Ra khỏi cửa rẽ trái, đi khoảng một nén hương là lại tới gò đất
kia.
Tuy số lần tự đi qua gò này không thật nhiều nhưng cũng
không hề khó đi.
Không biết tại sao, kể từ ngày hôm qua, dường như nó rất
dài. Có lẽ là bởi sức khỏe vốn yếu ớt, bạc nhược, có thể là bởi cơn phong thấp
đau tận xương tối qua vẫn chưa hồi phục, hai tay chàng đẩy xe cho bản thân rất
khó khăn. Đi được một phần ba quãng đường, chàng đã mệt tới mức mồ hôi ướt đẫm,
không thể không dừng lại lau mồ hôi, điều chỉnh hơi thở đang hỗn loạn.
Từ cơn bạo bệnh cuối năm ngoái, thân thể chàng đến giờ vẫn
chưa khỏe trở lại. Các chứng bệnh lần lượt phát tác đi phát tác lại. Bản thân
lúc khỏe, lúc yếu.
Đến chàng cũng không biết rốt cuộc bệnh tình của mình còn có
thể trì hoãn được bao lâu trước khi ngã xuống. Chỉ biết khi mình còn chút sức lực
phải tranh thủ chữa trị thêm cho vài bệnh nhân, làm thêm một số việc.
Hơi thở quá loạn, tim đập thình thịch rất mạnh, chàng liền
nhắm mắt, điều chỉnh lại. Đến lúc mở mắt ra, đã thấy Ngô Du đứng trước mặt
mình.
Chàng vẫn đang thở dốc, không có sức nói chuyện.
“Tiên sinh, học trò đưa ngài đi, sắc mặt tiên sinh… sắc mặt
tiên sinh xấu đến mức độ này, nhất định không thể gắng sức. Cẩn thận… cẩn thận…”,
mỗi khi nàng lo lắng là lại nói lắp, cứ ấp a ấp úng.
Chàng ngồi thẳng lưng lại, đợi thêm một lúc cho hơi thở bình
ổn lại mới từ tốn lạnh nhạt nói: “Ta không sao, cô về trước đi, ta sẽ đến
ngay”.
“Nhưng… nhưng… học trò…”, nàng không muốn đi.
Chàng không để ý đến nàng nữa, tự mình lăn bánh xe tiến tới,
mặc nàng đứng nguyên ở chỗ cũ.
Nghiến răng nghiến lợi rốt cuộc cũng tới được cửa Dật Tiên
lâu, Ngô Du vội vàng chạy từ phía sau lên mở cửa giúp chàng. Sau đó đứng trước
mặt chàng quả quyết nói:
“Tiên sinh, học trò muốn chuyển chỗ.”
Chàng thả lòng bàn tay đang giữ bánh xe, nói: “Chuyển chỗ? Tại
sao?” .
“Nơi này trồng cây quế, học trò ngửi thấy là đau đầu”, nàng
hổn hển nói.
“Ngày mai ta sai người đến chặt hết là được.”
“Ở đây, mùa hè rất nhiều muỗi.”
“Cô nói xem, mùa hè ở đâu không có muỗi?”, chàng không nhanh
không chậm đáp.
“Bởi vì rất không công bằng”, cuối cùng nàng nói.
“Không công bằng, không công bằng ở chỗ nào?”, chàng ngẩng đầu
nhìn nàng.
“Chỗ của Sái đại phu, Trần đại phu cách cốc chủ không xa, rất
thuận tiện, có việc gì cần thỉnh giáo, tiên sinh đều đồng ý tới. Duy chỉ có chỗ
học trò là trên đỉnh gò, khiến tiên sinh đi lại không tiện, làm cho học trò mất
đi nhiều cơ hội học tập, cho nên học trò cho rằng rất không công bằng”, nói thế
nào vẫn là người đọc sách, muốn tìm lý do thì sẽ liên miên bất tuyệt.
“Cô muốn nói, ta ngại chỗ cô đường dốc quá dài, không chịu đến,
đúng không?”, chàng lãnh đạm nói.
“Không phải”, nàng đáp.
“Sao lại không phải?”, chàng cười khổ.
“Học trò chỉ sợ tiên sinh cứ thế này làm tổn thương thân thể.
Tóm lại, mặc kệ tiên sinh có cho chuyển hay không, hôm nay học trò sẽ thu dọn
chăn đệm, nếu tiên sinh không tìm chỗ cho học trò, học trò sẽ đến chuồng ngựa ở
cửa lớn Vân Mộng cốc”, Ngô Du thực sự tức đến đỏ hồng cả mặt rồi.
“Chuyện này… nếu cô đã quyết như thế, vậy thì đi tìm Triệu tổng
quản, bảo ông ấy sắp xếp cho cô đi”, chàng nhìn Ngô Du mà rất buồn cười. Còn
Ngô Du vẫn khí thế hừng hực đứng trước mặt chàng, chàng chỉ đành nói: “Sao rồi,
sao lại chặn ta trước cửa, đến trà cũng không cho uống thế này?”.
Sau ngày Mười lăm tháng Mười, bệnh nhân ở Vân Mộng cốc bỗng
nhiên nhiều lên. Không ngày nào mà lịch của tất cả các đại phu không kín mít, Mộ
Dung Vô Phong bận hơn ngày thường gấp mười lần. Không nói đến việc, hằng ngày
chàng không tránh được việc phải đến các nơi xem xét, giải quyết khó khăn mà cả
bệnh nhân riêng của chàng cũng vài lần khiến chàng thức thông đêm. Mỗi ngày ít
nhất đều bận rộn tới tận khi tiếng mõ cầm canh vang lên mới có thời gian rảnh
mà đọc bệnh án cả ngày hôm đó. Mà một khi bệnh nhân nhiều, bệnh án cũng sẽ nhiều,
bình thường một canh giờ là đọc xong, còn bây giờ hai canh giờ vẫn chưa đủ.
Tính ra thời gian được ngủ thật sự mỗi ngày đại khái không quá ba canh giờ.
Cứ bận rộn như thế, ba tháng vụt trôi qua, đã sang năm, đến
Tết Nguyên Tiêu rồi vậy mà Sở Hà Y dường như biến mất vào trong không khí,
không chút tăm hơi.
Không dễ gì mới qua được đợt vừa rồi, dịp Nguyên Tiêu mọi
người đều muốn treo đèn màu, tổ chức tiệc tùng. Ai dè thời tiết không ủng hộ, mấy
ngày liền tuyết rơi, chỉ hy vọng ngày hôm ấy tuyết ngừng trời trong, ai ngờ tuyết
đúng là ngừng rơi nhưng lại chuyển thành mưa lớn, còn thêm gió to, mọi người vốn
muốn tổ chức hội đèn cũng đành bãi bỏ, cuối cùng thì mở mấy bàn tiệc, đốt than
hồng hâm trà mới, cả cốc tràn ngập không khí ấm áp êm đềm.
Qua ba tuần rượu, thức ăn bê lên năm món, nói chuyện đến say
sưa, Sái Tuyên nói: “Chúng ta chỉ biết vui vẻ với nhau, không bằng chốc nữa uống
xong rượu, mọi người cùng tới thăm tiên sinh. Một mình tiên sinh ở trong Trúc
Ngô viện cũng tịch mịch lắm lắm. Hay là chúng ta tới tìm tiên sinh nói chuyện?”.
Trần Sách cười nói: “Ta thấy lão đệ ngươi uống nhiều quá rồi.
Tiên sinh là người không thích ồn ào. Những việc như ăn uống tiệc tùng như thế
này, trước giờ tiên sinh vốn chẳng bao giờ tham gia. Chỉ muốn một mình đọc
sách, uống trà. Tiên sinh thích ở một mình. Từ nhỏ đã như thế, có làm gì cũng
không thay đổi được”.
Triệu Khiêm Hòa cũng nói: “Sái đại phu chớ đi làm phiền cốc
chủ. Mấy tháng nay cốc chủ quá bận rộn rồi, tôi và Tạ tổng quản rất lo cho sức
khỏe của ngài, ông nói xem, có năm nào cốc chủ không đổ bệnh vào mùa đông? Mấy
tháng nay vừa lạnh, vừa ấm, tôi xem cốc chủ đã bị hành hạ đủ ốm rồi… Sớm nay
tôi còn khuyên cốc chủ nên nằm nghỉ thêm chút nữa, ngài ấy có chịu đâu”.
“Được rồi, được rồi, tôi thấy các vị mấy ngày nay toàn nói
chuyện bệnh tình của tiên sinh, chỉ sợ bệnh toàn từ miệng các vị mà ra đấy”,
Ngô Du ở cạnh bất mãn nói: “Qua Tết rồi, cũng nên nói mấy câu tốt lành chứ. Triệu
tổng quản, ông nói xem, mấy học trò chúng tôi cùng đến thăm tiên sinh liệu có
được không? Tôi chỉ lo trời lạnh thế này, tiên sinh ngồi một mình trong nhà, liệu
có quá hiu quạnh không?”
“Cốc chủ đã sớm dặn dò rồi, ngài thích yên tĩnh, người trong
cốc không được tự tiện vào Trúc Ngô viện. Quy củ ấy còn đấy, mấy người các vị
cũng chớ có lấy thân phận học trò yêu của cốc chủ mà đi vuốt râu hùm”, nhắc tới
quy củ, Tạ Đình Vân lại cố ý nghiêm mặt lại.
“Tạ tổng quản, uống rượu, uống rượu!”, Sái Tuyên vội vàng
đưa một bát rượu vào tay ông ta.
Rét đậm như vậy mà chàng vẫn chỉ khoác một chiếc áo choàng
trắng, chẳng qua chỉ đắp thêm lên chân một chiếc chăn Ba Tư. Khuôn mặt chàng
xanh xao hao gầy, còn thêm chút tiều tụy. Những ngón tay nắm lấy bản thảo vừa
dài vừa đẹp nhưng không có chút huyết sắc. Chàng tựa như đang trầm tư, lại tựa
như đang vô cùng mệt mỏi. Chàng đặt bản thảo trên tay xuống, nhấc chén trà, nhẹ
nhàng nhấp một ngụm.
Chàng vốn có thể dùng tay kia để làm việc này, có điều từ
vai đến cánh tay ấy vì phong thấp tái phát mà nhấc lên cũng khó khăn.
Từng cơn đau như kim châm âm ỉ kéo đến, chàng cũng đành lặng
lẽ chịu đựng. Những cơn đau này đã bầu bạn với chàng bao nhiêu năm rồi, dường
như từ khi sinh ra đã có.
Đặt chén trà xuống, chàng nghe thấy có người khe khẽ gõ cửa.
“Mời vào”, chàng ngẩng đầu, nhẹ nhàng nói.
Cánh cửa bật mở, chỉ thấy một người khoác trên mình cái áo
tơi to đùng bước vào, nước nhỏ xuống sàn tí tách. Người đó cởi bỏ áo tơi, đặt ở
cửa, lộ ra bộ y phục màu tím nhạt trên người, khuôn mặt còn đẫm mồ hôi, cả người
nàng như đang bốc hơi hừng hực.
Chàng nhìn nàng, cứ thế quên mất cả nói năng.
Người kia đem bọc hành lý đặt lên bàn rồi đi đến trước mặt
chàng, ngồi xuống bên cạnh ghế, ngẩng đầu nói: “Chàng không phải không nhận ra
ta chứ?”.
Chàng cười, có chút bẽn lẽn, nhưng vẫn không biết nên nói gì.
Người ngồi bên cạnh chàng chợt đứng bật dậy nói: “Không được,
ta phải đi tắm rửa. Cưỡi ngựa suốt mười ngày liền, bẩn chết mất”.
Chàng chỉ cho nàng hướng phòng tắm, còn chưa nói gì, nàng
như đã hiểu ý chàng, lập tức đi thẳng tới đó.
Trong căn phòng quả nhiên còn lưu lại mùi ngựa.
Qua một lúc, chỉ nghe thấy nàng gọi từ phía xa: “Mộ Dung Vô
Phong! Mộ Dung Vô Phong!”.
Chàng vội đi tới, đứng cách cửa hỏi: “Làm sao vậy?”.
“Quần áo… Ta không có quần áo sạch để thay.”
“Ừ, để ta đi hỏi Ngô đại phu, cô ấy có thể cho nàng mượn một
bộ”, chàng nghĩ ngợi rồi nói.
“Đồ ngốc. Quần áo của chàng chẳng lẽ không có bộ nào sạch sẽ
sao?”
Lấy một bộ quần áo trắng của mình, từ xa xa quăng lại cho
nàng, nàng bắt lấy trên không trung rồi nói một tiếng “Đa tạ”.
Qua một lúc nữa, nàng mặc bộ đồ trắng ấy tiến vào phòng.
Nàng mặc trên mình bộ đồ rộng càng lộ ra vẻ yểu điệu.
“Ta khát”, nàng cất tiếng, nói xong liền với chén trà trên
bàn của chàng một hơi uống sạch.
Chàng chỉ đành hỏi: “Nàng có đói không?”.
Nàng ra sức gật đầu một cái.
“Muốn ăn gì? Ta bảo người đi làm.”
“… Thịt kho tàu?”, nàng do dự một lát, cứ như đó là một món
rất khó làm.
“Thích cho thật nhiều ớt phải không?”, chàng nói thêm một
câu.
“Sao chàng biết?”
“Đoán”, nói rồi, chàng kéo một sợi dây bên cạnh bàn rồi bảo
người đi làm.
Đồ ăn và cơm được bưng tới rất nhanh. Nàng ăn như hổ đói, bộ
dạng như bị bỏ đói nhiều ngày rồi.
Ăn được một nửa, nàng mới ngẩng đầu lên, giải thích: “Không
phải ta đói đến thế, chỉ vì mỗi khi mệt đều ăn rất nhiều mà thôi”.
Chàng khẽ cười, nói: “Không cần vội, từ từ ăn”.
Nàng lại tiếp tục ăn như gió cuốn mây tan đến khi cơm canh sạch
bách.
Ăn xong, nàng ngồi xuống tấm thảm dưới sàn, bên cạnh chân
chàng, dáng vẻ rất hài lòng, thỏa mãn, đưa tay về phía chậu đồng, sưởi ấm.
“Tại sao đang dịp Tết chàng vẫn ở đây một mình?”, nàng xoay
đầu lại nhìn chàng, hỏi.
“Như thế này không tốt?”, chàng hỏi lại.
Nàng nghĩ một lúc rồi nói: “Cũng không có gì không tốt, chỉ
là…”, nàng đưa tay vỗ nhẹ lên mắt cá chân và đầu gối đã sưng phù tới mức biến dạng
của chàng, không kìm được thở dài một tiếng, nói: “Chàng trước giờ không biết
chăm sóc tốt cho bản thân. Khiến ta lo lắng”, nàng đứng dậy, đóng kín cửa lại.
“Nàng mới từ núi Nga My về?”, chàng hỏi.
Nàng bật cười nói: “Xem ra chữ ta viết không sai. Những chữ
ta viết được không nhiều, còn cho rằng chàng sẽ không nhận ra nổi đấy”.
“Còn may, đều hiểu được”, chàng cười nhẹ, nói.
“Chàng là người có học vấn, không được cười ta không biết viết
chữ”, nàng đỏ mặt nói.
“Sao dám”, chàng đáp.
“Về đến đây thật tốt”, nàng nhẹ nhàng thốt, rồi chợt nhíu
mày, đưa tay ôm bụng.
“Làm sao thế?”, chàng cúi người hỏi: “Nàng bị thương sao?”.
Nàng lắc đầu, khuôn mặt thoáng chốc đỏ ửng lên.
“Ngồi lại đây, để ta xem xem”, chàng không yên tâm nói.
“Đừng nói cái ấy vội, chúng ta nói chuyện khác trước”, nàng
đẩy tay chàng ra.
Chàng vẫn cứ kéo nàng lại trước mặt, nói: “Sao lại không thoải
mái? Hay là nàng động thủ với ai, bị thương rồi?”.
Nàng cúi gằm đầu xuống, nghĩ ngợi, sau đó nắm lấy tay chàng,
nhẹ nhàng nói: “Mộ Dung Vô Phong, ta nói cho chàng một tin này, chàng… chàng đừng
lo lắng”.
“Tin gì?”, chàng hỏi, nghi hoặc nhìn nàng.
“Chúng ta… chúng ta… đã có con”, mấy chữ sau cùng nói nhỏ
như muỗi kêu. Nói xong, nàng ngẩng đầu, có chút ngượng ngùng, lại có chút vui mừng
nhìn chàng: “Chàng có vui không?”.
Giây phút ấy, khuôn mặt chàng đã trắng bệch.
“Con”, chàng khẽ lẩm nhẩm, tay đặt lên mạch của nàng, quả
nhiên nàng đã mang thai ba tháng.
“Đại khái do nàng cưỡi ngựa quá nhiều, không tránh khỏi có
chút ảnh hưởng tới thai khí”, chàng cố gắng trấn định bản thân nói: “Ta sẽ sắc
cho nàng ít thuốc, uống vào sẽ ổn”.
Chàng viết mấy chữ, kéo dây chuông, sai người đi làm.
Một lúc sau thuốc được bưng lên, nóng hôi hổi.
Hà Y một hơi uống cạn, nói: “Ta cũng rất lo lắng, chẳng qua
với tính khí của ta, không cưỡi ngựa lẽ nào lại ngồi xe. Ta đã ngồi xe đi một
đoạn nhưng phu xe kia quả thật chậm muốn chết mất”.
Nàng nhìn chàng. Không hề, rõ ràng chàng không hề vui.
“Hà Y, nàng ngồi gần lại đây, ta có lời muốn nói”, giọng nói
của chàng có chút lạnh lùng.
“Nói đi”, nàng nhìn chàng, trong lòng bỗng dâng lên bao
nhiêu nghi vấn.
“Chúng ta không thể có đứa con này”, chàng nói rõ từng chữ từng
chữ.
“Chúng ta có thể mãi mãi sống với nhau, nhưng chúng ta không
thể có con”, chàng trầm giọng nói.
Nàng đứng bật dậy, mặt đã tái xanh, nói: “Ta không hiểu”.
Chàng ngập ngừng, cuối cùng cũng nói ra: “Hà Y, đứa bé này
sinh ra sẽ chỉ có thể giống ta, mang tất cả bệnh tật của ta, hơn nữa cũng sẽ là
một người tàn phế”, khi cất tiếng, giọng của chàng đã mang chút đau đớn. “Ta
không muốn thấy lại có thêm một người phải giống như ta, sống cuộc đời hệt như
ta.”
“Không thể như thế!”, nàng bước tới, vuốt má chàng, nói:
“Con của chúng ta… sao có thể? Chàng là thần y mà? Cho dù nó thực sự mang bệnh,
chàng cũng có thể chữa trị, đúng không?”.
“Ta đã chữa trị được bệnh của mình sao?”, chàng kiên quyết
nói: “Con của chúng ta, dù có sinh ra cũng sẽ chịu khổ. Cho nên nhất định không
thể”.
Hà Y buông thõng tay xuống, cười lạnh: “Chàng có muốn hay
không, chẳng liên quan. Ta vĩnh viễn không từ bỏ đứa con của mình. Đứa bé này,
ta nhất định sẽ sinh ra. Chàng… chàng cứ coi như không quen biết ta là được rồi”.
Khuôn mặt chàng đã khôi phục lại vẻ lạnh lùng lúc trước,
nói: “Nàng vừa uống thuốc rồi, đứa trẻ ấy hôm nay sẽ ra thôi”.
“Chàng… chàng nói cái gì? Chàng cho ta uống cái gì?”, nàng vừa
cuống vừa giận, trong bụng đã bắt đầu dấy lên cơn đau.
Nàng đột nhiên quỳ xuống, níu lấy tay áo chàng, khóc lóc:
“Ta van xin chàng, Mộ Dung, ta van xin chàng, chàng cứu nó đi! Chàng có thể giải
thuốc ấy đúng không, có thể cứu nó đúng không? Chàng nhất định có cách giữ nó lại,
đúng không?”.
Chàng kiên quyết lắc đầu, nói: “Hà Y, nghe lời ta, nàng mau
nằm lên giường, đứa bé sẽ ra rất nhanh, nàng sẽ sớm quên được nó”, chàng đỡ
nàng lên, kéo nàng đến phòng ngủ.
“Không! Ta không đi! Mộ Dung Vô Phong! Chàng là hung thủ! Là
kẻ giết người!”, Hà Y đẩy Mộ Dung Vô Phong, xông ra khỏi cửa, hét lên: “Nếu con
của ta có mệnh hệ gì, ta vĩnh viễn không tha thứ cho chàng! Vĩnh viễn không!”,
nàng đã chìm vào cơn mưa to gió lớn. Chàng cũng xông ra khỏi cửa theo nàng,
nhìn nàng chạy càng lúc càng xa, dù thế nào chàng cũng không thể đuổi kịp nàng.
Toàn thân đã bị mưa lớn xối ướt. Đưa mắt dõi theo, bóng dáng nàng đã biến mất
trong màn mưa.
Đã là tiệc tùng, tự nhiên cực kỳ náo nhiệt. Mọi người uống
rượu, chơi phạt rượu cho đến lúc say túy lúy, đầu óc mơ màng. Hết bình này đến
bình khác, ăn hết một lượt bánh cá rán trong trấn vừa mang đến tặng, ồn ào tới
tận đầu giờ Hợi[1] mọi người mới từ từ giải tán.
[1] Giờ Hợi là từ 21-23 giờ.
Triệu Khiêm Hòa khoác áo khoác, nói lời từ biệt với các vị đại
phu rồi kéo Tạ Đình Vân ra đại sảnh.
“Lão Tạ, bọn ta đến chỗ cốc chủ xem sao. Ngài ấy là người
hay bỏ qua việc của mình, rất ngại làm phiền người khác, chỉ sợ lò than đã đốt
hết rồi cũng lười chẳng buồn gọi người vào lấy thêm. Lại để bản thân lạnh
cóng.”
“Đúng đấy. Tôi xem mấy tháng nay cốc chủ bận đến mức chẳng
nghỉ ngơi mấy, chỉ sợ quá sức đến sinh bệnh, ai ngờ tới giờ vẫn khỏe. Vụ mùa
đông năm ngoái, tới giờ tôi vẫn còn sợ”, Tạ Đình Vân uống hơi nhiều rượu, nói
năng đã có chút líu lưỡi.
“Lão huynh uống nhiều quá rồi. Về nhà lại bị chị dâu mắng
cho mà xem. Đúng rồi, nghe bảo Hạ Hồi đi rồi sao?”
“Đi lâu rồi. Náo nhiệt một trận, ai cũng cho rằng hắn và Sở
cô nương sẽ tỉ kiếm, từ bốn phương tám hướng ùn ùn kéo tới. Không giấu gì lão
huynh, tôi cũng cược vào đấy hai trăm lạng đấy. Vậy mà vị kia lại bắt tôi đi
khuyên thôi chuyện ấy. Việc này biết làm thế nào, ít nhiều gì cũng là phái Nga
My mất thể diện đấy.”
“Ấy ắt là cốc chủ lo cho sự an nguy của Sở cô nương, nên mới
bảo ông làm thế.”
“Cốc chủ ít khi sai bảo chuyện gì, mà tính khí của Hạ Hồi,
việc đã muốn làm, có đem chín con ngựa ra kéo cũng chẳng làm hắn đổi ý được… Lần
này không được sẽ tìm lần sau.”
“Ông kiếm cách mà ngăn hắn lại. Kiếm của hắn không có mắt.
Làm Sở cô nương bị thương, tôi không bắt đền huynh thì sẽ có người khác đến hỏi
tội ông.”
“Biết rồi. Chẳng phải vừa nghe nói Sở cô nương lên núi Nga
My, tôi bèn lừa hắn chạy lên tây bắc sao. Yên tâm đi, tạm thời bọn họ không thể
đụng đầu nhau.”
“Vẫn là ông có cách.”
Vừa đi vừa nói, thoáng chốc đã tới cổng lớn của Trúc Ngô viện,
men theo hành lang, đi tới thư phòng của Mộ Dung Vô Phong. Cửa phòng mở toang,
bên trong không có một ai.
“Người đâu rồi?”, Triệu Kiêm Hòa nói. Nhìn thấy chiếc áo tơi
đặt ngoài cửa: “Hôm nay có người ngoài tới?”.
Tạ Đình Vân nhíu mày, nói: “Không thể. Buổi sáng cốc chủ đã
dặn không muốn tiếp khách, chỉ muốn ở trong phòng đọc sách. Cho nên tôi mới
ngăn mấy người kia lại”, nói xong, Tạ Đình Vân đi tìm từng gian phòng một,
phòng ngủ không có, phòng sách không có, phòng khách cũng không, phòng khám vẫn
không có. Một mạch bảy, tám gian phòng đều không thấy bóng dáng Mộ Dung Vô
Phong.
Quay lại thư phòng, Triệu Khiêm Hòa đã kéo chuông gọi người
trực đêm.
Người trực đêm cũng họ Triệu, tên là Đại Hổ.
“Đại Hổ, ngươi có biết cốc chủ đi đâu không?”
“Không biết ạ”, Triệu Đại Hổ đáp. Thật ra phòng trực ban nằm
ngoài Trúc Ngô viện, cách thư phòng rất xa.
“Cốc chủ có từng gọi ngươi không?”
“Có, có gọi hai lần. Lần đầu tiên sai tiểu nhân đến nhà bếp
gọi đầu bếp làm một bát thịt kho tàu. Một lần nữa là đưa cho tiểu nhân một
phương thuốc, bảo tiểu nhân tới dược phòng lấy thuốc.”
“Cốc chủ có khách nào ở bên không?”
“Có. Là một vị cô nương. Hai người họ có vẻ rất vui”, Triệu
Đại Hổ thành thực trả lời.
“Ngươi không nhận ra cô nương ấy?”, Tạ Đình Vân hỏi.
“Không nhận ra. Tiểu nhân tuy đã trực ở đây hai tháng rồi
nhưng cốc chủ tổng cộng chỉ gọi có hai lần, đều là trong ngày hôm nay, Đại Hổ
đáp.
“Ngươi về nghỉ đi”, đợi Triệu Đại Hổ đi khỏi, Triệu Khiêm
Hòa thở dài một tiếng, nói: “Chắc chắn là Sở cô nương đã quay về. Nếu không vào
lúc này, cốc chủ sẽ không ra ngoài”.
Tạ Đình Vân gật đầu: “Nhất định là cô ấy. Ông nhìn xem, dưới
đất hãy còn thanh Ngư Lân Tứ Kim Kiếm. Bọc hành lý này hẳn cũng là của cô ấy.
Cô ấy quay về chắc cốc chủ rất mừng, Sở cô nương khinh công rất tốt, có lẽ là
đưa cốc chủ… đưa cốc chủ… ra ngoài uống rượu chăng?”, ông ta đoán, cũng cảm thấy
điều mình nói ra hơi hoang đường.
“Không đâu, chẳng phải cốc chủ đã gọi nhà bếp làm đồ ăn sao?
Thịt kho tàu? Món này nhất định là làm cho Sở cô nương. Bản thân cốc chủ rất ít
khi ăn những món có vị nặng như vậy”, Triệu Khiêm Hòa nhìn tấm chăn Ba Tư để
trên bàn, nói tiếp: “Kể cả có ra ngoài đi nữa, cốc chủ sao không mặc thêm y phục,
tấm chăn lông đắp chân cũng không mang theo, lẽ nào Sở cô nương lại vô ý như thế?”.
Nghĩ một lúc, ông ta lại nói: “Liệu có phải người của Đường
môn? Nhân lúc chúng ta uống rượu lén bắt cốc chủ đi rồi?”.
Tạ Đình Vân lắc đầu: “Người của Đường môn muốn vào cốc là rất
khó, muốn vào tới Trúc Ngô viện lại càng khó. Không phải là người cốc chủ nhận
biết vốn không thể vào đây. Huống chi, cốc chủ từ trước đến nay không để người
khác lo lắng, mỗi lần ra ngoài đều có dặn lại, tuyệt đối không có chuyện không
nói năng gì mà biến mất”.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Đấy là tôi đoán tình huống xấu nhất.
Liệu có phải Sở cô nương bắt cóc cốc chủ rồi?”.
Tạ Đình Vân cười vang, nói: “Lão huynh lú lẫn rồi. Nếu Sở cô
nương muốn bắt cốc chủ còn cần đợi tới tận bây giờ sao? Tôi nghĩ quá nửa là hai
người họ ra ngoài chơi rồi. Ngại chúng ta đi theo nên mới mất tăm mất tích như
thế. Việc này dễ thôi, tôi lập tức đi hỏi người gác cổng là biết ngay”.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Tôi không an tâm, ông cứ đi hỏi đi”,
nói xong, chợt đưa mắt nhìn ra bên ngoài hành lang. Bên ngoài đang mưa lớn, gió
thổi dãy đèn lồng đung đưa lắc lư. Lờ mờ, trong viện hình như có bóng người.
“Trong viện có người!”, tựa như có dự cảm chẳng lành, hai
người lao ra ngoài.
Vừa nhìn thấy, mấy phần hơi rượu trong đầu hai người đã vì
kinh sợ mà bay sạch!
Mộ Dung Vô Phong ngồi bất động trên chiếc xe lăn. Không những
toàn thân trên dưới đã ướt sũng mà có vẻ như hoàn toàn mất đi tri giác.
“Cốc chủ!”, Triệu Khiêm Hòa chạm vào người chàng, làm gì có
chút hơi ấm nào?
“Nhanh gọi Trần đại phu và Sái đại phu”, Tạ Đình Vân không
do dự bảo, rồi bế chàng vào phòng ngủ thay toàn bộ quần áo ướt ra. Bắt mạch, mạch
cực yếu, đã rất nguy kịch rồi. Tạ Đình Vân vốn là người trong võ lâm, không hiểu
biết gì về y thuật, tuy có một thân võ nghệ nhưng vào giây phút sống còn này
cũng không dám làm bừa, chỉ đành đem hai lò sưởi ở thư phòng vào phòng ngủ. Đợi
tới mức cảm thấy một khắc tựa như thiên thu, Trần Sách và Sái Tuyên đã chạy tới.
“Trong phòng chỉ có thể để một lò sưởi, khí than quá nặng,
tiên sinh không chịu nổi”, Sái Tuyên vừa vào cửa nói ngay.
Tạ Đình Vân vội vàng đem một lò ra khỏi cửa.
Trần Sách bắt mạch, than một tiếng, nói: “Lần này gay to rồi.
Rốt cuộc tiên sinh đã dầm mưa bao lâu?”.
“Không biết, khoảng một canh giờ?”, Triệu Khiêm Hòa đoán.
Trần Sách cúi đầu, nói: “Hiện giờ mạch của tiên sinh đã
không có nữa rồi”.
“Huynh nói sao?” Sái Tuyên chạy tới, đặt tay lên cổ tay Mộ
Dung Vô Phong, lo lắng nói: “Nguy rồi, đúng là không có!”.
Triệu Khiêm Hòa lo tới choáng váng, giậm chân nói: “Hai vị
nhanh nghĩ cách đi, mạng của cốc chủ giờ trông cậy vào hai người đấy!”.
Sái Tuyên đã cắm trên đầu, trên người Mộ Dung Vô Phong mười
mấy cây châm, không mảy may có chuyển biến, Sái Tuyên vội rút châm ra, dùng sức
đập xuống ngực chàng.
Triệu Khiêm Hòa đứng một bên, run rẩy hỏi: “Cốc chủ… cốc chủ
vẫn còn khí huyết?”.
“Không có mạch, lấy đâu ra khí huyết?”. Tạ Đình Vân đứng bên
cạnh không giúp được gì, lo lắng tới mức mồ hôi ướt đẫm trán.
“Thế nào rồi?”, Sái Tuyên hỏi Trần Sách đang ở bên cạnh bắt
mạch.
“Tim vẫn không đập. Nhanh lên không thì không kịp mất!”
“Tạ tổng quản!”, Sái Tuyên đột nhiên nói” Xin dùng nửa thành
công lực vỗ ba cái xuống ngực tiên sinh”.
Tạ Đình Vân đưa tay, án theo lời dặn vỗ ba cái xuống ngực Mộ
Dung Vô Phong.
“Sao rồi?”, ba người khẩn trương nhìn Trần Sách.
Ông ta vẫn lắc đầu, không những mặt đã sợ đến tái nhợt mà
còn có vẻ thương tâm, bật khóc: “Lần này, chỉ sợ tiên sinh thật sự sẽ qua đời mất”.
Sái Tuyên không để ý tới Trần Sách, tiếp tục bảo Tạ Đình
Vân: “Tạ tổng quản, lần này… xin ông nâng thành hai thành công lực. Ta biết tiên
sinh không chịu được, có thể có nội thương, nhưng giờ ta chỉ mong tim tiên sinh
đập trở lại. Những cái khác để sau hẵng nói”.
Tạ Đình Vân thận trọng gật đầu, duỗi tay vận hai thành công
lực, lại vỗ xuống ngực Mộ Dung Vô Phong ba cái.
Chỉ nghe thấy Trần Sách reo lên: “Có nhịp tim rồi”, bốn người
nhìn nhau, đều cảm thấy mừng rỡ vô hạn!
“Vẫn còn rất yếu”, Trần Sách nhíu mày: “Cũng không biết còn
có thể kiên trì thêm bao lâu”, nói xong vội vàng đứng dậy: “Ta đến dược phòng lấy
thuốc, các vị ở đây trông tiên sinh”.
Triệu Khiêm Hòa thở phào một tiếng, cảm thấy hai chân nhũn
ra, nói: “Cốc chủ… sống lại rồi?”.
“Hiện giờ tạm thời sống rồi, nhưng còn rất khó nói”, Sái
Tuyên lên tiếng. Nhìn thấy trong mắt của Triệu, Tạ hai người vẻ lo sợ, Sái
Tuyên đành an ủi: “May là thân thể tiên sinh đã dần dần ấm lại rồi, chỉ cần
chúng ta cẩn thận một chút, nhất định tiên sinh có thể chuyển biến tốt”.
Trong lúc nói chuyện, Trần Sách đã bưng một bát thuốc và một
viên dược hoàn lên.
“Răng cắn chặt, làm thế nào đây?”
Hai người ra sức mở miệng Mộ Dung Vô Phong, đổ bát thuốc vào
miệng chàng. Nhưng Mộ Dung Vô Phong “ọe” một tiếng, không những nôn toàn bộ thuốc
ra mà còn thổ ra một búng máu tươi.
Triệu, Tạ hai người nhìn đến ngây ra. Triệu Khiêm Hòa là người
làm ăn, đương nhiên rất ít khi thấy những cảnh thế này, kể cả là Tạ Đình Vân
nhìn thấy cũng không tránh khỏi hoảng hốt.
Hai vị đại phu kia vẫn bình thường như không, lấy vải băng
lau sạch máu trên ngực Mộ Dung Vô Phong, rồi lại đem số thuốc còn lại cho chàng
uống.
Lần này cuối cùng chàng cũng nuốt xuống, còn bật ho dữ dội.
Bốn người mặt sầu mày thảm nhìn Mộ Dung Vô Phong. Sái Tuyên
không kìm được nói: “Tiên sinh còn có sức để ho… đây là việc tốt”.
Đợi cho đến khi cơn ho của Mộ Dung Vô Phong ngừng, chàng lại
chìm vào giấc ngủ. Lúc này bốn người mới thở nhẹ một hơi. Trần Sách lưu lại
trông nom, ba người còn lại đi sang phòng bên thương lượng đối sách.
Sái Tuyên nói: “Tim tiên sinh vốn yếu, ngày thường mà quá
lao lực đều không tránh khỏi đập loạn nhịp. Sao có thể để nhiễm dù chỉ một chút
hơi lạnh? Sao tiên sinh lại dầm mưa một mình trong Trúc Ngô viện?”.
“Bọn tôi cũng vừa mới tới, không biết đã có chuyện gì. Chỉ
biết có thể có liên quan tới Sở cô nương”, Triệu Khiêm Hòa và Tạ Đình Vân nhìn
nhau rồi lắc đầu.
Sái Tuyên nói: “Ai là Sở cô nương?”.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Đó là… ài. Ông không quen đâu. Thời
gian cô ấy ở đây cũng không quá hai ngày”.
Sái Tuyên thốt: “Sở cô nương ở trong Trúc Ngô viện?”, ai mà
không biết Trúc Ngô viện này, không có sự đồng ý của Mộ Dung Vô Phong, đến
chính học trò của chàng cũng không được vào.
Triệu Khiêm Hòa hắng giọng, nói: “Việc này… bên trong có
chút uẩn khúc, không tiện nói nhiều”.
Sái Tuyên thở dài một tiếng, chàng vốn là một người rất ít
khi thở dài: “Tình hình hiện giờ của tiên sinh vẫn rất nguy kịch. Chúng ta phải
thương lượng xem ba tháng tới phải làm thế nào”.
Tạ Đình Vân kinh hãi nói: “Ý ông là, ba tháng tới tiên sinh
cũng chưa thể khỏe lên?”.
“Đấy đã là ước đoán lạc quan nhất rồi. Ít nhất trong mười
ngày tới khả năng tiên sinh tỉnh lại là rất nhỏ, thậm chí bất cứ khi nào cũng
có thể… có thể…”, câu sau Sái Tuyên cảm thấy khó nói ra nhưng Triệu, Tạ hai người
đều hiểu rõ ý tứ trong đó.
“Tin tức này phải được giữ kín”, Triệu Khiêm Hòa nói, “Nếu
không trong cốc loạn đã đành, ngoài cốc cũng sẽ loạn”.
“Việc bên ngoài cứ để Quách tổng quản chủ trì đi. Hai người
chúng ta trực ở đây. Về các đại phu, chỉ sợ không đủ người, Tạ Đình Vân nhìn
Sái Tuyên nói.
“Tôi với Trần đại phu ở lại đây, làm phiền Tạ tổng quản đi gọi
Vương đại phu tới. Để ba người chúng tôi lo liệu, tạm thời cũng đủ.”
“Là vị Vương đại phu nào?”, Triệu Khiêm Hòa hỏi, bên trong,
bên ngoài cốc tổng cộng có ba vị đại phu họ Vương.
“Vương Tử Kinh. Anh ta đang trên đường về nhà người thân ở
Giang Lăng rồi, chắc là vừa mới lên đường. Nếu bây giờ đuổi theo còn kịp.”
“Tôi đi đuổi theo”, Tạ Đình Vân nói rồi thoắt cái đi mất
không thấy đâu nữa.
“Ngô đại phu thì sao? Nếu như không đuổi kịp Vương đại phu,
gọi Ngô đại phu được không?”, Triệu Khiêm Hòa hỏi.
Sái Tuyên thoáng nghĩ rồi nói: “Nếu là chữa cho người khác
thì không thành vấn đề nhưng đây là cho tiên sinh. Lần trước Ngô đại phu… chẳng
phải cũng đổ bệnh luôn sao? Tôi sợ cô ấy thấy tiên sinh bệnh thành như thế này
nhất định sẽ đau lòng quá độ rồi rối tung lên”.
“Cứ thế vậy. Chúng ta nói với bên ngoài rằng cốc chủ nhiễm
phong hàn, phải nghỉ ngơi vài tháng. Năm ngoái ngài từng bệnh rồi, nói như thế
cũng có thể qua mắt được mọi người.”
Sái Tuyên nói: “Tình hình hiện giờ, chỉ cần tiên sinh tỉnh lại
là được. Đợi tiên sinh tỉnh lại, mọi sự sẽ tốt thôi. Chính tiên sinh là đại phu
tốt nhất rồi”.
Triệu Khiêm Hòa gật đầu: “Tôi chỉ sợ… ài”, nói rồi đứng dậy,
cùng với Sái Tuyên tiến vào phòng ngủ.
Mấy người túc trực bên Mộ Dung Vô Phong mười một ngày liền,
đến áo cũng không thay, Mộ Dung Vô Phong vẫn hôn mê như cũ, không những không
ăn cháo mà uống thuốc cũng toàn phải ép vào, cả người gầy rộc hẳn đi. Đến sáng
sớm ngày thứ mười hai, chàng đột nhiên tỉnh lại.
Sái Tuyên và Trần Sách đang ở bên cạnh, mừng rỡ thốt: “Tiên
sinh, ngài… ngài tỉnh lại rồi!”.
Bộ dạng của chàng không những vô cùng tiều tụy, yếu ớt mà
thân sắc cũng có chút hoang mang hoảng hốt, tỉnh lại rồi mà tựa như vẫn đang ở
trong mộng.
Không nói nhiều, Trần Sách lập tức đem đơn thuốc mình cùng với
Sái, Vương hai vị đại phu thảo luận viết ra đưa đến trước mặt Mộ Dung Vô Phong,
hỏi: “Tiên sinh, đơn thuốc này bọn học trò kê đã ổn hay chưa?”, trong đầu nghĩ
nhân lúc Mộ Dung Vô Phong tỉnh táo phải để chàng xem đơn thuốc ấy còn thêm gì
không, chỉ sợ chàng lại hôn mê tiếp.
Mộ Dung Vô Phong đến liếc cũng chẳng thèm liếc lấy một cái,
mở miệng nói mấy chữ, âm thanh rất nhỏ, mọi người đều không nghe rõ.
“Tiên sinh, tiên sinh muốn nói gì?”, Sái Tuyên kề tai sát miệng
chàng, chỉ nghe chàng lắp bắp mấy chữ: “Triệu… Triệu…”.
“Triệu tổng quản? Tiên sinh muốn gặp Triệu tổng quản?”
Chàng cũng chẳng còn sức gật đầu, chỉ đành chớp mắt.
Sái Tuyên vội vàng bước ra khỏi phòng, tới phòng bên kéo Triệu
Khiêm Hòa túc trực suốt đêm vừa mới chợp mắt sang.
“Ngươi đi… đi tìm… Sở…”, tuy chỉ nói được vài chữ, Triệu
Khiêm Hòa hoàn toàn hiểu ý chàng. Đi tìm Sở cô nương. Mười mấy ngày nay đúng là
hồ đồ thật rồi, mọi người đều quên mất việc của Sở cô nương.
“Thuộc hạ lập tức đi ngay!”
Hai canh giờ sau, Triệu Khiêm Hòa quay lại Trúc Ngô viện,
theo sau còn có một bà già.
Mấy vị đại phu đều kinh ngạc nhìn bọn họ.
Triệu Khiêm Hòa dẫn bà lão vào thư phòng, cung kính dâng
trà, nói: “Thôi bà bà ngồi đây một chút, uống chén trà trước đã”.
Rõ ràng bà lão ít khi tiếp xúc với người ngoài, cử chỉ rất
ngượng ngập. Cầm cái chén điêu khắc bằng bạch ngọc trên tay, nhìn đi nhìn lại,
cuối cùng vẫn không dám uống.
“Đây là trà Lão Quân Mi vừa được đem tới, cho thêm vài lát sâm,
mùi vị rất ngon, bà bà cứ nếm thử một chút. Nếu như thích, ở chỗ tôi còn một
túi, lúc ra về sẽ tặng bà bà. Đây là ba mươi lượng bạc, gọi là có lòng thành”,
Triệu Khiêm Hòa đặt ba đĩnh bạc trước mặt bà lão. Bà lão không nén được mừng ra
mặt, cười nói: “Cảm ơn lão gia”.
Triệu Khiêm Hòa vén mành bước vào, Mộ Dung Vô Phong đang nằm
yên trên giường, hít thở vẫn còn chút gấp gáp.
“Cốc chủ khỏe hơn chưa?”, ông ta hỏi Sái Tuyên.
“Đã ăn một chút cháo, vẫn chưa thể nói chuyện. Nhưng tiên
sinh một mực đợi ông quay lại, chưa hề chợp mắt”, Sái Tuyên khe khẽ nói bên tai
Triệu Khiêm Hòa.
“Ừm. Các vị tạm thời ra thư phòng một lúc, cốc chủ muốn gặp
một người.”
Lát sau, tất cả mọi người đều ra ngoài. Triệu Khiêm Hòa dẫn
bà lão tới bên giường Mộ Dung Vô Phong, lấy một chiếc ghế cho bà, nói: “Thôi bà
bà, xin mời ngồi. Thiếu gia nhà tôi đang bệnh, không thể ngồi dậy nói chuyện”.
Thôi bà bà hỏi: “Thiếu gia mắc bệnh gì thế?”.
“Chẳng qua chỉ là nhất thời hoa mắt chóng mặt. Bà bà, phiền
bà đem mọi việc của Sở cô nương, từ đầu đến cuối, kể tỉ mỉ lại. Tốt nhất là người
nhớ được gì đều nói hết ra.”
Nói rồi Triệu Khiêm Hòa bước tới trước mặt Mộ Dung Vô Phong,
nói thầm vào tai chàng: “Tiên sinh, đây là Thôi bà bà, là bà đỡ của Thần Nông
trấn”.
Người thanh niên nằm trên giường gắng sức ngước mắt nhìn bà
lão một cái, gọi là chào hỏi.
Triệu Khiêm Hòa ra hiệu cho Thôi bà bà bắt đầu kể.
“Ngày hôm đó…”, Thôi bà bà nói.
“Ngày hôm đó là ngày nào?”, Triệu Khiêm Hòa vội hỏi.
“Hôm đó là tối đêm Nguyên Tiêu. Lão đang ở nhà dỗ cháu ăn
bánh thì có một tiểu nhị ở quán trọ Vĩnh Xương tới tìm lão, nhờ lão đi giúp một
chuyến”, bà lão ngừng một chút rồi nói tiếp: “Đã quá đêm rồi, lại mưa lớn nữa,
lão vốn không muốn đi, nhưng tiểu nhị kia cho lão hai mươi lượng bạc. Mỗi lần
lão đỡ cho người khác chỉ được ba cắc bạc, trước giờ chưa bao giờ thấy nhiều tiền
đến thế, lão bèn nhận tiền rồi đi”.
“Tiểu nhị đưa lão đến quán trọ Vĩnh Xương, vừa năm mới, mọi
người đều về nhà cả rồi, nơi ấy vắng vẻ yên tĩnh lắm, thực ra cũng chẳng có bao
nhiêu khách. Tiểu nhị dẫn lão tới một căn phòng, trong phòng có một cô nương mặc
đồ trắng nằm trên giường, cô ấy ôm bụng, mồ hôi đầy mặt, lão nhìn cô ấy bụng
chưa lớn, có lẽ là kinh nguyệt hằng tháng. Việc này là việc bình thường của nữ
nhân. Thế là bảo tiểu nhị đun một chậu nước nóng, lấy thêm vài chiếc khăn ấm.”
Nói tới đây, người nằm trên giường đột nhiên ho mãi không dứt,
Triệu Khiêm Hòa vội chạy tới nâng chàng dậy, xoa nhẹ trước ngực một hồi cơn ho
mới từ từ ngừng lại.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Bà bà, người cứ nói tiếp đi”.
“Vâng”, Thôi bà bà nói tiếp: “Cô nương ấy nói, cô ấy họ Sở,
là người nơi khác tới. Cô ấy hỏi lão có cách nào để giữ đứa trẻ trong bụng lại
không. Lão thấy cô ấy còn rất trẻ, bộ dáng thì hình như chưa từng gả cho ai. Xảy
ra chuyện thế này, nếu như là người khác, chắc sẽ vì sợ phải sinh đứa bé mà uống
thuốc bỏ nó đi rồi, cô nương ấy thì rất lạ, nhất định muốn sinh đứa bé. Tiên
sinh nói xem, chưa gả chồng mà sinh con, sau này phiền phức lớn lắm. Cô nương ấy
tuổi còn rất trẻ, không hiểu việc đời, cứ hồ đồ đòi giữ đứa bé. Lão nói với cô ấy
‘Cô nương, cô nghe lão nói một câu, cô còn chưa gả cho ai, đứa bé này không giữ
được’, cô nương kia nằm trên giường nước mắt đầm đìa nói ‘Bà bà, người ta lừa
con uống thuốc, con của con chỉ sợ không giữ được. Xin người nghĩ cách cho
con’, lão nghe thấy thế cũng có chút đau lòng. Nữ nhân cuối cùng vẫn là mệnh khổ,
bèn hỏi cô ấy ‘Là ai lừa cô nương uống thuốc? Uống thuốc gì?’, cô ấy nằm đấy, một
mực lắc đầu không chịu nói. Lão bèn nói ‘Lão chỉ là một bà đỡ, không biết khám
bệnh. Nếu cô nương khăng khăng muốn giữ đứa bé này, nơi đây nhiều đại phu lắm,
tìm một vị kê đơn thuốc, may ra còn có thể cứu được’. Không ngờ cô nương ấy
nghe mấy câu đó thì bỗng tức giận, ôm chặt lấy bụng nói ‘Đại phu… Con không muốn
gặp đại phu!’, nhưng bụng cô ấy đau đến mức không chịu nổi nữa rồi, thân dưới
đã bắt đầu chảy máu. Lão bèn khuyên ‘Cô nương đã bắt đầu chảy máu rồi, đứa bé
chắc chắn không giữ nổi nữa. Cô nên nghĩ thoáng một chút’. Cô ấy nằm trên giường
khóc thảm thiết. Lão bèn dùng nước nóng giúp cô ấy lau người, tắm rửa, một lúc
sau bụng cô ấy đau rồi đẻ ra một thai nhi nữ đã thành hình. Lão sợ cô ấy nhìn
thấy lại thương tâm, liền gọi tiểu nhị ra ngoài mua một cái hộp gấm, đặt thai
nhi vào trong. Cô ấy bèn nói ‘Bà bà, đưa đứa bé cho con, con muốn nhìn hình
dáng của nó’, lão đưa cái hộp cho cô ấy, cô ấy mở ra nhìn thấy lại khóc thê thảm
tưởng như đứt hơi”.
Thôi bà bà một mạch kể lại, không tránh khỏi miệng mỏi lưỡi
khô, Triệu Khiêm Hòa vội đưa một tách trà, nói: “Bà bà, uống ngụm nước cho thấm
giọng”, rồi nhìn sang Mộ Dung Vô Phong, chỉ thấy chàng nhìn đăm đăm vào Thôi bà
bà, hơi thở đứt quãng, lại nhớ lại những điều vừa nghe, trong lòng không khỏi
thở dài.
Thôi bà bà uống một ngụm trà rồi nói tiếp: “Lão thấy đứa bé
ra rất nhanh, cũng chảy không nhiều máu, liền hỏi cô ấy đã uống thuốc gì. Không
giấu lão tiên sinh, việc thế này lão gặp nhiều rồi. Chẳng lần nào mà máu không
chảy mãi không dứt, đau đến chết đi sống lại. Lão thấy phương thuốc cô nương ấy
dùng cũng thật dễ chịu, nếu sau này người khác được dùng, há chẳng phải đỡ khổ
sở hơn nhiều sao? Ai ngờ Sở cô nương cười lạnh một tiếng nói ‘Thuốc, bà phải hỏi
cha của đứa trẻ. Hắn là kẻ chuyên kê thuốc đấy’, lão muốn hỏi lại nhưng cô ấy
không chịu nói. Một lúc sau cô ấy ngồi dậy, nhờ lão tìm tiểu nhị, bảo đem cái hộp
gấm tới cổng lớn Vân Mộng cốc. Lão hỏi cô ấy đưa cho ai, cô ấy không nói, chỉ
viết vài chữ lên giấy. Nói cứ bảo tiểu nhị đưa cho người có tên trên giấy là được.
Lão không biết chữ, cũng không biết cô ấy viết gì. Thế là đem hộp gấm đi, đưa cho
tiểu nhị hai lượng bạc, nhờ hắn cưỡi ngựa đưa đi ngay. Lão trở lại phòng, cô ấy
đã ngủ thiếp đi, một lúc sau đột nhiên vùng dậy, nói với lão ‘Bà bà, đứa bé ấy
đã đưa đi chưa?’, lão nói, ‘Đi rồi, cô nương bảo đưa đến cửa cốc, lão đã nhờ tiểu
nhị đưa đi rồi. Đã cho hắn hai lượng bạc, chắc chắn là đến nơi’, cô ấy hốt hoảng
nói, ‘Bà bà, người mau gọi tiểu nhị lại, đứa bé ấy, con… con không gửi nữa’,
lão nghe mà không sao hiểu nổi, nói với cô ấy, ‘Cô nương không nói lão cũng
đoán được. Người cô nương gửi nhất định là cha đứa trẻ. Lão nhìn là biết, đúng
là một kẻ không có lương tâm’, cô ấy lo lắng đến đỏ hết mặt mũi, nói, ‘Không được,
sức khỏe chàng không tốt, nhìn thấy chỉ sợ không chịu nổi. Bà bà, xin người gọi
tiểu nhị về đi’, lão bèn nói, ‘Tiểu nhị cưỡi ngựa đi rồi, lão chân yếu, làm sao
đuổi được’. Cô ấy nghe thấy thế từ giường ngồi bật dậy, mặc y phục, thoắt cái
đã không thấy đâu nữa, một lúc sau mới thấy cô ấy ôm hộp gấm quay về. Lão đã từng
gặp qua bao nhiêu cô gái, cũng chưa thấy ai có thân thủ như cô ấy, vừa đấy thôi
còn đang nằm trên giường, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Có điều thân thể cô ấy
không khỏe, lúc về đến giường, lại chảy rất nhiều máu”.