát mồ
hôi lạnh. Ông ta kể rằng hiện tượng đó gọi là “ma hành quân”, thung lũng đó thời xưa gọi là thung lũng ma. Nghe người xưa kể lại, vào thời Tam
Quốc, nước Ngụy đánh nhau với nước Thục, năm vạn người ngựa quân Thục bị quân Ngụy bao vây tiêu diệt trong thung lũng, không ai sống sót, từ đấy về sau hễ đêm đêm đi qua thung lũng này luôn nghe thấy tiếng người ngựa chạy rầm rập.
Chuyện hai cánh quân đánh nhau đến nỗi chết sạch không còn một mống
vốn rất quái gở, quá nửa là có liên quan đến chuyện “ma hành quân” trong thung lũng này. Đám binh lính năm xưa vùi xác trong thung lũng, chết
rồi vẫn ở lại đấy, đêm đêm kêu gào chém giết. Trước đây có người nghe
thấy “ma hành quân”, phần lớn là nghe thấy tiếng người gào thét bằng
giọng Ba Thục cùng tiếng gươm đao chan chát, ngựa hí vang trời, nhưng
sau trận đánh lần ấy tiếng súng đã át cả tiếng gươm đao, quả nhiên thung lũng lại có thêm ma mới.
Đại đội trưởng của Vương Uy là người thô lỗ, đời nào chịu tin những
chuyện quỷ thần của ông lão, ngay đêm hôm ấy lệnh cho lính hạ trại nơi
đầu núi, đồng thời giữ mấy ông già lại trong doanh trại. Anh ta huênh
hoang rằng, nếu không nghe thấy tiếng “ma hành quân” sẽ bắn họ tại trận.
Trời tối dần, mãi đến khi mây đen che kín cả mặt trăng, trong thung lũng
không còn bất cứ động tĩnh gì. Đại đội trưởng cũng ngáp ngắn ngáp dài đi ngủ, trên đầu núi chỉ còn mấy tên lính gác. Đến nửa đêm, nghe mấy tên
lính gác đánh thức, mọi người mới vùng dậy, đầu óc ong cả lên. Chỉ nghe
trong thung lũng ầm ầm vẳng ra tiếng súng vang trời dậy đất cùng tiếng
kếu gào chém giết, hệt như đang ở giữa chiến trường vậy.
Đại đội trưởng của Vương Uy mồ hôi đẫm trán, nhưng anh ta vốn là
người cứng rắn, trước tình cảnh kinh khủng này mà vẫn vững vàng, còn hô
hào cả đám binh lính đang run đến nỗi không đi nổi kia xông vào thung
lũng. Quả nhiên bên trong đó rất khác thường, quá nửa đêm mà sương mù
nổi lên dày đặc, họ dò dẫm tìm kiếm trong sương mù hồi lâu, nhưng chẳng
tìm thấy một bóng ma nào, chỉ có tiếng súng vẫn nổ y như thật.
Lúc bấy giờ Vương Uy được gọi lên ban chỉ huy đơn vị, cùng lữ đoàn
trưởng phân tích địa hình xung quanh, chuẩn bị chặn đánh quân chi viện
của Dương Sâm, nên không tham dự chuyến đi trinh sát lần ấy. Đầu đuôi sự việc sau đấy anh chỉ được nghe kẻ lại.
Chưa đến ba ngày sau, đại đội trưởng ốm liệt giường, một người vạm
vỡ, cao hơn một mét tám mươi lúc này gầy xọp đi, chỉ dám trốn trong
buồng tối, không thể trông thấy ánh sáng. Chưa đầy một tháng sau, viên
đại đội trưởng và mấy ông già kia đều chết.
Chuyện này vô cùng quái gở, quân lính Tứ Xuyên thời ấy không ai không biết, đến nỗi mấy lần cấp trên ra lệnh không được lan
truyền chuyện này trong quân, kẻ nào vi phạm sẽ bị xử bắn.
Vương Uy nhớ lại, cảm thấy tình cảnh lần này chẳng khác gì chuyện “ma hành quân” mà đại đội anh gặp phải năm xưa, bất
giác trán đổ mồ hôi lạnh. Lúc viên đại đội trưởng chết Vương
Uy cũng đến thăm, thấy toàn thân anh ta chỉ còn da bọc xương,
sắc mặt nhợt nhạt, đôi mắt đầy tia máu, mí mắt xanh lè, hết
sức kỳ dị.
Lũ rắn đen trườn lên tụ tập lại một chỗ, chỉ một lúc sau
trên mặt băng đã có một bầy rắn đông nghìn nghịt tụ lại, không biết bắt đầu từ đâu, chấm dứt ở đâu nữa. E rằng đây là lần
đầu tiên trong đời ba người được thấy nhiều rắn đến thế.
Đám rắn từ từ tập kết xong, trong lớp băng vụn vẫn còn lẻ
tẻ rắn đen bò lên, tập trung lại. Đám rắn phát ra những tiếng
rào rào, tiếp theo chúng tức tốc bò vào sâu trong rừng băng,
tiếng bò của bầy rắn nghe hệt như tiếng cả đám người nện gót chân. Thì ra cái gọi là “ma hành quân” chính là do lũ rắn đen
này phát ra khi di động dưới lớp băng.
Lũ rắn bò rất lộn xộn, những con rắn khác nhau bò với tốc độ khác nhau, chúng kết thành từng nhóm vài ba con trườn lên
lớp băng, trông rối rắm vô cùng.
Nhị Rỗ hỏi:
- Thưa chỉ huy, phải làm thế nào bây giờ?
Vương Uy tỏ ra bình tĩnh khác thường:
- Chúng ta đi theo xem, giữa vùng băng tuyết thế này tự nhiên
có một lũ rắn xuất hiện, nhất định là chuyện không đơn giản.
Ba người bám theo lũ rắn không gần không xa, cách chúng chừng mươi
mét. Lũ rắn không tỏ ra thù địch đối với họ, ai biết phận nấy, chúng
trườn rào rào trên mặt băng, tốc độ rất nhanh, vì mặt băng trơn, ba
người vừa phải giữ thăng bằng lại phải theo kịp tốc độ bầy rắn, nên đi
rất vất vả.
Nhị Rỗ đi ngang hàng với Vương Uy, vừa thở vừa nói:
- Mẹ kiếp, lũ rắn này đang đùa với chúng ta đấy à? Tại sao chúng đi mỗi lúc một nhanh thế?
- Không ổn rồi, tôi thấy sự bố trí của lũ rắn giống hết như trận thế
trong bức tranh trên bàn tay bức tượng, chuyện này quả là kỳ lạ.
Nghe Nhị Rỗ nói, trong đầu Vương Uy bỗng hiện lên những nét khắc trên bầu chuông Kim Cương, phải chăng bí mật bên trong chuyện này đều đúng
như suy đoán? Anh căng mắt quan sát một lúc, nhưng chỉ thấy lũ rắn bò
lộn xộn, chẳng hề thấy trận thế trong tranh vẽ mà Nhị Rỗ nói đâu cả.
Nhị Rỗ nhận ra vẻ nghi ngờ của Vương Uy, liền giải thích:
- Chỉ huy, không phải nhìn như thế, chỉ huy nhìn mười hai con rắn gần chỉ huy nhất kia kìa, nhìn cách chúng sắp xếp mà xem.
Vương Uy nhìn theo tay Nhị Rỗ chỉ, quả nhiên nhận ra mấu chốt trong
đó. Hơn nữa, cả đàn rắn lớn là do nhiều đàn rắn nhỏ như thế hợp lại
thành, bố cục di chuyển của các đàn rắn nhỏ đều giống hệt cách sắp xếp
những đường nét trong bức vẽ trên bàn tay tượng đất.Vương Uy vừa hiểu
ra, lòng lại nảy mối nghi ngờ. Lũ rắn kỳ lạ này từ dưới lớp băng chui
lên, có rất nhiều điểm đáng ngờ, đầu tiên là chúng có thể hành động
thoăn thoắt như bay trong vùng băng tuyết bên dưới lòng đất này, hơn
nữa, đội hình di động của chúng lại kỳ quặc như vậy, nếu nói là bẩm sinh chúng đã như thế thì dù có đánh Vương Uy cũng không tin, nhất định có
vấn đề gì ở đây rồi.
Ba người đi theo lũ rắn chừng một dặm, bỗng trước mắt họ xuất hiện
một cung điện băng to lớn, bức hoành phi trước điện để trắng, không có
một dòng chữ nào. Lũ rắn ào ào chui vào cung điện, tuy cổng cung điện
rộng lớn nhưng cũng không đủ chỗ cho từng ấy rắn len vào, nhất thời, lũ
rắn chen chúc lẫn nhau, xếp chồng lên cao đến hơn một mét, không ít con
bị đè ở dưới.
Tất nhiên ba người không thể chen chúc vào cùng lũ rắn, họ vẫn giữ
khoảng cách mười mấy mét quan sát chúng bò vào cung điện. Lúc bầy rắn
đen chuyển động, miệng chúng há ra rồi khép lại, lưỡi thè ra rụt
vào, đôi mắt đỏ rực đầy tà khí, bộ mặt hung dữ vô cùng, ai
trông thấy cũng không rét mà run.
Ba người đều trưởng thành trong cảnh chém giết, nên tuy đã
sợ khiếp vía, nhưng vẫn có thể gắng trấn tĩnh, chăm chú quan
sát lũ rắn hoạt động, chờ thời cơ tiến vào cung điện.
Họ đứng chờ ở cửa nửa tiếng đồng hồ đám rắn kia mới tản
đi hết. Nhị Rỗ sốt ruột, liền rảo bước đi theo chúng, vào đến trước cửa cung. Không ngờ mặt băng trước cửa điện chợt nứt ra
một đường, Nhị Rỗ ngớ ra, chỉ thấy mặt băng vỡ làm đôi theo
đường nứt kia, từ trong đó một con rắn đen to bằng cổ tay vọt
ra.
- Đúng là báu vật, chúng ta phải nghĩ cách thoát ra, cái
này chắc sẽ bán được khối tiền ấy, nửa cuộc đời còn lại
của chúng ta không phải lo lắng nữa rồi, khỏi cần đi lính kiếm cơm.
Vương Uy hiểu cuộc sinh tử này đã không còn đường lùi nữa,
nếu muốn sống sót thoát khỏi đây, họ phải xông lên, đập tan bí mật của thế giới dưới lòng đất, nếu không chỉ có thể bỏ
mạng tại nơi tối tăm không thấy ánh mặt trời này mà thôi.
Anh nói với Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:
- Bấy nhiêu rắn đen chui vào trong cung điện băng này, chắc
chắn nơi đây có ẩn giấu huyền cơ, mọi người phải cẩn thận, đi
gần bên nhau, không được phân tán. Nhị Rỗ liệu mà giữ lấy
chuông Kim Cương cho cẩn thận, sinh mệnh ba chúng ta e rằng phải
phụ thuộc cả vào nó đấy.
Nhị Rỗ gật đầu lia lịa, nhưng vẻ mặt lại đầy lo lắng, rõ
ràng vẫn còn kinh hoàng về chuyện rắn quấn vừa rồi, Nhị Rỗ
chưa được chứng kiến con rắn đen sợ chuông Kim Cương ra sao, nên
trong lòng vẫn thấp thỏm không yên.
Vương Uy đưa mắt ra hiệu cho hai người, rồi xăm xăm bước vào
điện trước, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc bám sát theo sau, một
người cầm súng tiểu liên cỡ nhỏ, một người cầm chuông Kim
Cương, lòng bàn tay đều đẫm mồ hôi.
Ba bó đuốc sáng đồng thời xông vào. Cung điện băng trống
không, trong vòng mười mấy mét vuông, không thấy bóng dáng con
rắn nào cả, chỉ cảm thấy bóng tối mênh mông cùng bao điều
rùng rợn rập rình bên ngoài phạm vi ánh đuốc.
Ba người đi sâu vào hơn một trăm mét mới nhìn thấy chính giữa cung
điện đầy những tháp băng san sát chen nhau. Những tháp băng này chỉ cách nhau chừng hơn chục mét, trong phạm vi ánh đuốc có thể rọi đến, có tới
ba tòa tháp. Nhị Rỗ đi ra phía ngoài chừng hơn chục mét lại thấy thêm
một số tháp nữa.
Những tháp băng này chiếm khoảng hơn chục mét vuông diện
tích, cao mấy chục mét trở lên, đứng trên mặt băng không thể
trông thấy đỉnh tháp. Diện tích băng cung này lớn hơn Thần Thú
đại điện nhiều, thật không đếm nổi có bao nhiêu tháp băng nữa.
Nhị Rỗ đi sang ngang hơn hai trăm mét nhưng vẫn không thấy đâu là
tận cùng.
Vương Uy chăm chú quan sát tòa tháp băng nằm chính giữa cung
điện, phát hiện tháp băng này khác hẳn với những tháp băng
còn lại trong khuôn viên băng. Gần như tất cả những gì có trong
khuôn viên băng đều được chạm trổ vô cùng hoàn mỹ, không mảy may khiếm khuyết, không một nét sai sót, giữa các rãnh khắc không
có lấy một mảnh băng vụn. Nhưng những cái tháp này hình như
không phải do bàn tay con người tạo nên. Xem ra chúng giống như
những nhũ băng từ dưới đất nhô lên, trên thân nhũ băng đâu đâu
cũng mang dấu ấn hình thành tự nhiên, không có vết dao khắc,
cũng không có dấu vết chạm trổ, nhưng hình dáng cái nào cái
nấy trông hệt những tòa băng tháp đủ hình đủ vẻ, không chệch
đi đâu được.
- Chỉ huy này, sao không thấy rắn nhỉ? Hay là chúng chui xuống dưới lớp băng rồi?
Vương Uy cũng không có cách nào trả lời được, anh dùng báng
súng gõ vào mái hiên một tòa tháp, lập tức trong cung điện
vang lên những tiếng vọng lanh canh, nhưng bên trong tháp không có
động tĩnh gì.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng bắt chước theo, gõ vào
những cái tháp bên cạnh khắp một lượt, trong cung điện lao xao
tiếng vọng nhưng những ngọn tháp vẫn im lìm như cũ, không hề
thấy cảnh tượng lũ rắn nhào nhào lên như họ mong đợi.
Cả ba đều lấy làm lạ theo họ suy đoán thì những tòa tháp
kia là chỗ ẩn náu của lũ rắn, hóa ra lại không phải.
Vương Uy bảo Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc từ hai bên vòng sang,
còn mình thì đi thẳng vào rừng tháp, chừng uống cạn chén
trà, ba người đã lùng sục khắp lượt cung điện. Tòa cung điện
này dài rộng có đến mấy trăm mét, vách băng tường băng vây
quanh đều sừng sững nguy nga, cao không thấy đỉnh, người đứng bên trong có cảm giác rất nhỏ bé, tưởng như bất cứ lúc nào cũng có thể bị cung điện khổng lồ này nuốt chửng.
Ba người càng tìm càng thấy lạ, nền băng, tường băng, tháp
băng trong cung điện đều không thấy bóng dáng lũ rắn đen đâu cả. Hơn nữa, những công trình bằng băng ở đây không hề có dấu vết
hư hại, lũ rắn không thể lẩn trốn nhanh đến thế được, vậy tại sao cả đàn rắn đông như vậy lại không cánh mà bay?
Cả ba đi vào đến giữa rừng tháp, nhất thời lại quay sang
nhìn nhau. Hàng nghìn hàng vạn con rắn chỉ trong nháy mắt đã
biến mất không tăm tích. Vương Uy càng nghĩ càng lấy làm lạ,
bèn leo lên tháp băng, trèo tít lên tận đỉnh tháp, đoạn giương
đuốc xuống nhìn chung quanh. Đứng trên đỉnh tháp cao hơn hai chục mét có thể trông rõ những ngọn tháp băng gần đó cùng mặt
đất bên dưới, xung quanh chỉ có sự yên tĩnh đầy trống trãi,
rừng tháp dưới ánh đuốc lung linh dập dờn, ánh vàng ánh đỏ
đan xen vào nhau lấp loáng, đâu thấy bóng đen nào.