Mê Tông Chi Quốc

Chương 157: Hồi 9: thoái hóa





Thắng Hương Lân nói: “Ban đầu, tôi không hiểu nửa sau của cuốn nhật trình hàng hải viết gì, nhưng bây giờ tôi hiểu ra rồi. Toàn bộ thuyền viên trên con tàu Z-615 đều đã trở thành quái vật bị hòn đảo này khống chế.” Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Cô càng nói càng rối rắm, hòn đảo này làm sao có thể biến các thuyền viên của Z-615 thành quái vật được chứ?” Thắng Hương Lân sốt ruột, chỉ muốn mau chóng giải thích rõ mọi chuyện cho Tư Mã Khôi nghe, nhưng câu chuyện này không thể chỉ nói một hai câu là có thể hiểu ngay được.



Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng cô bắt đầu điều tra từ tin đồn mà mọi người nghe được lúc dọc đường. Bởi vì mọi người chỉ nghĩ đó là chuyện nghe xong để đấy, vì rốt cuộc nó đã truyền đi truyền lại trong bao nhiêu năm, thì ai biết thực hư thế nào. Nhị Học Sinh là thanh niên trí thức bị đẩy xuống lâm trường cải tạo tư tưởng đã nhiều năm, nên cô đã hỏi cậu ta xem chuyện bác đánh xe kể có thật hay không.



Nhị Học Sinh nói rằng, chuyện đó hoàn toàn có thật, không chỉ mấy lâm trường, mà ngay cả dân bản địa trong núi, ai ai cũng đều biết cả; có điều chuyện đó xảy ra khi cậu ta vẫn chưa đến lâm trường, nên cũng chỉ nghe người ta kể lại, chứ không tận mắt chứng kiến, nhưng nội dung cũng đại khái như những gì hội Tư Mã Khôi được biết.



Khu vực rừng nguyên sinh ở Đại Thần Nông Giá đầy rẫy dã thú, nhưng con người thì vô cùng thưa thớt. Những truyền thuyết như thủy quái hay dã nhân nhiều vô số kể, nhưng những câu chuyện liên quan đến con người thì lại rất ít, huống hồ chỗ cậu ta ở lại là rừng sâu núi thẳm, đằng đẵng với tuế nguyệt, chính vì vậy mà chuyện gã thổ tặc bị xử bắn đã trở thành đề tài rất nóng hổi, hầu như không người dân nào không biết, rồi dần dần, nó trở thành chuyện quái dị bị đồn đi đồn lại khắp nơi.



Nó quái dị vì các tình tiết trong câu chuyện không hợp lý, nó kì lạ vì tình tiết không tuân theo lô gích thông thường, nên khiến mọi người không thể lý giải. Không ai biết trong đầu gã thổ tặc đó nghĩ gì, bởi vậy, dẫu câu chuyện đã thành dĩ vãng nhiều năm, nhưng tận bây giờ vẫn được rất nhiều người nhắc đến.



Cao Tư Dương gật đâu tỏ ý rằng mình cũng đã từng nghe dân binh kể lại chuyện quái dị này. Có người còn nói, gã thổ tặc là đặc vụ nằm vùng, hắn đã lấy bộ da của đứa trẻ để bọc máy điện đàm rồi, sau khi hành tung bị bại lộ, hắn liền quăng máy điện đàm xuống sông để tiêu hủy tang chứng, bảo vệ sự an toàn của đồng đảng, nên đến lúc chết hắn vẫn không chịu nhận tội.




Có người còn nói, thổ tặc là những kẻ bị âm hồn trong núi nhập vào, thế nhưng những phán đoán đó càng lúc càng hoang đường, nên không thể thuyết phục được mọi người. Hải ngọng nói: “Đây chỉ là tin đồn thất thiệt, vì một chuyện rất bình thường nhưng đôi khi cũng có thể đồn đại thành chuyện quái dị, mà càng đồn lại càng quái dị, thậm chí có những chuyện hoàn toàn do bịa đặt, chứ không hề xảy ra ngoài thực tế”.



Thắng Hương Lân nói: “Nếu chuyện này xảy ra thật, thì chỉ có một cách giải thích hợp lý duy nhất, đó là, gã thổ tặc hoàn toàn quên mất việc mình đã làm”. Mọi người tròn mắt kinh ngạc: “Quên á? Làm gì có chuyện nói quên là quên được dễ dàng thế?” Thắng Hương Lân nói: “Vành đai 30° vĩ Bắc chôn giấu rất nhiều tầng quặng có từ tính mạnh, những thành viên trước đây từng tham gia tác nghiệp dưới giếng quặng hoặc thám trắc địa chất ở khu vực này, cũng có đã người xuất hiện triệu chứng dần dần mất trí nhớ.



Đó là triệu chứng mắc phải do chịu tia phóng xạ khoáng vật dẫn đến protein TAU(1) trong não tập trung lại một chỗ, mà phần bị mất trong chuỗi trí nhớ thường không có quy luật nhất định. Tôi thấy, nội dung phần sau của cuốn nhật trình hàng hải, thuyền trưởng ghi chép rất hỗn loạn, hầu hết là những nội dung không liên quan gì với nhau, giống như chuyện quái dị đồn đại trong lâm trường, bởi lô gích kì quặc khiến người ta không thể lý giải.



Từ đó tôi đã nghĩ, năm đó rất có khả năng gã thổ tặc đã thâm nhập huyệt động có sự tồn tại của tầng từ, còn những chuyện xảy ra sau này thì có lẽ đều do chuỗi ký ức bị khuyết tạo thành. Có lẽ, ngoài việc trộm được minh khí đồng xanh, gã thổ tặc còn ra tay giết chết một đứa trẻ vì nguyên nhân nào đó, rồi giấu xác đứa bé trong tay nải, nhưng lúc bị người khác phát hiện, hắn đã hoàn toàn không nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra vào khúc giữa ấy; còn về thực sự lúc đó cụ thể đã xảy ra những gì, thì chúng ta cũng không có cách nào truy xét được.



Tôi chỉ suy đoán ra cảnh ngộ mà Z-615 gặp phải từ gợi ý của truyền thuyết đó mà thôi.” [1] Protein TAU: là một loại protein có trong các tế bào thần kinh, chủ yếu trong hệ thống thần kinh trung ương, có chức năng hỗ trợ hoạt động cho các nơron. Một khi protein TAU có khiếm khuyết thì sẽ gây cho con người các chứng bệnh liên quan đến thần kinh như mất trí nhớ, Alzheimer.



Tư Mã Khôi vẫn thắc mắc: “Chuyện gã thổ tặc có thể đúng như cô nói thật, nhưng theo suy đoán, nếu vòng tròn ma quái ở 30° vĩ Bắc khiến con người mất đi trí nhớ thì cùng lắm những thuyền viên đó cũng chỉ mất hết ký ức trong đầu, hoặc cùng lắm là trở thành ngây dại, chứ sao lại biến thành lũ quái vật giống như loài ác quỷ vậy?” Thắng Hương Lân nói: “Vì những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 đã bị thoái hóa, họ đã biến thành ký sinh trùng trên hòn đảo này”.



Mọi người nhìn nhau thất sắc, Cao Tư Dương hỏi: “Nói như thế thì chẳng phải đây là một loại hiện tượng quay trở về gốc gác nguyên thủy ư?” Hải ngọng vội cắt ngang: “Đợi đã, theo tôi hiểu thì con người được tiến hóa từ vượn, nếu thực sự xảy ra hiện tượng thoái hóa trở về cội gốc nguyên thủy, thì họ phải biến thành vượn mới phải chứ.



Tôi chưa từng thấy con vượn nào lại mọc mấy cái mang trong mồm cả”. Nhị Học Sinh giải thích: “Sinh vật sống dưới biển cả bị những thứ trên lục địa thu hút, khiến chúng xảy ra thay đổi, dần dần tiến hóa thành động vật lưỡng cư, rồi dần dần chuyển hóa thành loài động vật bò sát, mà vượn cổ lại được tiến hóa từ động vật bò sát”.



Hải ngọng gãi đầu gãi tai: “Thật khó hiểu! Nếu vượn cổ có thể tiến hóa thành người, thì tại sao trên thế giới vẫn còn loài vượn?” Nhị Học Sinh nói: “Điều này…. có lẽ là do vượn cổ có rất nhiều chi họ khác nhau, nhưng chỉ một trong những chi họ của chúng có đầy đủ gốc rễ trí tuệ, nên mới có thể dần dần tiến hóa thành con người”.



Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy vẫn lơ mơ đôi chỗ, liền muốn Thắng Hương Lân nói cụ thể hơn, anh hỏi: “Nếu các thuyền viên của Z-615 bị thoái hóa nhanh như vậy, thì hội chúng ta giờ đây cũng đang nằm trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, chẳng lẽ chúng ta cũng sắp phải đối mặt với kết quả đáng sợ đó sao?” Thắng Hương Lân nói: “Trong mạch đá nào đó dưới lòng đất tồn tại loại nguyên tố phóng xạ hoặc từ trường thiên nhiên, nếu tiếp xúc trong khoảng thời gian ngắn thì có thể sẽ gây ảnh hưởng đến trí não con người, ví dụ như mất trí nhớ hoặc nảy sinh hành vi bất thường, giống như hội chứng Alzheimer, mà người phương Tây vẫn nói đến.



Theo kết quả thám trắc của tàu ngầm Z-615, thì núi Âm Sơn dưới lòng đất chính là một thỏi thạch từ khổng lồ. Từ những chuyện mới xảy ra khi nãy có thể thấy, nếu chúng ta dừng lại và tiếp xúc lâu dài với nó, chúng ta cũng sẽ bị thoái hóa với tốc độ nhanh chóng, rồi cuối cùng sẽ biến thành quái vật mất hết nhân tính, chẳng khắc nào loài ác quỷ, đồng thời vĩnh viễn bị ngọn núi Âm Sơn trói buộc ờ đây.




Các thuyền viên trên con tàu Z-615 bị lạc đường đến vành đai 30° vĩ Bắc, chí ít đã trôi nổi trong thủy thể liên tục trong nhiều ngày đêm, và khi nó mới bị hòn đảo này hút, các thành viên trên tàu vẫn chưa có biểu hiện gì khác thường, thế nhưng những phần sau của cuốn nhật trình hàng hải dần dần trở nên hỗn loạn, thì dường như thuyền trưởng đã phát hiện ra bí mật này, nhưng lúc đó tất cả cũng quá muộn.



Theo truyền thuyết của nước Sở cổ, thì dưới núi Âm Sơn toàn nhốt những âm hồn ác ma vạn kiếp không được siêu sinh, nhưng nguyên hình của nó thì có lẽ chính là những quái vật bị thoái hóa này. Có lẽ họ chính là số tù binh và nô lệ bị quẳng vào núi hiến tế ngay từ thời Hạ Thương Chu cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc; và có lẽ, những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 không hề bị ác ma ăn thịt, mà bản thân họ đã biến thành ác ma của núi Âm Sơn.



Đội thám hiểm chúng ta hiện giờ thân cô thế cô, khó mà thoát ra khỏi vòng quay số phận tàn khốc này.” Thực ra, cả hội đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử, nhưng cứ nghĩ đến kết quả mà họ sắp phải đón nhận, thì trong lòng ai nấy không khỏi cảm thấy run sợ. Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Bây giờ, chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa?” Thắng Hương Lân nói, cô cũng không thể suy đoán chính xác, nhưng căn cứ theo ghi chép trong cuôn nhật trình hàng hải của Z-615, thì có thể tính toán chậm nhất là trong vòng hai ngày, sẽ có người bắt đầu xuất hiện biểu hiện mất trí nhớ.



Tư Mã Khôi dựa vào đồng hồ sinh học của bản thân, dự đoán từ lúc phát hiện thấy Z-615 đến giờ, có lẽ đã ba bốn tiếng trôi qua. Nếu trong núi Âm Sơn quả thực có tồn tại nhật quỹ, thì có lẽ đội thám hiểm vẫn còn kịp tìm thấy lối ra, và đào thoát ra khỏi vòng tròn tử thần 30° vĩ Bắc này.



Cao Tư Dương nói: “Bây giờ không biết bao nhiêu bọn ác quỷ đã bò vào trong tàn tích con tàu Z-615, chúng ta còn không bước được ra khỏi cửa được nữa là…” Nhị Học Sinh thở nặng nhọc: “Tôi bắt đầu cảm thấy càng lúc càng khó thở, e là không khí trong khoang phụ hình như không còn nhiều nữa”.



Hải ngọng cũng cảm thấy ngột ngạt, liền nảy ra ý nghĩ: “Chẳng phải chúng ta vừa tìm thấy nến dưỡng khí dùng trong tàu ngầm sao? Tôi thấy chắc chỉ cần châm một cây cũng đủ duy trì trong vòng vài giờ đồng hồ, trong thời gian đó, chúng ta phải mau nghĩ cách thoát ra ngoài”.



Nhị Học Sinh vội vàng xua tay: “Anh đừng quên cả khoang tàu này là cái bật lửa cực nhạy, ai dám dùng lửa ở gần cái thùng chứa đầy dung dịch hydrogen chứ? Tôi thà cửa ra cho bọn quỷ sống kia ăn thịt cho xong”. Tư Mã Khôi biết “bom hydro”, hay còn gọi bom hạt nhân, là một loại vũ khí chiến lược, có thể tạo ra vụ nổ cấp trên ngàn vạn tấn hạng thuốc nổ TNT, không những vậy, nó còn mang tính phóng xạ truyền nhiễm rất nghiêm trọng, bởi vậy nên nó còn có tên gọi là bom phóng xạ hay bom bẩn.



Cỗ tàu ngầm Z-615 có chứa nhiên liệu phụ trợ dung dịch hydrogen này, có khác nào một trái bom phóng xạ khủng bố với uy lực kinh người? Nếu nó phát nổ dưới lòng đất, đừng nói tàn tích con tàu Z-615 hóa thành tro bụi, mà e là cả ngọn núi Âm Sơn cũng nổ bắn cả xác lên tận bề mặt Trái đất ấy chứ, thậm chí cái vòng tròn ma quái phía dưới vành đai 30° vĩ Bắc này cũng sẽ gãy lìa.



Lúc này, anh thấy không gian khoang phụ gần như bị bịt kín hoàn toàn, chút dưỡng khí ít ỏi còn lại chắc không thể duy trì trong bao lâu, nhưng nếu sử dụng nến dưỡng khí hoặc súng ống, thi hậu quả sẽ xảy ra thật ngoài sức tưởng tượng. Thắng Hương Lân nói: “Cũng không nghiêm trọng như anh nghĩ đâu, vì dung dịch hydrogen trong khoang nhiên liệu và bom hydro cấp vũ khí là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng dù vậy thì uy lực phá nổ của nó cũng đủ sức hủy diệt con tàu này”.



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ hồi lâu, anh nhận thấy không thể quay trở lại khoang trước, còn nếu ở lại đây thì trước sau gì cũng ngạt thở mà chết, đồng thời cũng không thể tiếp tục lùi về khoang sau, ngộ nhỡ nhưng khoang sau cũng bí khí như thế này thì cả hội có mà thành “thịt hộp”.



Tim đập thình thịch, anh rờ rẫm tới bàn bánh lái đang chuyển động, từ từ mở cửa khoang sau, khoang sau khá lạnh lẽo, anh có thể cảm thấy không khí phía ấy lưu thông rất tốt. Thắng Hương Lân đối chiếu với bản đồ, trên đó chỉ rõ phần phía sau tàu ngầm ngoài vách ngăn ra, lần lượt còn có khoang điện chính và phòng máy phụ, đi theo giếng thang trong phòng máy phụ để trèo lên trên sẽ tới nắp khoang đóng kín mít nối liền với boong tàu, rồi từ trong khoang tàu có thể mở nắp sắt này.




Mọi người thấy hành lang yên lặng như tờ, xem ra mấy con ma dưới núi Âm Sơn đều đã bò cả vào trong từ khoang chứa nước ngọt, nên nghe động tĩnh có vẻ chúng vẫn chưa bao vây được khoang sau, cả hội phải nhân cơ hội này mà trốn thoát, còn đến lúc bọn chúng đã phát hiện thấy thì có muốn trốn cũng khó.



Thế là, cả hội không dám nấn ná thêm, ba chân bốn cẳng chui vội vào phòng máy phụ. Tư Mã Khôi đẩy nắp khoang lén nhìn ra ngoài quan sát tình hình, nhờ ánh sáng những lằn sét sượt qua giữa màn sương mưa, anh thấy một trái núi đen sì sì sừng sững đằng xa. Lúc này, Thắng Hương Lân trầm giọng thì thầm với Tư Mã Khôi: “Cảm giác của bọn quái vật kia vô cùng nhạy bén, nếu chúng ta trốn trong tàu ngầm thì vẫn còn khoang tàu làm vật che chắn, nhưng một khi đã lên bè gồ trôi nổi theo dòng nước, thì bọn chúng chắc chắn sẽ phát hiện thấy, mà trên mặt nước thì không có gì che chắn, vậy đến lúc đó, chúng ta phải chống đỡ thế nào?” Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói mới giật mình tỉnh ngộ, đúng là có câu: “Đi sai một nước, hỏng cả ván cờ”.



Hoàn cảnh hiện giờ khiến Tư Mã Khôi nhớ lại khi anh mới đến Miến Điện, cùng đội du kích chui vào rừng rậm nguyên sinh, phía trước có một con sông nước lớn, nước chảy cuồn cuộn chắn ngang, mặt sông rộng bao la. Lúc mọi người chuẩn bị vượt sông, đột nhiên phát hiện có một toán địch từ trong rừng đuổi theo.



Lúc đó, viên chỉ huy thấy phía trước là sông lớn, phía sau là địch mạnh, mà lực lượng quân du kích lúc bấy giờ lại yếu mỏng, nên vị chỉ huy đã ra lệnh cho cả đội vượt sông, tranh thủ thời gian cố gắng mau chóng chiếm cứ khu vực địa hình có lợi. Nào ngờ, tốc độ lội nước của bộ đội chậm hơn nhiều so với tốc độ hành quân trong rừng rậm, đến khi quân địch xuất hiện ngay sau lưng, thì đội du kích mới lội tới giữa sông, nên kết quả cả đội đã trở thành bia ngắm bắn, đội mười mấy người lội sông, nhưng không người nào sống sót lội được lên đến bờ, nước và máu hòa lẫn vào nhau, nhuộm đỏ cả một quãng sông.



Từ đó, Tư Mã Khôi rút kinh nghiệm, anh hiểu chuyến vượt sông đó bắt buộc phải hi sinh một số người, để họ ở lại rừng rậm chặn bước quân địch, yểm trợ cho bộ đội chủ lực vượt sông an toàn. Kế này được gọi là “thí tốt cứu xe”. Mọi người ngẫm nghĩ một lát, ai nấy đều sởn gai ốc.



Giờ đây họ đang ở trong tình thế mà tốc độ hành động không chiếm ưu thế, nếu lên bè gỗ vượt sông tiếp cận núi Âm Sơn, thì chỉ sợ giữa đường sẽ bị bọn quái vật đuổi theo, ở trên mặt đất thì còn gắng gượng ứng phó với chúng bằng vũ khí, chứ nếu đã bị kéo xuống sông sâu thì không còn đất để giãy giụa phản kháng, huống hồ bây giờ cả hội lại không còn nước và thức ăn, dẫu có cố thủ trong khoang tàu, e rằng cũng không thể chống cự được lâu.



Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân ở lại trên nắp khoang quan sát động tĩnh, sau đó quyết định nói với ba người còn lại: “Giờ chẳng còn cách gì nữa cả, chỉ còn mỗi việc cho nổ tung mấy cái thùng sắt chứa đầy dung dịch hydrogen kia thôi, cho dù không làm cho bọn quái vật bám quanh tàu ngầm nổ tan xác, thì âm thanh và ánh lửa của vụ nổ cũng sẽ khiến chúng sợ hãi tản ra chạy trốn.



Đây là cơ hội duy nhất để đội thám hiểm chúng ta sống sót và tiếp cận mạch núi Âm Sơn”. Nước dưới lòng đất cuồn cuộn chảy xiết, cỗ tàu ngầm Z-615 bị hút vào rìa núi từ, bây giờ chỉ còn cách để lại một người kích nổ thùng nhiên liệu thì bốn người còn lại mới có cơ hội thoát thân.



Mọi người biết rõ, thời gian tiếp xúc với núi từ dưới lòng đất càng lâu, thì khả năng bị nó nhốt giữ vạn kiếp và khó lòng siêu sinh càng lớn. Trước khi xuất hiện triệu chứng thoái hóa, cả hội bắt buộc phải tìm đường thoát khỏi vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, một phút cũng không được chậm trễ.



Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.