“Nếu địa ngục trông giống thế này,” Matthew lầm bầm, nóimộttuần sau cuộc đối đầu với Hubbard, “thìGallowglass sẽthất vọng lắm đấy.”
sựthậtthìchỉ có ít lửa và lưu huỳnh cùng côphù thủy mười bốn tuổi đangđứng trước mặt chúng tôi thôi.
“Suỵt,” tôi nói, mộtđứa trẻ nhạy cảm ở tuổi đó có thể rất tò mò. “Cha Hubbard có giải thích cho cháu tại sao cháu ở đây không, Annie?”
“Có thưa bà,” Annie khổ sở đáp. thậtkhó mà nóiđược là phòng khách của côgáinày là kết quả từ những sắc màu tự nhiên của côấy hay đó là sựkết hợp giữa nỗi sợ hãi và sựthiếu dinh dưỡng. “Cháu sẽphục vụ và tháp tùng bà đitrong thành phố khi bà có việc.”
“không, đó khôngphải thỏa thuận của chúng tôi,” Matthew mất kiên nhẫn nói, đôi ủng của anhnặng nề giậm xuống sàn gỗ. Annie ngần ngại. “côcó sức mạnh hay kiến thức nào để lý giải không, hay Hubbard đangđùa giỡn hả?”
“Cháu có rất ít kỹ năng,” Annie lắp bắp, đôi mắt xanh nhạt của côbé tương phản với làn da trắng bệch. “Nhưng cháu cần mộtchỗ, và Cha Hubbard nói…”
“Ồ, ta có thể tưởng tượng được Cha Hubbard đãnóigì,” Matthew khịt mũi khinh khỉnh. Ánh nhìn tôi tặng cho anhchứa đủ ý cảnh cáo khiến anhchớp mắt rồi im lặng.
“Hãy cho côbé mộtcơ hội giải thích,” tôi lạnh lùng bảo anhtrước khi tặng cho côgáimộtnụ cười khích lệ. “Tiếp đi, Annie.”
“Để phục vụ bà, Cha Hubbard bảo cháu sẽđưa bà đến chỗ dì cháu khi dì ấy trở về London. Dì ấy hiệnđangbên mộtngười ở cữ và từ chối rời khỏi trong khi người phụ nữ đó vẫn cần dì.”
“Dì của cháu là mộtbà đỡ đồng thời là phù thủy à?” Tôi nhẹnhàng hỏi.
“Vâng, thưa bà. mộtbà đỡ tốt và mộtphù thủy quyền năng,” Annie nóimộtcách đầy tự hào, vươn thẳng sống lưng. Khi côbé làm thế, chiếc váy quá ngắn để lộ mắt cá chân trần của côbé trong thời tiết lạnh giá. Andrew Hubbard cho các con trai ông ta mặc diện và ấm áp, nhưng các con gáithìchẳng nhận được sựquan tâm như thế. Tôi làm dịu sựkhó chịu của mình. Françoise sẽphải tạm gác việc khâu vá của côấy lại rồi.
“Và làm sao cháu lại gia nhập vào gia đình của Cha Hubbard thế?”
“Mẹ cháu khôngphải là mộtphụ nữ đức hạnh,” Annie lí nhí nói, vặn vẹo hai bàn tay trong chiếc áo khoác mỏng dính. “Cha Hubbard tìm thấy cháu trong hầm mộ của nhà thờ Thánh Anne gần Aldersgate, mẹ cháu chết bên cạnh cháu. Dì cháu lúc đó vừa mới kết hôn và đãnhanh chóng có những đứa con của dì. Cháu đãsáu tuổi. Chồng của dì khôngmuốn cháu được nuôi dưỡng cùng các con trai của ông ấy vì sợ cháu sẽlàm họ hư hỏng bằng sựđộc ác của cháu.”
Vậy Annie, giờ là mộtthiếu nữ, đãở cùng Hubbard hơn mộtnửa cuộc đời rồi. Ý nghĩ ấy thậtớn lạnh, và cái ý tưởng mộtđứa trẻ sáu tuổi có thể làm hư hỏng mộtngười nào đấy lại càng khônghiểu nổi, nhưng câu chuyện này lý giải cả vẻ khốn khổ của côbé lẫn cái tên kỳ dị của côgái: Annie Hầm Mộ.
“Trong khi Françoise lấy cho cháu thứ gì đó để ăn, côcó thể chỉ cho cháu chỗ ngủ nhé.” Tôi đãlên tầng ba sáng hôm đó để kiểm tra chiếc giường nhỏ, chiếc ghế đẩu ba chân, và cái tủ búp phê đãcũ mòn được đặt mộtbên để chứa đồ tùy thân cho côphù thủy này. “côsẽgiúp cháu mang đồ đạc.”
“Thưa bà?” Annie bối rối thốt lên.
“côbé khôngmang gì cả,” Françoise nói, ném mộtánh mắt khôngđồng tình về phía thành viên mới nhất trong nhà.
“khôngsao. côbé sẽcó đủ đồ dùng sớm thôi.” Tôi mỉm cười với Annie, côbé trông có vẻ bất an.
Françoise và tôi dành mấy ngày cuối tuần để đảm bảo Annie sạch sẽnhư mộtcây sáo, được ăn mặc và đigiày đàng hoàng, và để côbé có đủ kiến thức toán học cơ bản nhằm thực hiệnvài việc mua bán nho nhỏcho tôi. Để kiểm tra, tôi cử côbé tới hiệu pha chế dược gần nhà để mua vài cây bút lông giá khoảng mộtxu và nửa bảng mua xi gắn thư (Philippe đãđúng: Matthew dùng vật phẩm văn phòng với tốc độ kinh hoàng), và côbé trở lại ngay lập tức với tiền thừa trả lại.
“Ông ta muốn mộtsi–linh cơ!” Annie phàn nàn. “Cái thứ sáp ấy thậm chí làm nến cũng khôngtốt, đúng không?”
Pierre đột nhiên thấy thích côgáinày, và nhận lấy nghĩa vụ gợi ra mộtnụ cười ngọt ngào hiếm hoi từ Annie mỗi khi có thể. anhta dạy côbé cách chơi dây và tình nguyện đidạo cùng côbé vào ngày Chủ Nhật khi Matthew ném ra những lời ám chỉ khá lộ liễu rằng anhmuốn chúng tôi được ở riêng trong vài giờ.
“anhta sẽkhông… lợi dụng côbé chứ?” Tôi hỏi Matthew khi anhcởi khuy những món quần áo yêuthích của tôi: chiếc áo chẽn khôngtay của con trai làm từ len đen loại tốt tôi mặc nó với chân váy và mộtchiếc áo khoác ngoài khi ở nhà.
“Pierre ư? Chúa nhân từ, không.” Matthew vẻ mặt buồn cười.
“Đó là mộtcâu hỏi bình thường thôi mà.” Mary Sidney cũng chẳng lớn hơn là mấy khi côấy kết hôn với người đặt giá cao nhất.
“Và anhđãcho em mộtcâu trả lời thành thậtcòn gì. Pierre khônglên giường với những côgáitrẻ.” Hai tay anhvẫn để yên sau khi giải phóng cái khuy áo cuối cùng. “Đây thậtlà mộtsựngạc nhiên thú vị. Em khôngmặc coóc–xê.”
“Nó khôngthoải mái, và em đangmang em bé mà.”
anhnhấc chiếc áo chẽn ra khỏi người tôi với mộtâmthanh tán thưởng.
“Và anhta sẽgiữ khôngcho những gã đàn ông khác quấy rối côbé chứ?”
“Liệu cuộc trò chuyện này có thể đợi mộtlát nữa được không?” Matthew nói, cơn bực bội của anhđangthể hiệnrõ. “Vì trời lạnh, nên bọn họ sẽkhôngđilâu đâu.”
“anhrất nôn nóng khi ở trong phòng ngủ nhé,” tôi nhận xét, trượt hai bàn tay lùa vào bên trong cổ áo sơ mi của anh.
“thậtà?” Matthew nhướng cong đôi lông mày quý tộc vẻ nhạo báng khôngtin. “Và ở đây anhnghĩ vấn đề chính là sựkiềm chế đáng ngưỡng mộ của anhđấy chứ.”
anhdành mấy tiếng đồng hồ sau đó để thể hiệncho tôi thấy sựkiên nhẫn của anhcó thể kéo dài bất tận đến thế nào trong mộtngôi nhà vắng vẻ vào mộtngày Chủ Nhật. Đến khi mọi người trở về, cả hai chúng tôi đãvui sướng mà kiệt sức và trong tâm trạng tốt hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, mọi thứ trở lại như bình thường vào ngày thứ Hai. Matthew bị làm phiền và bực dọc ngay khi những lá thư đầu tiên đến lúc bình minh, và anhđãgửi lời cáo lỗi tới nữ bá tước Pembroke khi rõràng các bổn phận của rất nhiều công việc khôngcho phép anhtháp tùng tôi tới bữa trưa.
Mary lắng nghe mà khônglấy làm ngạc nhiên khi tôi giải thích lý do sựvắng mặt của Matthew, rồi chớp mắt nhìn Annie giống như mộtcon cú hòa nhã tò mò, sau đó gửi côbé tới phòng bếp dưới sựchăm sóc của Joan. Chúng tôi chia sẻ mộtbữa trưa ngon miệng, suốt bữa ăn Mary cung cấp những báo cáo chi tiết về đời sống riêng tư của mọi người sống quanh khu Blackfriars. Tiếp đó, chúng tôi rút lui vào phòng thí nghiệm của côấy cùng với Joan và Annie làm phụ tá.
“Chồng của côthế nào rồi, Diana?” Nữ bá tước hỏi, xắn tay áo lên, hai mắt khôngrời cuốn sách trước mặt.
“Sức khỏe tốt,” tôi đáp. Đấy, tôi đãhọc được rồi, là cách nóitương đương với từ ‘Tốt’ trong thời đại Elizabeth.
“Đó là mộttin tức đáng mừng.” Mary quay lại và khuấy thứ gì đó trông có vẻ độc hại và mùi thậttệ. “Tôi sợ là điều đó phụ thuộc rất nhiều đấy. Nữ hoàng trông cậy vào anhấy nhiều hơn bất cứ người đàn ông nào trong vương quốc này ngoại trừ Đức ngài Burghley.”
“Tôi ước gì tính hài hước vui vẻ của anhấy đangtin hơn mộtchút. Matthew dạo này đồng bóng lắm. Lúc thìchiếm hữu, lúc lại phớt lờ tôi như thể tôi là mộtthứ đồ đạc nào đó ấy.”
“Đàn ông vẫn đối xử với tài sản của họ theo cách ấy.” côấy cầm lên cái bình nước.
“Tôi khôngphải tài sản của anhấy,” tôi đáp thẳng thừng.
“Điều côvà tôi biết, điều luật pháp nói, và cách bản thân Matthew cảm thấy là ba phạm trù hoàn toàn tách biệt.”
“Họ đáng lẽ khôngnên như thế,” tôi nóinhanh, sẵn sàng tranh luận về quan điểm này. Mary làm tôi nín lặng bằng mộtnụ cười dịu dàng cam chịu.
“côvà tôi đãcó được mộtkhoảng thời gian dễ dàng cùng với chồng của mình hơn những người phụ nữ khác, Diana ạ. Chúng ta có sách vở và thời gian rảnh rỗi nuông chiều cho những say mê của mình, tạ ơn Chúa. Hầu hết bọn họ khôngđược thế.” Mary cho mọi thứ trong cốc vại vào lần khuấy cuối cùng và gạt những thứ bên trong vào mộtchiếc bình thủy tinh khác.
Tôi nghĩ đến Annie: mộtngười mẹ đãchết côđộc trong hầm mộ của nhà thờ, mộtngười dì khôngthể nhận côbé bởi vì định kiến của chồng bà, mộtcuộc sống hứa hẹn rất ít thoải mái hay hy vọng. “côcó dạy cho những người hầu gáibiết đọc không?”
“Dĩ nhiên rồi,” Mary trả lời ngay lập tức. “Họ cũng học viết và cách tính toán nữa. Những kỹ năng như thế sẽkhiến họ có giá trị hơn đối với mộtngười chồng tốt – mộtngười thích kiếm tiền cũng như tiêu tiền.” Nữ bá tước gật đầu ra hiệu với Joan, người giúp côấy di chuyển trái bong bóng thủy tinh mỏng manh chứa đầy các chất hóa học tới chỗ bếp lửa.
“Rồi Annie cũng sẽhọc được thôi,” tôi nói, gật đầu với côbé. côbé ở chỗ khuất bóng, trông như hồn ma với gương mặt nhợt nhạt và mái tóc bạch kim. sựgiáo dục sẽlàm tăng lên tự tin của côbé. côbé có mộtdáng điệu dịu dàng thấy rõtrong mỗi bước đingay cả khi mặc cả với ông de Laune giá của xi gắn thư.
“Tương lai côbé sẽcó lý do để cảm ơn côvì điều đó,” Mary nói. Gương mặt nghiêm túc. “Phụ nữ chúng ta tuyệt đối chẳng có được thứ gì, ngoại trừ những lời dối trá trong tai mình. Phẩm hạnh của chúng ta trước tiên phụ thuộc vào cha mình, rồi đến chồng mình. Chúng ta chu toàn bổn phận với gia đình. Ngay cả khi chúng ta chia sẻ những ý nghĩ với người khác, đặt bút viết hay khâu mộtmũi kim, tất cả những điều chúng ta làm đều thuộc về mộtai đó. Chừng nào côbé biết ăn nóivà suy nghĩ, Annie sẽluôn sở hữu được điều gì đó là của riêng mình.”
“Giá như côlà đàn ông, Mary,” tôi lắc đầu nói. Nữ Bá tước Pembroke có thể rung lên hồi chuông thức tỉnh với hầu hết các sinh vật, bất kể giới tính của họ.
“Nếu là đàn ông, tôi sẽnhư hiệntrạng của mình bây giờ, hoặc vào chầu Nữ Hoàng Bệ Hạ trong triều như Henry, hay theo dõi các sựvụ như Matthew. Thay vì tôi ở đây trong phòng thí nghiệm của mình với cô. Cân đo đong đếm và cân bằng tất cả, tôi tin cứ như chúng ta là tốt hơn hết thảy – dù đôi khi chúng ta được đặt lên bệ tôn sùng hay sa cơ ngồi trong góc bếp.” Đôi mắt tròn của Mary long lanh tinh quái.
Tôi cười. “Có lẽ côđúng đấy.”
“côđãbao giờ vào triều chưa, côsẽkhôngnghi ngờ gì kết quả này. Đến đây nào,” Mary nói, quay trở lại với thí nghiệm của mình. “Giờ chúng ta đợi trong khi prima material bị lộ ra dưới sức nóng. Nếu chúng ta làm tốt, đây là thứ sẽsinh ra đá tạo vàng. Chúng ta có thể tiếp tục hy vọng rằng thí nghiệm sẽthành công.”
Tôi thường đánh mất khái niệm thời gian khi xung quanh chất mấy cuốn cổ thư về thuật giả kim, nên mãi khi khi Matthew và Henry đivào phòng thí nghiệm, tôi mới giật mình. Mary và tôi đãbị cuốn sâu vào cuộc nóichuyện về những hình ảnh trong bộ sưu tập những văn bản giả kim thuật được biết đến với cái tên the Pretiosa Margarita Novella – the New Pearl of Great Price. đãlà chiều muộn rồi sao?
“Chưa thể nào đến giờ điđược. Chưa đâu,” tôi phản đối. “Mary có cuốn cổ thư này…”
“Matthew biết cuốn sách này, vì anhtrai anhấy đãtặng nó cho tôi. Giờ Matthew đãcó mộtngười vợ thông thái, chắc có lẽ anhấy thấy tiếc là đãlàm thế rồi,” Mary cười nói. “Có đồ ăn uống đợi sẵn trong phòng sưởi nắng đấy. Tôi đãhy vọng được gặp hai người hôm nay.” Đến đây, Henry tặng Mary mộtcái nháy mắt bí ẩn.
“thậttử tế, Mary,” Matthew nói, hôn lên má tôi thay cho lời chào. “Thực ra hai người vẫn chưa đạt tới được giai đoạn lên men. Các vị vẫn có mùi axit sunfat và magie cacbonat.”
Tôi miễn cưỡng đặt quyển sách xuống và rửa tay trong khi Mary hoàn thành nốt những ghi chép cho ngày làm việc hôm nay. Khi chúng tôi đãan vị trong phòng sưởi nắng, Henry đãkhôngthể kiềm chế sựphấn khích của mình.
“Giờ đến lúc rồi nhỉ, Mary?” anhchàng hỏi nữ bá tước, nhấp nhổm khôngyên trênchiếc ghế của mình.
“Nhóc William cũng hào hứng với các món quà y như anhbây giờ đấy,” Mary cười đáp. “Henry và tôi có mộtmón quà nhân dịp năm mới và mừng cuộc hôn nhân của các bạn.”
Nhưng chúng tôi chẳng có gì để đáp lễ cả. Tôi nhìn sang Matthew, khôngthoải mái với sựtrao đổi mộtchiều thế này.
“anhcầu cho em gặp may mắn, Diana, nếu em hy vọng dẫn trước Mary và Henry khi liên quan đến vấn đề quà cáp,” anhảo não nói.
“Vớ vẩn,” Mary đáp. “Matthew đãcứu sống anhtrai Philip của tôi và điền sản của Henry. khôngcó món quà nào có thể đền đáp được những món nợ như thế. Đừng có phá hủy niềm vui của chúng tôi bằng cái kiểu nóichuyện ấy. Tặng quà cho những cặp vợ chồng mới cưới là mộttruyền thống, và đây lại là năm mới nữa chứ. anhđãtặng cho nữ hoàng cái gì, hả Matthew?”
“Sau khi người gửi cho Đức Vua James tội nghiệp mộtcái đồng hồ khác để nhắc nhở ông ta lặng lẽ chờ đợi mộtcơ hội tốt, tôi đãcân nhắc đến việc tặng nữ hoàng mộtchiếc đồng hồ pha lê. Tôi nghĩ nó có thể là thứ nhắc nhở hữu ích về sựsinh tử của người,” anhlạnh nhạt nói.
Henry nhìn anhkinh hãi. “không. khôngphải thậtchứ.”
“Đó là mộtý nghĩ nông nổi trong mộtthoáng vỡ mộng thôi,” Matthew tái cam đoan với anhta. “Tôi đãtặng người mộtcái cốc được phủ kín, dĩ nhiên, giống mọi người khác.”
“Đừng quên món quà của chúng ta, Henry,” Mary nói, giờ đãkhá mất kiên nhẫn rồi.
Henry kéo ra mộtcái túi nhỏbằng nhung và tặng nó cho tôi. Tôi lóng ngóng với mấy sợi dây và cuối cùng cũng lôi ra được mộtchiếc mề đay nặng trịch bằng vàng có trọng lượng tương đương với mộtsợi xích. Mặt của nó là đồ chạm lộng bằng vàng nạm những viên ruby và kim cương, mặt trăng và ngôi sao của Matthew ở vị trí trung tâm. Tôi lật cái mặt lên, thở gấp trước bức vẽ tuyệt tác trênlớp men với những đóa hoa và những cành cây leo cuộn lại. Tôi cẩn thận mở cái móc ở dưới đáy, và mộtbức tiểu họa của Matthew đangnhìn lên tôi.
“Ông Hilliard đãvẽ phác họa sơ sơ khi anhấy ở đây. Vào dịp nghỉ lễ này ông ấy bận rộn đến nỗi trợ lý Isaac của ông ấy phải giúp hoàn thành bức vẽ,” Mary giải thích.
Tôi nâng niu bức tiểu họa trong tay mình, nghiêng nó sang bên này rồi lại bên kia. Matthew được vẽ như khi anhở nhà làm việc đêm khuya trong phòng làm việc xa phòng ngủ. Chiếc áo sơ mi mở cổ và được viền đăng ten, anhđón ánh nhìn say đắm của người xem bằng mộtcái nhướng lông mày bên phải trong dáng vẻ quen thuộc kết hợp giữa sựnghiêm túc và bộ dạng hài hước châm chọc. Mái tóc đen được chải ngược từ trán ra sau trong mộtkiểu lộn xộn đặc trưng, và những ngón tay thon dài của bàn tay trái thìnắm mộtcái mặt mề đay. mộthình ảnh gợi tình và bộc trực đến kinh ngạc với thời đại này.
“côthích chứ?” Henry hỏi.
“Tôi yêunó,” tôi đáp, khôngthể ngừng nhìn chăm chăm vào kho báu mới của mình.
“Isaac khá hơn… dám đương đầu với sựsáng tạo hơn ông chủ của anhta, nhưng khi tôi bảo với anhta nó là mộtmón quà cưới, thìanhta thuyết phục tôi rằng mộtcái mặt mề đay như thế sẽlưu giữ mộtbí mật đặc biệt của người vợ và có thể tiết lộ cho người đàn ông bí mật hơn là công khai.” Mary nhìn qua vai tôi. “Nó thậtlà mộtbức chân dung tuyệt đẹp, nhưng tôi ước gì ông Hilliard biết cách bắt được dáng vẻ cái cằm tốt hơn.”
“Nó hoàn hảo mà, tôi sẽluôn luôn nâng niu nó như báu vật.”
“Cái này là cho anh,” Henry nói, đưa cho Matthew mộtcái túi tương tự. “Hilliard cảm thấy anhcó thể trưng nó ra cho người khác thấy và đeo nó khi vào triều, vậy nên nó có phần à… thận trọng hơn.”
“Cái mặt mề đay Matthew đangcầm trong đó là bức tiểu họa của tôi à?” Tôi hỏi, chỉ vào viên đá màu sữa ngà đặc biệt đặt trong mộtcái khung bằng vàng đơn giản.
“anhtin vậy,” Matthew nhẹnhàng đáp. “Nó là mộtviên đá mặt trăng ư, Henry?”
“mộtmẫu vật cổ xưa,” Henry tự hào nói. “Nó ở trong những đồ vật quý hiếm của tôi đấy, và tôi muốn anhcó nó. Mọi người xem, hình ảnh chạm chìm của nữ thần Diana.”
Bức tiểu họa bên trong còn đáng trân trọng hơn, nhưng thậtkinh ngạc ở sựgần gũi của nó. Tôi đangmặc mộtchiếc váy dài màu nâu đỏ viền nhung đen. mộtcái cổ áo xếp nếp tinh tế đóng khung khuôn mặt tôi nhưng khôngphủ những viên ngọc trai sáng dưới cổ. Mái tóc tôi buông xõa tự do qua hai vai và lưng tôi với những lọn quăn màu đỏ vàng kim hoang dại.
“Nền xanh lam phía sau làm nổi bật đôi mắt của Diana. Và khuôn miệng côấy mới thậtsống động.” Matthew cũng bị choáng ngợp trước món quà này.
“Tôi đãnhờ làm mộtcái khung,” Mary nói, ra hiệu cho Joan, “để bày khi chúng khôngđược đeo trênngười.” Nó là mộtchiếc hộp nông, với hai hình oval đặt thành hốc được bao quanh bằng nhung đen. Hai bức tiểu họa vừa khít hoàn hảo bên trong và làm tăng thêm nổi bật cho cặp tranh chân dung.
“Mary và Henry thậttâm lý khi tặng chúng mình mộtmón quà như thế,” Matthew nóisau đó, khi chúng tôi đãvề đến Hươu Đực và Vương Miện. anhvòng hai cánh tay ôm lấy tôi từ phía sau và đặt hai bàn tay trênbụng tôi. “anhthậm chí còn khôngcó thời gian để mộtbức hình của em. anhchưa bao giờ tưởng tượng được rằng chân dung đầu tiên của em mà anhsở hữu lại được Nicholas Hilliard vẽ.”
“Những bức chân dung tuyệt đẹp,” tôi nói, để tay mình phủ lên hai tay anh.
“Nhưng…?” Matthew kéo người ra và nghiêng đầu.
“Những bức tiểu họa do Nicholas Hilliard được săn tìm, Matthew ạ. Chúng sẽkhôngbiến mất khi chúng ta biến mất. Và chúng quá tinh xảo, em khôngnỡ phá hủy sau khi chúng mình rời đi.” Thời gian giống như chiếc cổ áo xếp nếp của tôi: nó bắt đầu như mộttấm vải dệt mềm mại, thẳng thớm. Rồi nó bị xoắn lại, bị cắt rồi tạo thành mặt sau gập đôi cả chính nó. “Chúng ta vẫn liên kết với quá khứ theo những con đường sẽđể lại dấu vết mờ nhạt đâu đó ở hiệntại.”
“Có lẽ đó là điều chúng ta đãđược định để thực hiện,” Matthew gợi ý. “Có thể tương lai phụ thuộc vào nó.”
“Em khônghiểu làm cách nào.”
“khôngphải bây giờ. Nhưng có thể chúng mình sẽnhìn lại vào mộtngày nào đó và phát hiệnra nó là những bức tiểu họa được làm ra hoàn toàn khác.” anhtủm tỉm cười.
“Vậy hãy tưởng tượng cuốn Ashmole 782 đangtìm kiếm sẽthế nào.” Tôi ngước lên nhìn anh. Nhìn những cuốn sách về thuật giả kim được trang trí rực rỡ của Mary lại khiến tôi nghĩ đến cuốn sách bí ẩnvà sựtìm kiếm vô vọng của chúng tôi. “George đãkhôngmay mắn khi tìm kiếm ở Oxford, nhưng nó phải ở đâu đó trênnước anhnày. Ashmole đãkiếm được cuốn cổ thư từ người nào đó. Thay vì tìm kiếm cuốn sách, chúng ta nên tìm người đãbán nó cho ông ta.”
“Thời đại cổ thư lưu thông đều đặn. Ashmole 782 có thể ở bất cứ đâu.”
“Hoặc nó có thể ở ngay đây,” tôi khăng khăng.
“Có lẽ em đúng,” Matthew đồng ý. Nhưng tôi nóirằng tâm trí anhđangđặt ở những mỗi bận tâm hiệnthời hơn là cuốn sách hay lảng tránh của chúng tôi. “anhđãcử George ra ngoài để hỏi thăm những người bán sách.”
Tuy nhiên, mọi ý nghĩ về Ashmole 782 bay biến mất vào sáng hôm sau khi mộtlời nhắn của dì Annie đến nơi, bà đỡ thành công nổi tiếng. Bà đãquay lại London.
“Phù thủy này sẽkhôngđến ngôi nhà của mộtwearth kiêm gián điệp khét tiếng,” Matthew thông báo sau khi anhđọc nội dung bức thư. “Chồng bà ấy phản đối kế hoạch này, vì sợ nó sẽphá hủy danh tiếng của ông ta. Chúng ta sẽđến nhà bà ấy ở gần nhà thờ Thánh James trênđồi Garlic.” Tôi khôngphản ứng, Matthew cau có và tiếp tục. “Nó ở phía bên kia thành phố, trong khoảng cách nhổ nước miếng là tới từ chỗ hang ổ của Andrew Hubbard.”
“anhlà ma cà rồng,” tôi nhắc nhở anh. “Bà ấy là phù thủy. Chúng ta được cho là khôngthể hòa hợp. Chồng của phù thủy này đúng khi cẩn trọng.”
Dù thế nào, Matthew khăng khăng tháp tùng Annie và tôi băng qua thành phố. Khu vực quanh nhà thờ Thánh James phồn thịnh hơn khu Blackfriars, với những con phố rộng rãi, được giữ gìn tốt, những ngôi nhà lớn, cửa hàng bận rộn, và mộtsân nhà thờ ngăn nắp, gọn gàng. Annie dẫn chúng tôi đivào mộtcon ngõ bên kia nhà thờ. Dù tối tăm, nhưng nó vẫn gọn gàng.
“Ở kia kìa, ông Roydon,” côgáinói. côbé hướng sựchú ý của Matthew tới tấm biển có hình mộtcái cối xay gió trước khi phóng lên trước Pierre để báo cho người nhà chúng tôi đãtới.
“anhkhôngphải ở lại đâu,” tôi bảo Matthew. Lần viếng thăm này đãđủ căng thẳng mà khôngcần có anhquẩn quanh và gầm gào ở đó.
“anhsẽkhôngđiđâu cả,” anhđáp khônggì lay chuyển.
Chúng tôi gặp ở cửa mộtphụ nữ có khuôn mặt tròn trịa với cái mũi hếch, mộtcái cằm mềm mại, và đôi mắt cùng mái tóc nâu đậm. Gương mặt bà bình thản, mặc dù đôi mắt ánh lên tia bực bội. Bà ta đãchặn Pierre dừng lại. Chỉ có Annie được chấp nhận vào nhà và đứng mộtbên trênlối cửa trông mất hết tinh thần trước tình thế bế tắc này.
Tôi cũng dừng lại, miệng há ra vì ngạc nhiên. Dì của Annie là hình ảnh giống y hệt Sophie Norman, yêutinh trẻ tuổi mà chúng tôi đãvẫy tay chào tạm biệt ở ngôi nhà Bishop tại Madison.
“Dieu,” Matthew lẩm bẩm, nhìn xuống tôi trong dáng vẻ ngạc nhiên.
“Dì của cháu, Susanna Norman ạ,” Annie thìthầm. Phản ứng của chúng tôi làm côbé bất an. “Dì nói…”
“Susanna Norman ư?” Tôi hỏi, khôngthể rời mắt khỏi khuôn mặt bà. Tên bà và diện mạo tương tự với Sophie khôngthể nào là ngẫu nhiên được.
“Như cháu gáitôi đãnói. Bà có vẻ khôngở đúng trong môi trường của mình, bà Roydon,” bà Norman nói. “Và ông khôngđược chào đón ở đây, wearth ạ.”
“Bà Norman,” Matthew cúi chào.
“Các người khôngnhận được thư của tôi sao? Chồng tôi khôngmuốn liên quan gì với các người cả.” Hai đứa bé trai phóng ra khỏi cửa. “Jeffrey! John!”
“Đây là hắnta ư?” Đứa lớn hơn hỏi. Cậu nhóc quan sát Matthew với vẻ hứng thú, rồi chuyển sựchú ý sang tôi. Đứa bé này có sức mạnh. Mặc dù cậu nhóc mới chớm bước vào tuổi thiếu niên, nhưng các năng lực của nó đãcó thể được cảm nhận trong tiếng rạn lách tách của mộtsức mạnh phép thuật chưa bị rèn giũa vào khuôn phép.
“Hãy dùng tài năng Chúa đãban cho con, Jeffrey, và đừng có hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn.” Nữ phù thủy nhìn tôi đánh giá. “côchắc chắn đãkhiến Cha Hubbard ngạc nhiên và bận tâm. Rất tốt, hãy vào trong đi.” Khi chúng tôi nhích người làm theo, Susanna giơ mộtbàn tay lên. “khôngphải ông, wearth. Việc của tôi là với vợ ông. Quán Ngỗng Non Vàng có rượu tử tế đấy, nếu ông quyết ý muốn ở gần đây. Nhưng sẽtốt hơn cho tất cả nếu ông để cho người của ông gặp lại bà Roydon ở nhà.”
“Cảm ơn lời khuyên của bà. Tôi chắc mình sẽtìm được thứ gì đó thỏa mãn tại quán trọ. Pierre sẽđợi trong sân. anhta khôngngại trời lạnh đâu.” Matthew tặng bà ta mộtnụ cười hung ác như sói.
Susanna trông có vẻ cáu kỉnh và quay đithậtnhanh. “đinào, Jeffrey,” bà gọi với qua vai. Jeffery ra lệnh cho đứa em trai, liếc mắt nhìn Matthew thích thú, rồi đitheo sau. “Khi nào bà sẵn sàng, bà Roydon.”
“Em khôngthể tin được,” tôi thìthầm ngay khi nhà Norman khuất khỏi tầm nhìn. “Bà ấy hẳn phải là bà cố của Sophie nhiều đời trước.”
“Sophie chắc phải là hậu duệ đời sau của Jeffrey hoặc John.” Matthew đăm chiêu vuốt cằm. “mộttrong những thằng bé là mắt nối thất lạc trong chuỗi các tình huống của chúng ta dẫn đến Kit và quân cờ bằng bạc đưa đến nhà Norman và tới Nam Carolina.”
“Tương lai thậtsựđangtự chăm lo cho chính nó,” tôi nói.
“anhnghĩ nó sẽlà thế. Còn hiệngiờ, Pierre sẽở ngay đây và anhở gần thôi.” Những đường nét đẹp đẽ bao quanh đôi mắt anhnhư sâu thêm. anhấy chẳng muốn ở cách xa tôi đến mười lăm phân ấy chứ.
“Em khôngchắc chuyện này sẽkéo dài bao lâu,” tôi nói, nắm chặt cánh tay anh.
“khôngsao cả,” Matthew đảm bảo với tôi, cọ môi anhvào môi tôi. “Hãy ở lại đây lâu như em thấy cần.”
Vào tới nhà, Annie vội vàng đón lấy áo choàng của tôi và trở về bên lò sưởi, nơi côbé đanglom khom làm gì đó trênngọn lửa.
“Cẩn thận đó, Annie,” Susanna nói, tiếng nóinghe có vẻ bị làm phiền. Annie đangcẩn thận nâng mộtcái chảo nông từ trênchiếc kiềng kim loại đặt bên trênthan lửa hồng. “Con gáicủa bà góa Hackett yêucầu khô ráo để giúp cho giấc ngủ của nó, và nguyên liệu này rất đắt tiền đấy.”
“Con khôngthể nhìn ra bà ấy, mẹ ạ,” Jeffrey nhìn tôi nói. Đôi mắt tinh ranh của mộtđứa bé còn quá nhỏnhư thế khiến người ta bối rối.
“Mẹ cũng không, Jeffery, mẹ khôngthấy. Nhưng có lẽ đó là lý do vì sao bà ấy ở đây. Hãy đưa em con vào phòng kia đi. Và im lặng nhé. Cha con đangngủ, ông ấy cần được yên tĩnh.”
“Vâng, thưa mẹ.” Jeffrey vơ lấy hai anhlính bằng gỗ và mộtcon thuyền từ trênbàn. “Lần này anhsẽđể em làm Walter Raleigh thế nên em có thể thắng trận,” cậu nhóc hứa hẹn với em trai.
Susanna và Annie nhìn tôi chằm chằm trong sựim lặng tiếp sau đó. Sức mạnh mờ nhạt của Annie đãquen thuộc. Nhưng tôi chưa chuẩn bị cho những dòng truy vấn đều đặn mà Susanna hướng tới tôi. Con mắt thứ ba của tôi mở ra. Cuối cùng cũng có người nào đó khuấy động sựhiếu kỳ của phù thủy trong tôi.
“thậtkhôngthoải mái,” tôi nói, quay đầu điđể phá vỡ sựcăng thẳng trong cái nhìn chăm chú của Susanna.
“Đúng thế,” bà ta bình tĩnh nói. “Tại sao bà yêucầu sựgiúp đỡ của tôi, thưa bà?”
“Tôi bị yểm bùa thôi miên. khôngphải như cháu nghĩ đâu,” tôi nóikhi Annie ngay lập tức bước tránh xa tôi. “Cả bố và mẹ tôi đều là phù thủy nhưng khôngai trong hai người hiểu được bản chất sức mạnh của tôi. Họ khôngmuốn tôi gặp nguy hiểm, nên họ đãtrói buộc tôi. Tuy nhiên những sợi dây trói buộc ấy đãbị lỏng, và nhiều chuyện lạ lùng đangxảy ra.”
“Chẳng hạn như?” Susanna hỏi, chỉ Annie vào mộtchiếc ghế.
“Tôi gọi được nước phù thủy vài lần, mặc dù gần đây thìkhông. Đôi khi tôi có thể nhìn thấy những màu sắc bao quanh mọi người, nhưng khôngthường xuyên. Và tôi đãchạm vào mộtquả mộc qua, nó héo quắt đi. Tôi cẩn thận khôngđả động đến những cơn bộc phát phép thuật ngoạn mục của mình. Cũng khôngnhắc tới những sợi màu xanh lục và hổ phách kỳ quái trong các góc phòng hoặc cách mà chữ viết tay bắt đầu thoát ra khỏi những cuốn sách của Matthew và mấy con bò sát phóng ra từ đôi giày của Mary Sidney.
“Cha hay mẹ bà là phù thủy gọi nước ư?” Susanna hỏi, cố gắng hiểu câu chuyện của tôi.
“Tôi khôngbiết,” tôi thành thậtnói. “Họ chết khi tôi còn nhỏ.”
“Có lẽ bà thích hợp hơn cả với hội đồng phù thủy. Mặc dù nhiều phủ thủy ước ao sở hữu những pháp thuật thô lậu liên quan đến nước và lửa, nhưng chúng khôngđến dễ dàng,” Susanna nóivới mộtthoáng tiếc nuối. Dì Sarah của tôi nghĩ các phù thủy dựa vào phép thuật có các thành tố tự nhiên là những tay tài tử. Mặt khác, Susanna có xu hướng xem bùa chú như một thứ phạm pháp. Tôi thở ra một hơi dài trước những định kiến kỳ dị này. khôngphải tất cả chúng ta đều là phủ thủy sao?
“Dù tôi khôngđược dạy nhiều bùa chú. Nhưng đôi khi tôi có thể thắp sáng một cây nến. Tôi đã có thể gọi đồ vật đến với mình.”
“Nhưng bà là một phụ nữ trưởng thành mà!” Susanna nói, hai bàn tay chống nạnh. “Ngay cả Annie cũng còn có nhiều kỹ năng hơn thế, mà con bé mới chỉ mười bốn tuổi. Bà có thể pha chế bùa yêutừ thực vật không?”
“không.” Dì Sarah đã muốn tôi học cách làm thuốc độc, nhưng tôi đã từ chối.
“Bà là một người chữa bệnh à?”
“không.” Tôi bắt đầu hiểu vẻ mặt hăm dọa của Annie.
Susanna thở dài. “Tôi khôngbiết tại sao Andrew Hubbard lại yêucầu sự hỗ trợ của tôi. Tôi có khá đủ các bệnh nhân rồi, thêm một ông chồng ốm yếu và hai đứa con trai đanglớn nữa chứ.” Bà lấy một cái tô mẻ từ trêngiá và một quả trứng vỏ nâu từ vỉ bên cửa sổ. Bà đặt cả hai thứ lên bàn trước mặt tôi và kéo ghế ra. “Ngồi đi, và kẹp hai bàn tay bà dưới đùi.”
Mù mịt khônghiểu, tôi vẫn làm theo như yêucầu.
“Annie và tôi sẽ điđến nhà bà góa Hackett. Trong khi chúng tôi đi, bà sẽ lấy lòng trứng vào trong cái tô mà khôngdùng đến tay. Nó đòi hỏi phải có hai câu thần chú: một thần chú chuyển động và một phép mở đơn giản. Con trai John của tôi mới tám tuổi, và nó có thể làm chuyện đó mà khôngcần nghĩ ngợi gì.”
“Nhưng…”
“Nếu quả trứng khôngở trong cái tô khi tôi quay trở lại thì khôngai có thể giúp bà được, bà Roydon ạ. Cha mẹ bà có lẽ đã đúng khi trói bà nếu sức mạnh của bà quá yếu đến mức khôngthể làm nứt mộtquả trứng.”
Ngồi mộtmình trong phòng sinh hoạt chung của nhà Norman, tôi quan sát quả trứng và cái tô.
“thậtlà ác mộng,” tôi thìthầm mộtmình, hy vọng mấy cậu bé ở xa khôngnghe thấy gì.
Tôi hít sâu mộthơi và thu lại sức lực. Tôi biết nội dung của cả hai câu thần chú, và tôi muốn quả trứng di chuyển – muốn đến chết được. Phép thuật khônggì hơn chính là khao khát được hiệnthực hóa, tôi thầm nhủ với chính mình.
Tôi dồn niềm khao khát của mình lên quả trứng. Nó nhảy lò cò trênbàn, mộtlần, rồi im lìm. Tôi thầm lặp lại câu thần chú. mộtlần. mộtlần nữa.
Mấy phút sau kết quả duy nhất cho tất cả nỗ lực của tôi là mộtlớp mồ hôi lấm tấm trêntrán. Tất cả những gì tôi cần làm là nâng quả trứng lên và làm nó nứt ra. Vậy mà tôi đãthảm bại.
“Xin lỗi,” tôi thìthầm với cái bụng phẳng lì của mình. “Nếu khôngmay, con sẽchăm sóc cha con nhé.” Bụng tôi thót lên mộtcái. Khỉ thật, hồi hộp lo lắng và thay đổi hoóc-môn nhanh chóng làm ảnh hưởng tới tiêu hóa.
Có phải món gà non sáng nay bị ôi không? Tôi nghiêng đầu nhìn quả trứng. mộtcon gà mái tội nghiệp nào đó đãbị cướp mất gà con còn chưa nở để làm đồ ăn cho nhà Norman. Cơn buồn nôn của tôi dâng lên. Có lẽ tôi nên cân nhắc đến việc ăn kiêng, ít nhất là trong thời kỳ mang thai.
Nhưng có thể chẳng có chú gà con nào cả, tôi tự an ủi mình. khôngphải mọi quả trứng đều được thụ tinh. Con mắt thứ ba của tôi săm soi dưới bề mặt vỏ, xuyên qua tầng tầng lớp lớp lòng trắng trứng đangdày lên để tới lòng đỏ trứng. Lần theo sựsống chạy vào những vệt đỏ ngang dọc trênbề mặt lòng đỏ trứng.
“đãthụ tinh,” tôi thốt lên với mộttiếng thở dài. Tôi cựa quậy hai bàn tay. côEm và dì Sarah đãnuôi gà mộtthời gian. mộtcon gà mái chỉ mất ba tuần để ấp trứng nở. Ba tuần lễ ấm áp và chăm sóc, và có mộtchú gà con. Có vẻ thậtkhôngcông bằng khi tôi phải đợi tới hàng tháng trời thìbé con của chúng tôi mới nhìn thấy được ánh sáng ban ngày.
Chăm sóc và sựấm áp. Những điều giản dị như thế, nhưng chúng lại đảm bảo cho sựsống. Matthew đãnóigì nhỉ? Tất cả những gì bọn trẻ cần là tình yêuthương, mộtngười trưởng thành có trách nhiệm với chúng và mộtnơi êm ái để ngả lưng. Với những chú gà con sựthậtcũng đúng là thế. Tôi hình dung cảm giác sẽthế nào nếu được bao bọc trong bộ lông ấm áp của gà mẹ, được bao kín trong cái kén an toàn tránh khỏi va đụng bầm dập. Bé con của chúng tôi cũng sẽcảm thấy như vậy chứ, lơ lửng tít sâu trong dạ con của tôi? Nếu không, thìcó câu thần chú nào dành cho nó đây? mộtcâu thần chú được dệt lên từ trách nhiệm, nó sẽbao bọc bé còn trong sựchăm sóc, sựấm áp và tình yêuthương nhưng lại đủ dịu dàng để tặng cho bé cả sựan toàn lẫn tự do ư?
“Đó chính là khát vọng thậtsựcủa mình,” tôi thầm nói.
Chiếp.
Tôi nhìn quanh. Nhiều gia đình có nuôi vài chú gà con bới mổ quanh lò sưởi.
Chiếp. Nó phát ra từ quả trứng trênbàn. mộttiếng gãy nứt, rồi mộtcái mỏ ló ra. mộtcặp mắt đen láy ngơ ngác nhìn tôi từ cái đầu lơ thơ lông trơn mượt ẩm ướt.
Ai đó ở phía sau tôi thở hổn hển. Tôi quay lại. Bàn tay Annie đưa lên bưng lấy miệng, côbé đangnhìn chằm chặp vào chú gà con trênbàn.
“Dì Susanna,” Annie thốt lên, thả bàn tay xuống. “Có phải cái đó…?” côbé tắt tiếng dần và khôngnóinên lời chỉ về phía tôi.
“Đúng thế. Đó là glaem xuất hiệntừ câu thần chú mới của bà Roydon. điđi. Tìm Goody Alsop.” Susanna xoay côcháu gáivà ẩncố bé về phía con đường vừa điqua.
“Tôi đãkhôngcho được trứng vào cái tô, bà Norman,” tôi lên tiếng xin lỗi. “Các câu thần chú khôngcó hiệu quả.”
Chú gà con vẫn còn ươn ướt bày tỏ sựphản đối, mộttràng những tiếng chiếp chiếp liên tục nối tiếp nhau.
“khônghiệu quả ư? Tôi bắt đầu nghĩ bà chẳng biết gì về việc làm mộtphủ thủy cả,” Susanna ngờ vực đáp.