Mê Tông Chi Quốc

Chương 191: Hồi 7: hơi thở bỏng rát





Tư Mã Khôi vốn cho rằng Nấm mồ xanh chín phần chính là quốc vương Chăm Pa, bởi những người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp chỉ đếm trên đầu ngón tay, theo lý mà nói dung mạo giống như thần Phật trên trời giáng phàm của quốc vương Chăm Pa vẫn được lưu giữ đâu đó trên các di tích lịch sử hoặc trên các bức bích họa ở đền chùa miếu mạo. Năm đó, khi ở khe cốc núi Dã Nhân, đội trưởng đội tìm kiếm máy bay tiêm kích Ngọc Phi Yến vừa nhìn một cái đã liền nhận ra, trộm nghĩ, Triệu Lão Biệt xông pha nam bắc chắc đương nhiên cũng biết. Ngoài ra, đội khảo cổ từng kể trải nghiệm ở Miến Điện của đội thám hiểm cho Triệu Lão Biệt nghe lúc trong biển cát dưới cực vực, bởi vậy lão mới biết Tư Mã Khôi từng nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa.



Trước đây, Cao Tư Dương đã nghe chuyện hội Tư Mã Khôi trải qua ở núi Dã Nhân, Miến Điện. Tuy cô chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa, nhưng chỉ tưởng tượng thôi đã thấy lạnh thấu tim gan, cô hỏi: “Thế kẻ vừa ở dưới hố nói chuyện rốt cuộc là cương thi hay âm hồn vậy?”



Hải ngọng thêm mắm thêm muối: “Theo tôi, lão quốc vương Chăm Pa kia chính là thây ma tu luyện hàng ngàn năm. Ngày trước ở vùng đông bắc, người ta thường hay nói, phàm con người sau khi chết thi quàn trong quan tài, nếu vì nguyên nhân nào đó không thể hạ táng được thì nhiều năm qua đi, người chết trong quan tài không bị mục rữa, nếu gặp hơi khí của người sống, nó sẽ dễ biến thành cương thi. Tùy vào môi trường thủy thổ ở từng nơi khác nhau, mà xảy ra nhiều loại thi biến khác nhau, nghe nói có cương thi gió, cương thi đá, cương thi huyết và cương thi bột, trong đó ghê gớm nhất là cương thi bột, phần lớn nó là ma nữ. Đặc biệt, loại xác chết cổ đại khắp mình máu huyết trong suốt là đáng sợ nhất.



Loại cương thi này có khuôn mặt như phết một lớp bột vôi nên mới bị gọi là cương thi bột, ban ngày chúng ẩn nấp, ban đêm mới ra ngoài lộng hành, bọn này có thể bay vèo vèo trên không trung, chụp được người sống sẽ ôm chặt há mồm hút máu, nếu chưa hút cạn máu chúng sẽ không chịu buông tay, dẫu có vác gậy sắt ra nậy cũng không thể nậy được. Điều đáng sợ hơn là bọn cương thi này còn có ý thức, bắt chước được tiếng người, chắc lúc sinh thời chúng đều tu luyện được chút đạo hành, sau khi chết có thể khiến âm hồn nhập tràng không siêu thoát, xuất ra thì thành ma, nhập vào thì thành cương thi, thời gian tu luyện càng lâu thì đạo hành càng uyên thâm. Tôi đồ rằng lão quốc vương Chăm Pa chính là loại yêu quái này, lúc trước trong mật thất dưới địa cung ở Miến Điện, thi thể của lão đã nổ tan tành rồi cháy rụi, nên chẳng còn thấy mặt mũi gì nữa, sau này Nấm mồ xanh mà chúng ta gặp đều là ác ma lộng hành trong bóng tối”.




Tư Mã Khôi lắc đầu: “La trại chủ, cậu hiểu nhiều biết rộng thật đấy nhỉ, hóa ra người chết đút trong quan tài lại là yêu quái loại này, không những thế, khi biến thành cương thi rồi mà vẫn còn phân ra thành các chủng loại nữa cơ đấy?”



Hải ngọng trọn mắt nói: “Chính cậu bảo Nấm mồ xanh là quốc vương Chăm Pa trước còn gì, sao giờ nháy mắt một cái đã đổ vấy sang cho tớ?”



Thắng Hương Lân giảng hòa: “Các anh đừng đấu khẩu nữa, Nấm mồ xanh chắc chắn không thể là quốc vương Chăm Pa được, tuy quốc vương Chăm Pa phù hợp với ba điều kiện anh nêu, nhưng tiền đề là sau khi con người chết đi phải thực sự biến thành ma, hơn nữa phán đoán này chưa chắc đã vững vàng, các anh nghĩ kỹ mà xem, quốc vương Chăm Pa đã chết cách đây hàng mấy ngàn năm, bất luận hắn là âm hồn không siêu thoát hay là cương thi tác oai tác quái thì rốt cuộc vẫn chỉ là người chết, một người đã chết sao còn sợ nhìn thấy tấm bia đá? Mật mã khắc trên tấm bia là một tổ hợp tín hiệu chết chóc, nếu giải mã nội dung của nó sẽ khiến người đang sống bỗng chốc lăn ra chết, nhưng nó không thể khiến một người đã chết lại chết thêm một làn nữa được”.



Tư Mã Khôi nói: “Quả thực tôi cũng không dám tin quốc vương Chăm Pa đã chết rồi mà vẫn có thể bò ra khỏi quan tài chạy lông nhông như vậy”.



Nhưng dưới vòm trời này chỉ có hắn mới phù hợp với ba điều kiện của Nấm mồ xanh, thực ra nói chính xác hơn là hắn phù hợp với hai điều kiện, bởi vì quốc vương Chăm Pa rất coi trọng dung mạo như thần Phật của mình, dẫu hắn đã bị thiêu cháy thành tro trong mật thất của thành Nhện Vàng, thì một cô hồn dạ quỷ như hắn cũng không có lý do gì cần phải giấu khuôn mặt thật sự của mình. Trong khi đó, lý do khiến Nấm mồ xanh không hề đám lộ mặt là vì khuôn mặt thật sẽ làm lộ ra yếu điểm của hắn, còn nguyên nhân vì sao thì có lẽ chỉ có thể tìm thấy đáp án ở phía bên kia của tấm bia đá mà thôi.



Hải ngọng nói: “Phía bên kia của tấm bia trông giống hệt một cái động không đáy, nói dại miệng, tớ chỉ ngó vào trong đó một cái đã cảm thấy suýt nữa thì rớt mất hồn phách rồi, cậu định vào trong đó thật à?”



Thắng Hương Lân cũng lo rằng Nấm mồ xanh đang muốn dụ mọi người sang phía bên kia của tấm bia đá, hoàn cảnh lúc này đúng là tiến thoái lưỡng nan. Theo lý mà nói chỉ cần lộ chút dấu vết chân tơ kẽ tóc thì sẽ lần ngược ra được lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng giờ cả hội nắm trong tay bao nhiêu manh mối như thế mà mọi chuyện dường như vẫn nằm trong đám sương mù dày đặc, không hề thấy rõ chân tướng, đây cũng chính là điểm Nấm mồ xanh khiến người khác lạnh gai ốc nhất. Suy đoán theo mấy lời mập mờ của Triệu Lão Biệt thì dường như chỉ một mình quốc vương Chăm Pa mới có thể giải mã được văn tự cổ trên tấm bia, vì cho dù những thành viên đội khảo sát Lopnor năm xưa còn sống, thì cùng lắm họ cũng chỉ nhận biết được phần nội dung mà thôi, nếu không hiểu cách phát âm của hệ ngôn ngữ cổ này, thì dẫu có nhìn thấy bí mật trên tấm bia cũng không bị chết, nhưng nếu là vong hồn hàng ngàn năm của quốc vương Chăm Pa đang tác quái thì quả thực không thể nghĩ ra lý do vì sao hắn phải cố tình giấu kín khuôn mặt thật sự của mình như vậy.



Trong những người Tư Mã Khôi từng gặp trước đây, rốt cuộc còn ai phù hợp với những điều kiện giống quốc vương Chăm Pa nữa? Bây giờ hội anh không phải không dám đoán mà là không thể đoán ra, nếu cứ suy luận theo chiều hướng này thì chẳng khác nào chui vào ngõ cụt, trừ phi làm rõ bí mật ở phía đầu kia của bia đá rốt cuộc là gì, nếu không mãi mãi không thể phả giải được vòng tròn quái dị luẩn quẩn kia. Nấm mồ xanh cố tình tiết lộ những thông tin bí mật với ý đồ mượn tay đội khảo cổ để phá hủy tấm bia đá, điểm này rất dễ thấy, mọi việc tiến triển đến đây thì sa vào ngã ba, rốt cuộc hội anh nên phá hủy tấm bia hay từ bỏ cơ hội tìm ra chân tướng sự thật và tháo chạy khỏi miếu thần? Nhưng con đường nên lựa chọn thực ra cũng rất dễ thấy, mọi người chắc chắn sẽ không làm theo lời Nấm mồ xanh ra tay phá hủy tấm bia đá, lạ một điều là tại sao Nấm mồ xanh hành sự vốn kín kẽ và chu đáo là thế mà lại không lường trước được điểm này?




Tư Mã Khôi biết hội anh chịu thiệt chính là vì không thể mò ra gót chân Asin của Nấm mồ xanh, điều ấy khiến mọi người luôn lâm vào tình thế bị động và chịu khống chế, chẳng khác nào để người ta bịt mắt muốn dắt tay đi đâu thì đi. Khi nãy vì muốn nghe đối phương nói ra bí mật trên tấm bia đá mà cả hội vô tình không biết mình đã để lỡ khá nhiều thòi gian, chi sợ trong miếu thần sắp xảy ra biến cố nguy hiểm nào đó, không khéo giờ đây việc nghĩ xem có nên lại gần bia đá hay không đã trở thành vô nghĩa vì cả hội không còn đường nào để lựa chọn nữa.



Hải ngọng không tin, anh nghiêng đông ngó tây một hồi, rồi nói: “Biến cố gì cơ? Gã kia chắc chắn nấp trong đường ngầm dưới đáy hô tìm cách chạy thoát thân, nếu còn không đuổi theo thì hắn sẽ chạy xa tít mù khơi cho xem…”, nói xong, anh liền giơ đuốc, rướn người vào trong thông đạo quan sát.



Tư Mã Khôi thấy xương người vương vãi khắp nơi dưới đáy động, anh đoán trong miếu thần còn ẩn nấp loài sinh vật ăn thịt nào đó, liền vội vàng nhắc Hải ngọng chú ý an toàn.



Hải ngọng cậy có khẩu súng săn họng lớn hỏa lực mạnh nên không coi lời Tư Mã Khôi vào đâu, nhưng dưới đáy hố toàn là thông đạo trông như những lỗ động, phạm vi chiếu sáng của bó đuốc lại chỉ rộng chừng bốn năm cửa động, thêm vào đó các vết nứt giữa các tầng nham thạch cũng khá lớn, thực không thể biết Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở nơi nào. Hải ngọng sốt ruột, hai mắt muốn tóe lửa, cổ họng khô khốc, anh lập tức lấy bình nước giắt ở hông, mở ra tu ừng ực một mạch đến hết nhẵn.



Lúc này, Tư Mã khôi phát hiện xung quanh càng lúc càng nóng, không những vậy nhiệt độ tăng cao một cách vô cùng nhanh chóng khiến mồ hôi trên người cả hội toát ra đầm đìa, anh lo thầm: “Chuyện gì thế nhỉ?”, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu, đột nhiên trong thông đạo bên cạnh có rất nhiều bóng đen đang nhảy vọt ra, trông như ma núi nửa người nửa sói, tứ chi bò lồm ngồm, trong phút chốc đã ập đến ngay trước mặt, anh vội vàng liệng mình, chộp lấy Hải ngọng kéo giật lại sau né nạn.



Hội Tư Mã Khôi liên tục thối lui mấy bước, họ còn ngỡ mấy con quái vật từ thông đạo chui ra giống như lũ cương thi trong núi Âm Sơn dưới vực sâu, nhưng dưới ánh lửa bập bùng bất định, anh thấy bọn chúng trông hao hao giống loài sơn tiêu, da mặt đều bị lột mất, đôi mắt chỉ còn lại hai hốc đen ngòm, trên mặt đầy răng sắc lẻm, nhọn hoắt chìa ra ngoài, chúng lũ lượt trèo lên nơi cao trên vách đá.



Mọi người kinh ngạc tột độ, xem ra sinh vật nửa người nửa quỷ này là những người Bái Xà cổ đại ở lại canh miếu, không ngờ nhánh tộc này có thể nấp trong môi trường khắc nghiệt, thoát khỏi bao kiếp nạn long trời lở đất để tiếp tục sống sót cho đến tận ngày nay. Sử cũ ghi chép, người Bái Xà “xuyên hắc thủy, sống ở địa cùng, mắt sáng như nến, không quen hỏa tính”.



Những người Bái Xà ở lại canh miếu này rõ ràng ngay từ lúc mới sinh ra đã bị móc mất mắt, nguyên do có lẽ vì họ không dám nhìn tấm bia đá, nhưng đời này nối tiếp đời khác sống lâu trong địa động sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền, cách biệt với thế giới bên ngoài, nên giờ họ gần như đã bị thoái hóa giống bọn cương thi trong dãy núi Âm Sơn. Có lẽ họ không còn nhớ đến bí mật trên tấm bia đá Bái Xà nữa, thậm chí còn quên hẳn mệnh lệnh của tổ tiên là phải ngăn cản không cho người ngoài lại gần bia đá, chỉ có điều thói quen khoét bỏ đôi mắt đã ăn sâu bén rễ trong trí não, hố sâu dưới tấm bia đá có lẽ chính là mảnh đất vùi thân truyền đới của họ.




Tư Mã Khôi từng nghe kể thợ săn ở biên giới có lần đã mục kích thấy ma núi, tương truyền bọn chúng vô cùng tà ác, đồn rằng chúng là những người chết trong mộ cũ biến thành. Theo quan điểm hiện đại thì ma núi chỉ là một loài vượn cổ hoặc dã nhân sinh sống trong huyệt động mà thôi, thỉnh thoảng mới tìm thấy bộ xương khô không còn nguyên vẹn. Lần này, bất ngờ gặp được người Bái Xà trong miếu thần dưới lòng đất, hội Tư Mã Khôi mới hiểu truyền thuyết và thông tin ma núi xuất hiện nơi địa đầu hoang vắng là có cơ sở của nó, có điều anh không không thể lý giải được vì sao những con quái vật trông như ma núi này lại đột ngột chui ra khỏi động đạo, cũng may chúng không nhìn thấy gì, nếu không chúng mà nhất tề xông lên thì chỉ dựa vào mấy khẩu sủng lục ắt hội anh chẳng thể cản trở được chúng. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi lập tức ra dấu cho ba người còn lại không được phát ra tiếng động.



Tư Mã Khôi đang định bảo Hải ngọng lẳng lặng tắt đuốc, ai ngờ mấy người Bái Xà dung mạo như ma núi bò gần đó bỗng quay ngoắt lại, đột nhiên há to mồm lao đến định cắn với tốc độ thần tốc, khả năng phán đoán và định vị phương hướng chính xác đến kỳ lạ.



Hải ngọng nhanh tay nhanh mắt, giương súng, lên nòng khẩu súng, săn, rồi ngắm thẳng mục tiêu, trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, đạn của khẩu súng săn họng lớn xé tan một con ma núi thành đôi mảnh, máu thịt vương vãi khắp mặt đất. Dưới ánh sáng của đèn quặng, ba người còn lại cũng lần lượt giương súng bắn, đồng thời nép vào những đống xương khô chất đầy dưới đáy động, vội vàng lui về sau.



Tư Mã Khôi phát hiện cánh tay trái của thắng Hương Lân bị thương trong lúc hỗn loạn, nhưng tình thế cấp bách, không có thời gian ngồi băng bó vết thương cầm máu cho cô, nhìn cảnh này, Tư Mã Khôi không ngăn được nỗi lo lắng dấy lên trong lòng. Trong khi đó, hố sâu dưới tấm bia đá càng lúc càng khô nóng vượt mức chịu đựng, trước mắt giống như có một bức tường thép nung đỏ rực đang dần dần đè xuống, thật chẳng khác nào vầng mặt trời chuẩn bị áp sát họ, ngay cả tóc và lông mày cũng bị sấy khô đến sắp cháy rụi.



Hải ngọng khản giọng nói: “Không xong rồi! Suối nước nóng dưới lòng đất sắp phun trào, không chạy mau là biến thành gà luộc cả lũ bây giờ!”



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nơi này nằm ở nơi tận cùng của cửu tuyền, phía dưới làm gì còn suối nước nóng nào nữa, phía dưới miếu thần có lẽ là đại dương mênh mông do thể khí nóng bỏng tụ hợp thành. Vùng biển này không hề tĩnh lặng bất động từ thời hằng cổ, mà thủy triều cũng lên xuống giống như hít vào thở ra vậy, cứ cách một khoảng thời gian nhất định, dòng nhiệt lưu lại chảy ào vào miếu thần, với nhiệt độ này thì người thường không thể nào chịu đựng được. Giờ cả hội mới phát hiện ra điều này, e rằng có muốn chạy trốn cũng không kịp nữa. Sở dĩ Nấm mồ xanh chịu nói ra bí mật của tấm bia đá là vì hắn muốn kéo dài thời gian để đợi dòng nhiệt lưu dâng cao, buộc bọn ta phải chạy sang đầu kia của tấm bia đá tránh nạn, không ngờ hắn còn nắm rõ thời gian cụ thể lên xuống của nước triều như trong lòng bàn tay vậy”.



Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.