Mê Tông Chi Quốc

Chương 209: Hồi 7: phân biệt





Lúc này, Tư Mã Khôi cũng cảm thấy bất an, vị thần cổ hàng vạn năm không chết đó đã thả đội khảo cổ ra khỏi động không đáy chẳng qua chỉ vì một mục đích duy nhất. Việc nó đã rơi vào tâm Trái đất là sự thật không thể thay đổi, nên nó đành lựa chọn một con đường khác để tiếp tục được sống, đó chính là khiến một trong bốn thành viên hoặc tất cả các thành viên của đội khảo cổ biến thành Nấm mồ xanh.



Nếu ai trực tiếp ăn thịt vị thần cổ, thì kẻ đó sẽ trờ thành “gian phòng số 0” của tổ chức, ý thức và cơ thể của người đó sẽ dần dần bị nó chiếm lĩnh, tuy nhiên ngay bản thân người đó cũng không thể nhận ra điều này khi mới ăn thịt. Bây giờ chẳng ai nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra lúc mình bị mất ý thức trong vỏ ốc hóa thạch nữa, không biết con quái vật khắp người toàn mắt có nhân cơ hội đó chui vào trong bụng mình chăng?



Mọi người đưa mắt nhìn nhau mà chẳng biết nói gì. Trong bốn kẻ may mắn sống sót giờ đây, ít nhất có một người đã biến thành “gian phòng”, nhưng làm cách nào để nhận ra người ấy? Điều khó xử hơn là khi nhận ra được, thì buộc phải giết chết kẻ đó. Cả hội đã cùng nhau trải qua bao nhiêu biến cố sinh tử, nguy hiểm, gian nan mới có thể ra khỏi cửu tuyền và sống sót đến giờ phút này, bất kể ai bị biến thành “gian phòng”, thì người ấy cũng chỉ còn con đường chết, vấn đề là người nào có thể đang tâm ra tay giết chết bạn đồng hành của mình?



Tư Mã Khôi nhớ lại chuyện của Nhị Học Sinh, anh biết không thể nhận ra “gian phòng” nếu chỉ thông qua các biểu hiện bề ngoài, anh rất hối hận vì lúc trước đã không chép dòng chữ khắc trên tấm bia Bái Xà vào cuốn sổ, suy đi tính lại mới thấy chỉ dòng chữ ấy mới có thể xác định được rốt cuộc ai là “gian phòng” mà thôi.



Thắng Hương Lân nói với giọng đầy lo âu: “Nếu vô tình mang Nấm mồ xanh ra khỏi lòng đất thì đúng là chết trăm lần cũng không chuộc hết tội rồi”.




Hải ngọng đưa ra ý kiến: “Nếu ai cảm thấy mình đã ăn thịt người chết, thì nhân lúc chưa muộn hãy tự giơ tay lên, ngày xưa các cụ nói câu nghe chí phải ‘núi giấu ngọc, núi xanh non; cát giấu vàng, cát phát sáng; quỷ thai giấu trong phủ tạng, lời ăn tiếng nói đều bất bình thường…”



Tư Mã Khôi nói: “Không chừng tất cả chúng ta đều đã biến thành ‘gian phòng’ mà không hay ấy chứ, đây đâu phải vấn đề của riêng ai, phải mau chóng nghĩ cách phân biệt chính xác mới được!”



Hải ngọng bảo: “Nếu quả thực không còn cách nào khác, nếu không thể nhận ra…”, nói đến đây, anh chỉ ngón tay vào huyệt thái dương của mình, rồi tiếp lời: “… Thì chi bằng chúng ta cứ bắn một phát vào đây, thi thể chìm xuống biển, như vậy mới đảm bảo không xảy ra sự cố gì, mọi người đi trước, tôi chặn hậu, chúng ta hẹn gặp lại kiếp sau vậy!”



Tư Mã Khôi sớm chẳng màng đến chuyện sống chết, anh không hề nghĩ mình có thể thoát khỏi cửu tuyền, huống hồ lần trước bị bom địa chấn mang chất độc màu da cam vấy bỏng khắp người, ngờ rằng có sống cũng chẳng mong được cái kết có hậu, chỉ cần giải quyết triệt để Nấm mồ xanh thì dẫu chết, anh cũng an lòng nhắm mắt; nhưng nếu phải chết một cách vô duyên vô cớ ở đây thì anh cũng không cam tâm, chẳng lẽ không còn cách nào phân biệt được hay sao?



Giữa cái khó người ta thường ló cái khôn, điều đội khảo cổ đang lo lắng lúc này là chẳng biết khi mình mất ý thức ở trong vỏ ốc hóa thạch liệu có bị biến thành “gian phòng” ăn thịt người chết hay khồng? Con quái vật hình cây khắp người toàn mắt nom từa tựa một miếng thịt, nó được tạo thành từ khối tử khí không ngừng ngưng kết qua hàng vạn năm, bởi vậy mới nói nó chính là miếng thịt người chết, tất cả những “gian phòng” trực tiếp ăn thịt nó, thì mọi vết thương trên người đều tự động liền lại, nếu ai xuất hiện triệu chứng khác thường này, thì trong bụng kẻ ấy chắc chắn có miếng thịt người chết.



Mọi người phập phồng lo lắng, lần lượt lấy dao rạch một đường trên mu bàn tay, nhưng không ai xảy ra hiện tượng bất thường gì, điều đó chứng tỏ trong đội khảo cổ không có sự tồn tại của “gian phòng”, bấy giờ mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.



Tư Mã Khôi nghĩ thầm, Entroypy rốt cuộc cũng chỉ là một sinh vật sống, có lẽ trong lúc xuyên qua thủy thể 30° vĩ Bắc, nó đã mất ý thức do chịu ảnh hưởng của địa áp, bốn người đội khảo cổ lại tỉnh dậy và phục hồi tri giác trước nó và nhanh chóng rời khỏi vỏ ốc hóa thạch, chính vì vậy, họ mới may mắn thoát khỏi tai họa. Tuy nhiên tất cả chỉ là suy đoán, mong rằng mọi chuyện xảy ra đúng như suy đoán ấy.



Lúc này, bốn người vừa lạnh vừa đói, mệt rũ muốn lả. Cao Tư Dương giúp cả đội băng bó lại vết thương trên tay, rồi chui vào trong vỏ ốc, nằm cuộn tròn ngủ thiếp đi, mặc cho vỏ ốc cúc đá trôi nổi bập bềnh theo dòng nước mênh mông, không thấy bờ bến.



Những chấn động do dòng biển nóng phun trào gây ra đã khiến hàng đàn cá với hình dạng quái dị sống ở nơi sâu trong lòng thủy thể sợ hãi, chúng lũ lượt nổi lên mặt nước. Phần lớn các loài cá sống ở vùng nước sâu đều có bộ phận phát sáng, bộ phận này là mồi nhử giúp chúng săn mồi.



Mọi người lần lượt tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, họ ra tay bắt mấy con cá, tuy chưa phân biệt được đó là loài cá gì, nhưng vì đang đói đỏ mắt, nên cả hội cũng chẳng buồn bận tâm, họ lập tức lấy dao đánh vảy, rồi ăn sống luôn. Vị cá tươi ngọt, lớp mỡ dày, nhiều nước tứa ra, mùi tanh sực lên không thể chịu nổi. Sau khi ăn xong, sắc mặt Thắng Hương Lân mới hồng hào hơn chút ít.



Tư Mã Khôi để lại phần xương cá, đồng thời anh gom được chất phát sáng sinh học và cao dầu từ đống cá họ vừa ăn, làm thành mấy cây nến xương cá dùng tạm. Loại nến này có ưu điểm ở chỗ dẫu có thả xuống nước hay bị gió thổi cũng đều không tắt. Trong địa động tối đen như mực, sương từ dày đặc bủa vây mịt mù, thỉnh thoảng mới có tia sét lướt xẹt qua đỉnh đầu. Bây giờ có nến xương cá, lại thêm cả ánh sáng trắng phát ra từ sương từ, nên đội khảo cổ không cần sử dụng đèn quặng nữa.




Hải ngọng thấy hình dạng mấy con cá này rất quái lạ, phía sau còn có hai cặp vây, trông nhang nhác giống tứ chi của con người, bất giác anh nhớ đến bọn quái vật cương thi sống gần hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn, nói không chừng lũ cá này là do người chết biến thành!



Cao Tư Dương nghe Hải ngọng nói vậy, rồi lại thấy hình dạng cổ quái của mấy con cá đang bơi trong nước thì càng lúc cô càng thấy ghê cổ, rồi không nhịn được, cô nằm ẹp xuống mạn thuyền nôn ồng ộc.



Thắng Hương Lân nói, loài cá tiền sử sống trong lòng biền 30° vĩ Bắc cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài này có lẽ là loài cá thuộc kỷ Devon, khi ấy ngay cả cá mập cũng có vảy, phần đa là loài cá có nhiều xương, dần dần chúng biến thành động vật lưỡng cư, bởi vậy một số loài cá mới mọc bốn vây trông giống như bốn chân ngắn nhỏ, nhưng chắc chắn đó không phải lũ quỷ nước trên đảo cổ Âm Sơn.



Nghe Thắng Hương Lân phân tích, Cao Tư Dương mới cảm thấy yên tâm, có điều ngồi trong vò ốc cúc đá, lênh đênh giữa dòng thủy thể không phân biệt ngày đêm thế này, rồi cuối cùng cả hội sẽ bị núi từ hút chặt mà thôi. Căn cứ vào tình hình thực tại, dẫu hiện tại có giữ được mạng sống, thì vài ngày nữa cũng bị lũ cương thi trên núi lôi đi ăn thịt. Mà nếu đội khảo cổ may mắn không bị chúng ăn thịt đi nữa, thì sau thời gian dài tiếp xúc với núi từ, cả hội cũng sẽ bị mất trí nhớ và thoái hóa thành loài quái vật nửa người nửa cá.



Hội Tư Mã Khôi biết rõ khó có thể tránh khỏi sự thật này, nhưng giờ đây, ngồi trong vỏ ốc hóa thạch, xung quanh sóng dữ vỗ ầm ầm, nước biển đen ngòm trải rộng bao la, cả hội lại không thể điều khiển được phương hướng, rơi vào tình cảnh này, dẫu bản lĩnh có lớn bằng nào chăng nữa cũng khó lòng thi triển, đến nước này mọi người chỉ biết nghe theo mệnh trời mà thôi.



Do chịu sự ảnh hưởng của cơn địa chấn dữ dội lúc trước, nên mặt biển ầm ầm dậy sóng, thỉnh thoảng lại đổ một cơn mưa lớn, đôi lúc còn xuất hiện trận mưa đá lạnh thấu xương như băng tuyết, môi trường khắc nghiệt đến cực điểm, vậy mà không ngờ đội khảo cổ vẫn chịu được cái ầm ướt và lạnh lẽo đến khủng khiếp này, có lẽ do lúc trước mọi người đã ăn nhục chi trong địa cốc nên sức chịu đựng mới dẻo dai được như vậy, hơn nữa bây giờ lại lánh nạn trong vỏ ốc cúc đá, chứ nếu không, họ đã chẳng thể bảo toàn nổi tính mạng.



Bốn người ngồi trong vỏ ốc cúc đá cứ thế bòng bềnh trên mặt biển, họ chẳng còn phân biệt được ngày hay đêm nữa. Vỏ ốc mải miết trôi về phía trước theo dòng nước đục ngầu đang cuồn cuộn chảy. Tuy phải trải qua hoàn cảnh bế tắc, nhưng ý niệm mưu cầu sinh tồn trong mỗi người vẫn rất mãnh liệt, cả hội cố gắng tiết kiệm số đạn dược và pin đèn cacbua còn sót lại, đồng thời thu thập thêm chất phát sáng sinh học để tạo ra nhiều nến xương cá hơn.



Hôm ấy, Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi, từ khi mọi người bước chân vào khe núi Dã Nhân ở Miến Điện và gặp Nấm mồ xanh đến nay cũng mới chỉ nửa năm, nhưng trong nửa năm ấy, họ phải trải qua vô số biến cố, gặp phải bao sự việc mà người thường khó lòng tưởng tượng. Suốt dọc đường, họ phải chứng kiến sự hi sinh của bao nhiêu người thân yêu như giáo sư Nông địa cầu, Tuyệt, Ngọc Phi Yen, Karaweik, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng thông tin Lưu Giang Hà, Nhị Học Sinh… May mà sau khi phá hủy tấm bia đá Bái Xà, cả hội đã kịp thời ngăn không cho con quái vật kinh hoàng kia bò lên khỏi vực sâu. Nếu lần này có thể sống sót thoát thân ra khỏi thủy thể 30° vĩ Bắc thì lúc về Hải ngọng anh nhất định sẽ thắp mấy bó hương chất lượng thượng hạng để cảm tạ Phật tổ đã phù hộ độ trì mới được.



Tư Mã Khôi cảm thấy Entroypy giống như một cỗ máy điện đàm u hồn khổng lồ, bên trong tồn tại tín hiệu điện sinh học cực mạnh, sau khi người sống bị nó nuốt chửng, thì ý thức sẽ chìm vào một huyệt động vô đáy không có lối ra, mọi thứ mà họ nhìn thấy trong động thực ra chỉ là ảo ảnh do con quái vật Entroypy tạo nên, bởi vậy sau khi các sự vật tồn tại trong động bị phá vỡ, chúng lại có khả năng phục hồi nguyên dạng giống như ban đầu. Con quái vật này đã sống hàng vạn năm mà không chết, chẳng ai làm gì được nó, nên người Bái Xà có tôn nó là thần thì cũng chẳng hề quá đáng, nhưng một khi để nó chạy thoát ra ngoài, thì chắc chắn sẽ dẫn đến đại họa không thể tưởng tượng nổi. Chính vì đội khảo cổ không nghe lời cổ nhân cảnh cáo, luôn muốn tìm lời giải cho những ẩn số mà con người không được phép biết đến, tự tiện tiếp cận tấm bia đá Bái Xà, nên mới bị sa chân vào động không đáy, suýt chút nữa đã kéo rèm mở màn cho một tấn thảm kịch. Giờ này ngồi trên thuyền nghĩ lại cảnh ngộ bị nhốt trong động mà người nào người nấy vẫn tim đập chân run. Xem ra, nếu ngọn nến số mệnh chưa đến lúc tắt, thì không chừng cả hội vẫn còn cơ hội thoát khỏi vòng tròn quái dị không đầu không cuối ở dải Bắc vĩ độ thứ ba mươi này. Bởi vậy, mọi người quyết không được từ bỏ hi vọng.



Nghĩ là nghĩ vậy, nhưng đại dương bao la dưới lòng đất nom giống hình con rắn cuộn tròn này vào thì dễ chứ ra thì vô cùng khó, ngoại trừ ngọn núi từ nồi trên biển, thì không còn bất cứ vật tham chiếu nào khác, mà nếu tiếp cận núi từ thì cả hội lại gặp phải sự tấn công của lũ thủy quái nửa người nửa cá, không những vậy, họ còn phải đối mặt với nguy cơ mất hết trí nhớ và trở thành những xác chết biết đi.




Mọi người suy đi tính lại một hồi, ai nấy đều cảm thấy khi đối mặt với sóng biển dữ dội và mênh mông, đối diện với bầu không gian bao la và đen ngòm, thì tiền đồ của cả hội đúng là lành ít dữ nhiều, vậy nên không khí lập tức trâm hẳn xuống



Tư Mã Khôi nói với ba người còn lại: “Tôi đoán, nỗi sợ của con người đối với đại dương dưới lòng đất ắt hẳn không phải xuất phát một cách ngẫu nhiên, mà nguyên nhân gốc rễ bắt nguồn từ vụ đại hồng thủy do người Bái Xà cổ đại gây nên năm xưa. Trận lũ lụt lịch sử đó đã nhấn chìm rất nhiều lục địa và hủy hoại trên chín mươi phần trăm thành tựu của nền văn minh cổ đại, trong đó có rất nhiều lĩnh vực mà con người không thể khôi phục lại từ đầu. Đến tận ngày nay, con người vẫn cực kỳ nhạy cảm đối với các di chỉ nước ngầm, đồng thời vẫn giữ nguyên nỗi sợ hãi không gì sánh nổi đối với dòng nước sâu. Trên thực tế, tâm lý ấy xuất phát từ ký ức mông lung của loài người về kiếp nạn thời tiền sử. Tuy đại dương dưới lòng đất này rất đáng sợ, nhưng chúng ta đã hiểu sơ qua tình hình của nó, nên chắc chắn sẽ tìm thấy đường thoát thân thôi. Mối nguy hiểm lớn nhất ở đây chính là ngọn núi từ….”



Anh vừa dứt lời, thì thấy phía xa có lằn sét sáng trắng xẹt qua, trên mặt biển thấp thoáng xuất hiện một dải bóng đen lờ mờ, dường như đó là những dãy núi nhấp nhô.



Bốn người lặng phắc, mắt nhìn chằm chằm về phía trước, nhưng luồng sét trong sương không xuất hiện lại nữa, mặt biển chỉ còn màn đêm bao la và tiếng sóng ầm ào cuộn trào.



Khi thủy thể 30° vĩ Bắc tuần hoàn trở lại, đội khảo cổ ngồi trong vỏ ốc, dập dềnh trôi theo dòng nước, sớm muộn cũng sẽ bị núi từ dưới lớp vỏ Trái đất hút chặt, có điều cụ thể khi nào xảy ra điều đó thì họ không thể tiên liệu trước được. Tuy vậy, chẳng ai ngờ cả đội lại tiếp cận núi từ một cách mau chóng đến vậy.



Gần hòn đảo cô độc ấy có rất nhiều cương thi giống như con ma chết đuối, tổ tiên của chúng đều là những nạn nhân bị hút chặt vào đây, họ dần dần thoái hóa thành loài động vật máu lạnh nửa người nửa cá, rồi trốn biệt trong hang động hoặc dưới nước sâu, tập tính vô cùng hung hãn, tàn ác. Chúng trèo qua vách núi chẳng khác nào đi trên đất bằng, đó chính là những đối thủ khó đối phó nhất.



Cao Tư Dương dõi mắt nhìn dãy núi nhấp nhô, cô vội vã cầm chắc tay súng, căng thẳng nhìn vùng nước lân cận một cách chăm chú, như thể đang đề phòng bọn ma nước đột ngột trèo lên vỏ ốc.



Tư Mã Khôi vốn là người điềm tĩnh trước mọi biến cố, anh thắt lại dây mũ cho chắc, mở chốt an toàn của khấu súng Walther P38, sau đó cất hầu hết số nến xương cá dự trữ vừa chế vào trong ba lô sau lưng, chỉ để lại mấy cây đưa cho Thắng Hương Lân soi đường.



Hải ngọng lập tức giương khẩu súng săn Canada lên kiểm tra, thấy chỉ còn ba viên đạn ghém, tất cả đều chưa bị ẩm ướt, anh liền nạp đạn vào ổ, hai mắt dán chặt vào mặt nước đen ngòm, rồi hỏi: “Khi nãy mọi người có nhìn rõ không? Đó là núi từ thật à? Sao tôi thấy nó to thế nhỉ?”



Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.