“Ellie, cháu có nghĩ rằng”, dì Rachel rụt rè nói, “Có bác sĩ biết cách... biết cách cai cồn thuốc phiện cho dì không?”
Mất một phút Elissande mới nhận ra dì Rachel đã nói và một phút sau nữa mới hiểu được dì cô đang nói gì. Cô quay khỏi cửa sổ, nơi cô đang đứng chăm chú nhìn khu vườn, mà không nhìn thấy gì.
Dì Rachel ăn sáng trong căn phòng sáng sủa và xinh xắn của mình. Bà vẫn đang ăn trên giường. Chỉ sau vài ngày thoát khỏi Highgate Court, bà đã tự mình ăn được.
Buổi chiều hôm trước bà đã yêu cầu mở cửa sổ để đón tiếng chim hót. Tối hôm qua, sau bữa tối, bà đã rụt rè hỏi trong nhà có sẵn một mẩu sô-cô-la nho nhỏ nào hay không. Elissande không biết, nhưng bà Dilwyn vui vẻ thông báo với bà Douglas rằng, ông chủ là một người rất thích sô-cô-la Pháp và luôn có sẵn trong nhà. Biểu hiện của dì Rachel khi đặt mẩu sô-cô-la nhỏ vào miệng là một niềm vui thuần khiết đến mức Elissande phải quay đi để lau nước mắt.
Và buổi sáng hôm nay, khi Elissande bước vào phòng, dì Rachel đã nói, “Trông cháu thật xinh đẹp, cháu yêu”. Lần cuối cùng dì Rachel đủ khỏe để khen Elissande đã là tám năm trước, trước trận đấu quả cầu tuyết của ngày Giáng sinh định mệnh đó, trước cồn thuốc phiện.
Không nghi ngờ gì: dì Rachel đang hồi phục trên mọi phương diện. Quá nhanh. Nếu bà vẫn trì trệ và không có phản ứng, có lẽ sẽ không có mấy khác biệt. Nhưng để bà rơi lại vào vòng kìm tỏa của Edmund Douglas lúc này...
“Ellie? Cháu ổn không, Ellie?”
Elissande nuốt nghẹn. Cô tiến đến mép giường của dì Rachel và ngồi xuống. “Có lẽ cháu phải giấu dì đi thôi”.
Cái nĩa của dì Rachel rơi xuống. “Có phải là... là chú cháu...”
“Ông ta vẫn chưa ở đây, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian”. Bất chấp sự trấn an của chồng cô, Elissande đã bồn chồn cả đêm trên giường. “Nếu dì vẫn ở trong ngôi nhà này thì rất dễ tìm thấy dì. Cháu sẽ chọn cho dì một khách sạn. Dì sẽ ở cách đây vài phút đi bộ, cháu sẽ thường xuyên đến thăm dì hết mức có thể”.
Dì Rachel nắm lấy tay Elissande. “Cháu... cháu và ngài Vere sẽ ổn chứ?”
“Chúng cháu sẽ ổn. Chúng cháu không sợ ông ta”.
Mặc dù cô ước gì chồng cô biết sợ hơn một chút. Thật nguy hiểm khi đánh giá thấp chú cô.
“Khi dì mặc đồ xong, cháu sẽ đưa dì đến một cửa hàng may quần áo. Chúng ta sẽ đi vào cửa trước và đi ra ở cửa sau, thuê một cỗ xe, và sau đó đi thẳng đến khách sạn Langham. Cháu sẽ mang đồ đạc của dì đến sau. Chúng ta sẽ giấu dì đi trước đã. Dì có nghe cháu không?”
Dì Rachel gật mạnh đầu.
“Tốt, bây giờ…”
Có một tiếng gõ cửa.
“Gì thế?” Elissande hỏi.
“Thưa cô chủ, thưa bà Douglas”, một người hầu đi vào, tay bưng một khay bạc. “Bà Douglas, có một quý ông tên là Nevinson đến tìm bà. Ông ta yêu cầu tôi đưa lá thư này trực tiếp cho bà. Và ông ta muốn biết khi nào bà ở nhà để gặp ông ta, thưa bà”.
Dì Rachel cứng người nhìn sang Elissande.
Elissande cầm lá thư và mở dấu niêm phong sáp trên phong bì.
Bà Douglas kính mến,
Tôi là thám tử Nevinson của đồn Cảnh sát Thủ đô, vì có chuyện khẩn cấp liên quan đến chồng bà, ông Edmund Douglas, tôi mong rằng bà sẽ gặp tôi ngay lập tức.
Đầy tớ của bà,
Nevinson
Elissande siết chặt tay thành nắm đấm. Có phải chú cô đã báo cảnh sát bám theo dì cô không?
Không, ông ta không có lý do gì để làm điều đó.
Một người vợ hoàn toàn có quyền tự do đi đến London trong một tuần.
Thế thì đây phải là một mưu mẹo. Tay thám tử là một kẻ mạo danh, một con ngựa thành Troy được cử đến để phá vỡ sự phòng thủ của ngôi nhà này khi ông không thể đổ bộ vào bằng cách khác.
“Trước tiên hãy đưa lá thư này cho ông chủ và yêu cầu ông ấy đọc nó ngay lập tức”, cô nói với người hầu. “Sau đó đưa ông Nevinson vào phòng khách và tiếp đãi ông ta. Chúng tôi sẽ gặp ông ta ngay sau đó”.
Người hầu rời đi theo lời cô sai bảo. Dì Rachel siết lấy cánh tay Elissande.
“Cháu chắc không?” Dì Rachel run giọng hỏi.
“Cháu sẽ tiếp ông ta. Dì sẽ thưởng thức bữa sáng ở đây. Vere đang ở nhà và anh ấy sẽ không để dì bị bắt đi ngay dưới mũi mình”.
Cô cầu nguyện sẽ là như thế. Và khóa cửa phòng dì Rachel lại chỉ để đề phòng.
“Cám ơn vì đã gặp tôi, quý bà Vere”, Nevinson nói.
Ông ta mặc một bộ thường phục bằng len màu xanh lơ lịch sự, một người đàn ông vừa chớm tuổi trung niên, cặp mắt sắc sảo và hành động nhanh nhẹn - một nhà luật pháp tài giỏi và đáng tin cậy, và chính xác là một nghệ sĩ đầy tự tin cô sẽ thuê nếu cô muốn đánh cắp dì mình.
Cô khoác lên nụ cười hàng ngày. “Tôi có thể làm gì cho ông, thám tử?”
“Liệu tôi có thể hỏi rằng bà Douglas có tham gia với chúng ta không, thưa cô?”
“Bà Douglas không ở nhà. Nhưng tôi sẽ vui lòng chuyển lời nhắn đến bà ấy”.
Nevinson ngập ngừng. “Thứ lỗi cho tôi, thưa cô. Điều tôi định nói là một vấn đề cực kỳ nhạy cảm. Tôi có thể nói chuyện trực tiếp với bà Douglas được không?”
“Than ôi,” Elissande nói, vẫn mỉm cười, “Tôi e rằng không thể”.
Người đàn ông nhìn Elissande. “Sao lại thế, quý bà Vere?”
Elissande hắng giọng và nhìn quanh phòng khách với vẻ cường điệu. Sau đó cô thì thầm nói, “Ngài biết đấy, thưa ngài, vào thời điểm nào đó hàng tháng, bà ấy bị đau. Ôi, bà ấy rất đau. Ông có biết không bà ấy đang ở trong cơn đau đớn tồi tệ nhất”.
Nevinson rõ ràng không mong đợi câu trả lời chi tiết này. Ông ta đỏ lựng mặt và cố gắng lấy lại vẻ bình thản.
“Trong hoàn cảnh này, tôi rất cảm tạ nếu cô chuyển lời nhắn này cho bà Douglas”. Ông ta hắng giọng. “Tôi không muốn phải là người mang tin xấu, nhưng sáng nay ông Douglas đã bị bắt vì bị tình nghi giết người”.
Elissande chớp mắt. “Đây là một trò đùa phải không, thám tử?”
“Tôi xin lỗi, thưa cô. Không phải thế. Chúng tôi có đầy đủ chứng cứ để tin rằng ông ta chịu tránh nhiệm về vụ sát hại một người tên là Stephen Delaney, một nhà khoa học phát minh ra phương pháp tổng hợp kim cương chưa được công bố mà chú cô đã ăn cắp”.
Tại sao chú cô lại giết một người vì phương pháp tổng hợp kim cương khi ông ta nắm quyền khai khác một lượng lớn kim cương tự nhiên? Lời buộc tội này cực kỳ lố bịch. Đây hẳn là một âm mưu. Cô có thể giữ Nevinson trong phòng khách bao lâu nữa? Cô có thể nhắn cho chồng cô nhanh chóng đưa dì cô ra khỏi đây ngay lúc này được không?
Cô đang đổ mồ hôi lạnh. Cô nhất định không được hoảng loạn. Cô cần suy nghĩ rõ ràng và mạch lạc.
Gì thế? Có người đang hát ngoài phòng khách - một bài hát quen thuộc.
“Tôi có một con mèo nhỏ. Và tôi rất yêu nó. Nhưng tôi thích có một con chó hơn. Wow, wow, wow, wow”‘.
Cô phải giấu nụ cười khi chồng cô mở cửa và ló đầu vào. “Buổi sáng tốt lành, vợ yêu. Em đáng yêu làm sao, như mọi khi”, chồng cô líu lo.
Cám ơn Chúa! Cô chưa bao giờ hạnh phúc vì nhìn thấy anh như lúc này.
Ăn mặc cẩu thả, tóc vẫn còn rối, ngài Vere quay sang vị khách của Elissande. “Và ông là thám tử Netherby phải không?” anh thốt lên với giọng ngạc nhiên.
“Nevinson, thưa ngài”.
Có phải cô nhìn thấy một cái nhăn nhó trên mặt Nevinson?
“Tôi biết mà!” Ngài Vere thốt lên, sải bước vào phòng. “Tôi chưa bao giờ quên một khuôn mặt hay một cái tên. Ông là thám tử phụ trách vụ Huntleigh”.
“Vụ Haysleigh”.
“Thì tôi nói thế mà. Quý bà Haysleigh bị phát hiện là giả chết để thoát khỏi cuộc hôn nhân trước đó và kết hôn với ngài Haysleigh, và sau đó cô ta cố gắng giết người chồng đầu tiên khi anh ta tìm đến dinh thự Haysleigh”.
“Thưa ngài, đó sẽ là tình tiết trong một cuốn tiểu thuyết của bà Braddon. Em trai ngài Haysleigh, anh Hudson, cố gắng đầu độc bà Haysleigh, rồi đổ tội giết người cho ngài Haysleigh để anh ta có thể thừa kế tước hiệu”.
“Thật ư? Tôi luôn nghĩ đó mới là tình tiết trong tiểu thuyết của bà Braddon”. Ngài Vere ngồi xuống và nhận một tách trà từ Elissande. “Cám ơn, vợ yêu. Nào, thám tử, tôi có ấn tượng là vụ Haysleigh đã được giải quyết nhiều năm trước rồi mà”.
“Đúng thế thưa ngài”.
“Thế thì gặp ông ở đây thật lạ. Tôi không biết là chúng ta có chuyện để nói”.
Nevinson nghiến chặt răng. “Đừng sợ, thưa ngài. Tôi đến đây tuyệt đối vì công việc”.
“A, việc gì thế? Tôi đảm bảo với ông, tôi luôn cách xa bất cứ hoạt động khả nghi nào”.
“Tôi chắc chắn là thế, thưa ngài. Tôi ở đây để nói chuyện với bà Douglas về chồng bà ấy”.
Elissande thích thú quan sát chồng cô đùa cợt với Nevinson đến mức phải đến khi nghe thấy lời nhắc nhở về chú cô, cô mới đột nhiên nhận ra tầm quan trọng của việc đang xảy ra trước mắt cô.
Nevinson không phải một kẻ mạo danh. Ông ta là một thám tử thực sự, đến đây vì công việc nghiêm túc.
Và ông ta không nói dối cô.
Như để nhấn mạnh nhận thức đó, thám tử Nevinson nhắc lại với ngài Vere, gần như từng từ từng từ một, những gì ông ta đã nói với Elissande.
Chú cô, một kẻ giết người.
Đầu cô nổ tung thành từng mảnh bé xíu. Nó không phải một cảm giác tồi tệ: kỳ lạ và bối rối, nhưng không tồi tệ. Sẽ có một vụ tai tiếng khủng khiếp không thể tránh được. Nhưng niềm an ủi trong cơn bĩ cực lớn lao làm sao. Chú cô đã bị bắt: Bây giờ ông ta không có khả năng buộc dì Rachel trở về với mình nữa.
Hơn nữa, một khi ông ta bị xét xử và kết tội, ông ta sẽ mục rữa trong nhà tù rất, rất lâu. Thậm chí có thể ông ta sẽ bị treo cổ. Elissande và dì Rachel sẽ tự do, tự do hoàn toàn và tuyệt đối.
Cô chỉ loáng thoáng nghe thấy chồng cô nói, “Tất nhiên ông và người của ông được hoan nghênh đến dinh thự để lục soát từ đầu đến đuôi. Như thế có được không, vợ yêu?”
“Xin thứ lỗi?”
“Đó là mục đích chính mà thám tử Nevinson ghé thăm. Do ông ấy lịch sự thôi, vì đến lúc này anh tin rằng ông ấy không cần sự cho phép của chúng ta để lục soát Highgate Court”.
“À, vâng, tất nhiên. Chúng tôi sẽ hoàn toàn hợp tác”.
Nevinson cám ơn và đứng lên để ra về.
Cô đã phải ghim mình không phấn khích hét lên khi cô chúc Nevinson một ngày tốt lành. Ngay khi ông ta rời khỏi, cô nhảy cẫng lên, ôm chầm lấy chồng, sau đó chạy vụt lên tầng trên, nước mắt tuôn rơi, để báo với dì cô tin họ được giải thoát.
Lĩnh vực nghiên cứu khoa học chính của Stephen Delaney đúng là quá trình tổng hợp kim cương nhân tạo, đã được mô tả đầy đủ trong tập tài liệu ngài Yardley gửi cho Holbrook - rõ ràng hồ sơ Vere đã đọc chỉ là một đoạn trích.
Trong lúc Vere ngủ gục vì rượu rum, Holbrook đã giải mã được mật mã sử dụng trong tập tài liệu của Douglas. Tối hôm qua, sử dụng chỉ dẫn của Holbrook, Vere đã giải mã những trang tài liệu đó, nội dung y hệt những ghi chép trong cuốn sổ lưu trú tại phòng thí nghiệm của Delaney. (Rõ ràng, Delaney đã tự ghi lại những thí nghiệm của mình trong một cuốn sổ tay; sau đó trợ lý của anh ta sao chép sang một cuốn sổ khác và cất giữ cuốn thứ hai cách xa phòng thí nghiệm.) Vì thế mà ngay cả khi Douglas đã ăn cắp, và có khả năng chắc chắn là sau đó đã tiêu hủy cuốn sổ đầu tiên của Delaney, sự tồn tại của cuốn sổ thứ hai đã phơi bày mọi liên quan mật thiết và rõ ràng giữa tập tài liệu của Douglas với những nghiên cứu của Delaney.
Và thậm chí còn có một chứng cứ rõ hơn nữa: có một dòng ghi chú viết trên lề một trang tài liệu của Douglas, sau khi được giải mã là, Không nên giải quyết thằng khốn đó trước khi mình có thể thực hiện được phương pháp của hắn.
Những chứng cứ đó đủ để bắt giữ và buộc tội Douglas, cũng đủ để giam giữ Douglas mà không cho phép bất cứ sự bảo lãnh nào. Những tội lỗi khác của ông ta cũng đang được tiến hành điều tra do sức ép mạnh từ Yardley - theo yêu cầu của Vere.
Đột nhiên Vere thấy mệt mỏi. Cảm giác này luôn luôn đến, sự mệt mỏi thấu xương mỗi khi kết thúc một vụ điều tra. Nhưng lần này anh thậm chí còn cảm thấy kiệt quệ hơn. Có lẽ bởi vì vợ anh thực sự đang nhảy nhót vui sướng ở tầng trên, âm thanh tiếp đất của cô dội qua trần nhà.
Những mục tiêu cho cuộc hôn nhân này của cô đã được thỏa mãn: Cô đã an toàn và tự do, cũng như dì cô. Anh sẽ chờ thêm một thời gian nữa, để Douglas bị xét xử và buộc tội, rồi sau đó anh sẽ yêu cầu hủy bỏ hôn nhân.
Nếu như vẫn còn có thể, anh mong muốn sửa chữa những thiệt hại cô đã gây ra. Khi anh có đủ thời gian và khoảng cách với cô, khuôn mặt và nụ cười của cô sẽ thôi xâm chiếm những tưởng tượng về sự yên bình và thanh thản của anh. Sau đó, khi anh muốn một mối quan hệ đơn giản, anh sẽ có một mối quan hệ đơn giản, và tất cả sự thoải mái dễ chịu đến cùng với nó.
Những cảm xúc quý bà Vere khơi lên quá đen tối, quá sắc nhọn và quá xáo trộn. Anh không muốn chúng. Anh không muốn tức giận, dục vọng hay khao khát nguy hiểm mà cô khơi dậy. Anh chỉ muốn mọi chuyện trở lại đúng như chúng vốn thế trước khi những con đường của họ va vào nhau: một cuộc sống nội tâm êm ả, thanh thản, yên bình và tách biệt với cuộc sống thực tế của anh.
Tựa như bà Douglas với cồn thuốc phiện.
Anh rót rượu whisky cho mình và uống cạn một hơi.
Trên tầng cô lại nhảy lên. Chẳng nghi ngờ gì là cô đang vừa cười vừa khóc, bay bổng với niềm hạnh phúc và sự giải thoát, cơn ác mộng của cô cuối cùng cũng chấm dứt.
Những cơn ác mộng của anh vẫn sẽ tiếp tục.
“Để em đọc cho anh một đoạn từ nhật ký của em, ‘ngày Mười hai tháng Tư năm 1884’”, Angelica nói. Cô hắng giọng đầy kịch tính. ‘“Trên bờ suối, tôi đọc và Freddie vẽ. Penny đang tranh cãi với một vị cha xứ đang đi dạo về Tính ngộ đạo và Ủy ban Nicaea gì đó”‘.
Cô nhìn lên. “Chúa tôi, còn nhớ Penny đã ham học như thế nào không?”
“Anh nhớ”, Freddie nói.
Nhưng anh chưa bao giờ nhớ đến nó mà không cảm thấy buồn man mác.
“Ít nhất bây giờ anh ấy có cuộc hôn nhân hạnh phúc. Vợ anh ấy dường như không hề thấy anh ấy kỳ quặc”.
“Điều đó làm anh hạnh phúc. Anh thích cách cô ấy nhìn Penny: Anh ấy có rất nhiều điểm tốt và đáng ngưỡng mộ”.
Angelica lướt ngón tay dọc lề của cuốn nhật ký bìa bọc da. “Nhưng?” cô gợi ý cho anh.
Anh mỉm cười. Cô hiểu anh quá rõ. “Anh sẽ thừa nhận rằng anh hơi ghen tị. Anh thường nghĩ nếu rốt cuộc anh trở thành một gã độc thân già cả, ít nhất anh luôn có Penny bên cạnh”.
“Anh luôn có thể có em ở bên cạnh”, cô nói. “Sẽ giống như được làm trẻ con lần nữa, ngoại trừ ít răng hơn”.
Anh đột nhiên nhớ đến một tình huống ít răng hơn. “Em có nhớ lần anh vô tình làm vỡ một cặp kính yêu thích của cha anh không?”
“Có phải lần em lấy trộm kính của mẹ em để thay thế và chúng ta hy vọng ông ấy sẽ không tìm ra không?”
“Ừ, đúng thế. Mẹ anh và Penny đều đang đi xa và anh đang sợ đến hết hồn. Và em gợi ý là chúng ta sẽ nhổ những cái răng lung lay của em để giúp anh không nghĩ đến cặp kính đó nữa”.
“Thật ư?” Cô cười khúc khích. “Em không nhớ phần đó chút nào”.
“Răng mới của em đã nhô lên. Và cái răng cũ của em đã lung lay đến mức chúng có thể lắc lư như một sợi dây phất phơ trong gió. Mọi người bám theo em để nhổ cái răng cũ, nhưng em kiên quyết không cho ai đến gần”.
“Lạy Chúa. Bây giờ em nhớ một chút rồi. Em thường bịt một cái khăn choàng cổ trên miệng khi đi ngủ để gia sư của em không thể nhổ chúng”.
“Anh đã quá ngạc nhiên khi em để anh làm thế đến mức anh quên béng cặp kính. Chiều hôm đó chúng ta đã nhổ bốn cái răng”.
Cô gập cả người để cười.
“Nghe này, rồi chuyện trở nên tốt hơn: cha anh làm rơi và đạp vào kính của mẹ em trước khi đeo nó lên và phát hiện ra nó không phải của mình.
Đó phải là một trong số ít lần mà sự vụng về của anh không làm người khác gặp rắc rối. Thật nhẹ nhõm, Chúa tôi”.
“À, một điều chắc chắn: Em sẽ không cho phép anh nhổ bất cứ cái răng nào khi em là một bà già đâu”.
Anh đưa tách cà phê lên như một sự đáp lễ. “Đã hiểu. Anh cũng náo nức được ở bên em khi trở thành một lão già lẩm cẩm”.
Cô đáp lại cái chào của anh, mắt cô sáng long lanh, và đột nhiên anh nhận ra, lần đầu tiên, rằng anh đã có đặc ân như thế nào để được biết cô cả cuộc đời. Thỉnh thoảng người ta coi thứ tốt đẹp nhất trong cuộc đời mình là nghiễm nhiên. Anh chưa bao giờ hiểu một cách đầy đủ rằng anh đã hoàn toàn phụ thuộc vào Penny như thế nào trước khi tai nạn của Penny thay đổi mọi thứ. Và anh chưa bao giờ nghĩ rằng tình bạn với Angelica đã đóng vai trò trung tâm trong cuộc đời anh như thế nào, đặc biệt trong những năm khó khăn, dễ bị tổn thương dưới bàn tay của cha anh - cho đến bây giờ, khi trong anh tràn ngập những cảm xúc đe đọa phá hủy chính tình bạn đó.
“Giờ thì chúng ta đang ở đâu nhỉ?” Cô đặt tách cà phê xuống và tìm thấy chỗ vừa dừng lại trong trang nhật ký. “Đây rồi. ‘Vị cha xứ rõ ràng thích thú với cuộc thảo luận, đã mời tất cả chúng tôi về nhà để uống trà’”.
“Chúng ta đã ở lâu đài Lyndhurst phải không?” Anh nói, bắt đầu nhớ lại. “Dự bữa tiệc lễ Phục sinh của nữ công tước?”
“Chính xác. Giờ hãy nghe đoạn này: ‘Trà rất ngon, và bà Vicar cũng rất tử tế, nhưng thứ thu hút sự chú ý của tôi là bức tranh trong phòng khách của cha. Một thiên thần xinh đẹp, chiếm gần hết bức vẽ, lơ lửng phía trên một người đàn ông rõ ràng đang trong tâm trạng mê đắm tôn sùng. Tên của bức tranh là Tình yêu của Thiên thần. Tôi hỏi bà Vicar tên của người họa sĩ – ông ta đã chỉ ký chữ ký tắt là G.C. Bà Vicar không biết, nhưng bà nói họ đã mua bức tranh từ Cipriani, một nhà kinh doanh nghệ thuật’”.
“Cipriani? Người không bao giờ quên bất kỳ thứ gì đã qua bàn tay ông ta?”
“Chính là người đó”, cô nói, rất hài lòng khép cuốn nhật ký lại. “Bây giờ ông ta đã nghỉ hưu rồi. Nhưng sáng nay em đã viết thư cho ông ta. Ai biết được chứ? Ông ta có thể chào đón chúng ta đến thăm”.
“Em là một người kỳ diệu”, anh nói, thật lòng từng từ một.
“Tất nhiên”, Angelica nói, chiếc váy đen sột soạt khi cô đứng lên. “Vì thế anh thấy đấy, em đã hoàn thành phần việc của mình theo thỏa thuận. Giờ đến lượt anh”.
Bàn tay anh toát mồ hôi. Anh khiếp sợ nhìn thấy cô khỏa thân lần nữa, ngay cả khi anh không thể đợi để đi vào phòng vẽ và để cơ thể xinh đẹp của cô phơi bày như một bữa yến tiệc trước mặt anh, một bữa yến tiệc dành cho người đàn ông phải ăn chay.
Anh đang làm việc với bức tranh, đầu anh tràn ngập những suy nghĩ dâm dục ngay cả khi anh phân tích màu sắc, bố cục và cách bài trí. Những giấc mơ của anh, đầy những màn gợi tình kể từ khi cô bắt đầu chủ đề về bức chân dung, đến giờ đã được chiêm ngưỡng sự sống động làm anh bấn loạn.
Anh hắng giọng một cách vô ích – và hắng giọng lần nữa. “Thế thì… anh nghĩ là em muốn đi lên phòng vẽ nhỉ?”
Freddie đã bố trí phòng vẽ sáng bừng – quá nhiều đèn, theo ý kiến của Angelica. Làn da của cô sẽ sáng lóa dưới ánh sáng như thế này, và cô luôn thích màu da trong bức tranh giống da thật hơn.
Trong phòng có một chiếc máy ảnh, không phải chiếc Kodak số 4 của Freddie mà cô đã nhìn thấy trước đây, mà là một máy ảnh chụp trong phòng phức tạp hơn nằm trên một giá gỗ ba chân, với một ống tiêu điểm và một miếng vải đen phủ đằng sau. Có cả một chiếc đèn chiếu, một khung căng vải thưa. Và rất nhiều khung căng vải trắng đặt ở nhiều góc độ khác nhau.
“Máy ảnh này để làm gì thế?” Cô hỏi khi anh bước vào phòng vẽ lần nữa, sau khi cô đã cởi đồ và nằm xuống.
“Để em làm mẫu quá lâu đúng là một việc nhàm chán – và anh không phải một người vẽ nhanh. Nhưng khi anh đã có những bức ảnh, anh có thể làm việc với chúng và em sẽ không cần phải run rẩy vì lạnh”.
“Ở đây không lạnh”. Một ngọn lửa đã được đốt lên trong lò sưởi và có rất nhiều lò than. Anh chắc phải ấm chứ.
“Giữ nguyên nào”.
“Nhưng những tấm ảnh không có màu sắc thật!”
“Có lẽ không, nhưng chúng thể hiện được sắc thái và độ tương phản, và anh đã biết chính xác màu sắc của làn da em,” anh nói, và biến mất sau tấm vải đen.
Sự thấy vọng siết lấy cô. Bức tranh khỏa thân là mưu mẹo để anh nhìn nhận cô như là một người đàn bà, chứ không chỉ là một người bạn. Và cô nghĩ ít nhiều cô đã thành công, anh đã nhìn cô thật lạ trong phòng tối, như thể anh sắp hôn cô. Nhưng khi anh đã có những bức ảnh, anh không chỉ không nhìn thấy cô khỏa thân, mà anh cũng không cần cô ở phòng vẽ nữa.
“Nếu những tấm ảnh bị rửa non hoặc rửa quá thì sao?”
“Gì cơ?” Tiếng của anh nghẹn lại bởi tấm vải đen.
“Nếu những tấm ảnh không có kết quả tốt thì sao?”
Anh lại xuất hiện từ sau máy ảnh. “Anh có cả nửa tá phim. Chắc chắn sẽ phải có một tấm đạt yêu cầu”.
Anh kéo cò trên đèn chiếu. Để bột magie cháy và tiếng nổ có kiểm soát tạo ra ánh sáng trắng phải mất một lúc. Anh lại cúi xuống dưới tấm vải đen.
Lần này khi anh xuất hiện, anh giơ cao chiếc đèn chiếu, đẩy khung vải thưa lên trước khoảng ba mươi centinmet, và điều chỉnh góc độ của khung vải trắng ở phía bên kia giường.
Chiếc khung chỉ cách mép giường khoảng sáu mươi centinmet. Khi anh ngẩng đầu lên, anh nhìn thẳng xuống cô, từ nơi dường như rất cao.
Cô hồi hộp liếm môi. Bàn tay anh siết chặt khung màn. Và sau đó anh bước đi, quay về với chiếc máy ảnh.
“Bây giờ anh sẽ chụp”, anh nói. “Hãy chắc là em ở đúng tư thế em muốn”.
Trái tim cô đập dồn dập, kích động bởi sự gần gũi và bởi vì anh cự trước sự quyến rũ của cô. Môi cô hé ra, hơi thở nông, cô quay đầu cho đến khi nhìn trực tiếp vào ống kính máy ảnh.
Đến chiều muộn Elissande mới chú ý đến phản ứng kỳ cục của dì Rachel.
Cả buổi sáng cô đã quá vui sướng, quá kích động nên cho rằng phản ứng câm lặng của dì Rachel chỉ là tâm trạng sững sờ sung sướng. Cô đã nhảy lên nhảy xuống như một con khỉ, mặc dù sự tiếp đất của cô giống với một con tê giác tiếp đất hơn, và khóc cho đến khi cô nhẹ đi vài cân.
Cô đã không nghĩ gì về yêu cầu uống thêm một ít cồn thuốc phiện của dì cô. Dì Rachel còn yếu. Tin tức ngày hôm nay thật sốc. Tất nhiên bà cần thời gian và nghỉ ngơi trước khi có thể đương đầu hoàn toàn với nó.
Khi dì Rachel ngủ thiếp đi, Elissande ngồi cạnh giường bà một lúc, nắm tay và vuốt tóc bà, cảm tạ vì dì Rachel đã sống để chứng kiến ngày hôm nay, và rằng bà vẫn còn nhiều năm phía trước để hưởng thụ, thoát hẳn sợ hãi và bóng tối.
Sau đó cô đi tìm chồng mình, không vì lý do gì ngoài việc cô muốn nhìn thấy anh, anh gần giống như một đồng minh của cô. Và trong cái ngày tuyệt vời, mãn nguyện này, còn ai tốt hơn để cùng ăn mừng ngoài anh?
Nhưng anh đã ra ngoài. Vì thế cô tự làm mình hài lòng bằng cách ra lệnh cho người đánh xe của anh đưa cô đi vòng quanh thành phố và hưởng thụ niềm vui ở London lần đầu tiên kể từ khi cô đặt chân đến. Cô quan sát những thanh niên đi xe đạp trong công viên, đi bộ hết các tầng của khu mua sắm Harrods và sau đó ở trong thư viện Hatchards thật lâu đến mức găng tay của cô hoàn toàn bị lấm bẩn bởi bụi sách.
Cô cũng đã đến phòng khám của Needham lần nữa và đề nghị ông giới thiệu một bác sĩ có chuyên môn về bệnh nghiện thuốc phiện. Kết quả là, Needham cho rằng ông có thừa kinh nghiệm trong vấn đề đó để giúp cô.
“Ông ấy nói rằng việc này không phải chịu đựng gì cả”, cô nói với dì Rachel khi cô về đến nhà. “Mỗi ngày dì sẽ uống một lượng thuốc bổ đặc biệt. Dần dần thuốc bổ sẽ giúp giảm lượng cồn thuốc phiện. Cơ thể dì sẽ dễ dàng điều chỉnh với lượng thuốc mới cho đến khi dì không cần uống cồn thuốc phiện nữa. Và nghĩ mà xem tất cả những sự hành hạ chú cháu bắt dì phải trải qua, khi ông ta có thể đã...” Cô xua xua tay. “Đừng để tâm đến ông ta. Chúng ta không bao giờ phải nghĩ đến ông ta nữa”.
Dì Rachel không nói gì. Bà rùng mình như thể bị lạnh. Elissande ngay lập tức đắp thêm cho bà một chiếc chăn, nhưng dì Rachel vẫn rùng mình lần nữa.