Dịch: Đặng NamBa người đầu óc mơ hồ, hoàn toàn không lý giải được những thứ đang thấy trước mắt, đành ỷ vào lá gan lớn mà tiến về phía trước một hồi. Chẳng mấy chốc từ xa xa thấp thoáng hiện ra những nóc nhà, phòng ốc ngay ngắn vuông vức, chẳng ai ngờ được đó thế mà lại là một thôn làng sáng như ban ngày, cho dù có đốt trăm ngọn đèn dầu cũng không sáng bằng. Tôi trong đầu thầm nghĩ: Thật có một nơi xa xỉ dùng toàn đèn điện như này sao? Tuyền béo lúc trước chỉ là thuận miệng nói như vậy, không nghĩ tới cậu ta đoán bừa mà lại thành thật! Nếu như không phải sử dụng đèn điện thì làm sao cả thôn lại sáng được như thế?
Ba người núp ở phía xa quan sát cả nửa ngày, từ đầu đến cuối vẫn không thấy bóng dáng một ai, lại đến gần hơn một chút, liền thấy nhà nào nhà nấy đều bị rêu xanh bám đầy, lá mục cùng bùn đất bao phủ, chỉ có thể nhận ra đường nét đại khái, cũng không biết ánh sáng là từ đâu chiếu tới. Đối mặt với thôn dã nằm sâu trong lòng núi này, chúng tôi cũng chỉ có thể vô căn cứ mà suy đoán, có lẽ nơi đây giống như thế ngoại đoàn nguyên (Trans: Thế ngoại đào nguyên là nơi biệt lập với thế giới bên ngoài, nơi không có tranh đua, ganh ghét, chỉ có thiên nhiên và những con người hiếu khách), từ rất nhiều năm trước vì để tránh bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh loạn lạc nên toàn bộ người dân đã rời thôn vào trong khe nứt trên Hắc Sơn Đầu ẩn cư, sau này mọi người đều chết hết nên mới biến thành bộ dạng như ngày nay. Bất quá các thôn dân từ đầu vốn đi vào từ khe nứt phía trên nhưng tại sao lại sống ở dưới này? Lại thử giả định một chút, cứ cho là họ đúng là sống ở trên kia thật, sau đó vì một biến cố gì đó khiến cho đất đá sụp đổ, thôn xóm cùng rừng rậm xung quanh toàn bộ rơi xuống nơi này, người thì chết hết trong khi đó cây cối vì sao vẫn còn sinh trưởng được bình thường như chúng tôi đang thấy? Rốt cuộc nguồn sáng kia là từ thứ gì mà ra?
Nguồn sáng to lớn ấy hiện trên đỉnh đầu, hình dáng giống một cột sáng, đoàn người chúng tôi tiến thân vào trong sương mù, hoàn toàn không nhìn ra đến tột cùng nguồn sáng đó là thứ gì. Tôi không dám lơ là, đem xẻng công binh trong tay đưa cho Tiêm Quả giữ phòng thân. Ba người đi vào trong thôn, thấy ở đầu thôn có bố trí mấy cái chòi canh gác dùng để phòng vệ, cả thôn kích thước không lớn lắm, ước chừng chỉ có mấy chục gian nhà, tám chín phần hầu như là được giữ gìn hoàn hảo. Trong đó đáng chú ý nhất là một gian nhà nằm ở chính giữa thôn, so với các gian nhà khác khéo phải lớn hơn gấp đôi. Tôi đánh mắt ra hiệu với Tuyền béo, ý bảo cậu ta cùng đi vào nhìn thử một chút!
Hai người lấy xẻng cạo bỏ lớp đất bùn bám trên cánh cửa, liền thấy cửa gỗ có dán một bức tranh Môn Thần, màu mực đã sớm bong đi hết, gian nhà này cũng không phải được xây hoàn toàn bằng gạch, mà là tường đất trộn bùn, xây thêm chút tường đá gia cố bên ngoài, trên nóc nhà dựng bằng một tầng gỗ tròn, lại lấy cỏ tranh rải lên, không khác là bao so với những ngôi nhà khác trên núi. Trên cánh cửa có một khoen sắt hình tròn, tôi tiến lên định đẩy ra nhưng thử mấy lần đều không được, có thể là cửa đã bị cài chốt khoá từ bên trong. Tuyền béo khệ nệ bê đến một tảng đá lớn, dùng sức ném một cái thật mạnh, đập vỡ cánh cửa. Tuy trong thôn khắp nơi đều có ánh sáng nhưng trong phòng lại là một mảnh tối đen, Tiêm Quả tay cầm đèn pha chiếu vào, chỉ thấy bụi đất cùng mạng nhện giăng đầy khắp nơi.
Đợi cho mùi xú uế bị phong bế lâu ngày bên trong tan hết, ba người lần lượt chui vào, chỉ thấy ở phòng ngoài có một cái bàn thờ, nằm ngổn ngang một góc, trên vách tường treo một bức hoạ, trong đó vẽ cảnh khôi đại tiên đang cưỡi trên lưng một cóc, đầu đội mũ chân đi giày, trong miệng ngậm một cái tẩu thuốc, tay bưng kim nguyên bảo, áo quần loè loẹt xanh xanh đỏ đỏ, hình tượng hết sức quỷ dị. Phía dưới bức hoạ là bài vị tổ tiên, trong góc nhà bày từng tầng từng hàng rất nhiều quan tài, kích thước khác nhau, nhưng chung quy tất cả đều không thể nói là to lắm, cái nhỏ thì chưa bằng một cái ngón tay, còn cái lớn nhất thì cũng chỉ cỡ cỡ hộp đựng giày, nhưng lại giống hệt quan tài vẫn hay bán trong tiệm, dưới đáy cũng được vẽ phúc tự liên hoa bằng chu sa, mấy bộ xương trắng nằm la liệt trên đất. Tuyền béo nói: “Thờ cái gì không thờ, lại đi thờ một con chuột nhắt? Đem nó tôn lên làm tổ tiên gia?”
Tôi cũng cảm thấy kỳ quái, dân gian xưa nay vẫn có tập tục thờ cúng cung phụng ngũ đại tiên gia, lần lượt là: “hồ, hoàng, bạch, liễu, khôi” (Trans: Hồ tiên là hồ ly, hoàng tiên là chồn vàng, bạch tiên là nhím, liễu tiên là rắn và khôi tiên là chuột), đây là loại sắp xếp dựa theo màu sắc. Ngoài ra còn có địa bát tiên, so với ngũ đại tiên gia thì nhiều hơn ba vị, trong đó cũng có chuột. Bởi vì loài chuột biết bơi cho nên trong thuỷ bát tiên cũng có nó nốt. Nhưng bất luận sắp xếp thế nào thì nó đều đứng hàng cuối cùng, dân gian vẫn thường hay thờ khôi tiên gia cũng không có gì là lạ, nhưng đặt cùng bài vị tổ tiên thì tôi chưa thấy qua bao giờ. Tôi đứng trước bức hoạ khôi đại tiên ngắm một hồi lâu, chợt bừng tỉnh nhận ra - đây là những người đi đào vàng!
Năm đó trong khe núi có rất nhiều người tham gia đãi cát đào vàng, đều là những kẻ lưu manh côn đồ có tiếng, nghèo mạt hạng đến nỗi trên đầu không có mái che, dưới chân không có đất dẫm, đến khi chết chỉ “đóng” được cái quan tài da chó, vậy cái gì gọi là “quan tài da chó"? Chính là ném xác lên núi cho chó hoang cắn xé, nằm trong bụng chó, há chẳng phải là quan tài bằng da chó sao? Nghe người già nói trong núi có mạch vàng, liền túm năm tụm ba thành một nhóm tiến vào núi, khiêng đào cào cuốc hùng hục bửa cả máu, cuối cùng nhiều lắm cũng chỉ kiếm được vài miếng vàng vụn bé xíu, phát tài hay không tạm chưa nói đến, cứ ba ngày hai bữa lại xảy ra án mạng vì vài mẩu vàng mà tàn sát nhau, thế là có người liền đề xuất không bằng mọi người tập hợp lại với nhau, dần dà lâu ngày hình thành nên Kim Bang, ỷ vào người đông thế mạnh cho nổ tung triền núi đào ra mạch vàng. Nhất là cho tới những năm cuối thời nhà Thanh, đám người này quy mô dần dần bành trướng, gì mà giang hồ đạo sĩ, thổ phỉ hồ tử, phạm nhân lưu đày, thậm chí còn có cả mấy tên da trắng Liên Xô, nói chung loại người gì cũng có, phần lớn là đám ô hợp, tên cầm đầu tự xưng là kim đầu. Chỉ có những kẻ đó ở trong nhà mới cung phụng hương khói khôi đại tiên, bởi vì khôi đại tiên giỏi đào hang, leo xà nhà, chui hầm, lội nước, chính là những thủ đoạn cần thiết đối với đám kim phỉ này. Hơn nữa theo như truyền thuyết dân gian kể lại, khôi đại tiên có thể biết trước tương lai, giúp người giàu sang, liền đem khôi đại tiên tôn làm thần tài gia, từ đó về sau người dân vùng Đông Bắc mới bắt đầu có tập tục thờ cúng như này. Dưới bức hoạ chân dung khôi đại tiên bày một loạt tổ tiên bài vị, đã nói rõ rằng những người đào vàng này là họ hàng đồng tông đồng tộc. Có thể đoán được, bọn họ ở trong núi tìm được mạch vàng, bởi vì quá tham lam nên đã cày nát cả ngọn núi, khoét rỗng lòng đất, không hề nghĩ tới bên dưới có một khe nứt sâu không thấy đáy, khiến cho cả toàn thôn sụp xuống, thôn dân cũng đều chết hết.
Ba người chúng tôi lại tiến vào phía trong, bên trong chia làm ba phòng nhỏ, hai bên là sương phòng, gian chính giữa đặt một cái giường đất, trên tường dán tranh Tết, cửa phòng phía Đông bị khoá lại, Tuyền béo một cước đá văng cánh cửa, chỉ thấy trong phòng cũng có một cái giường. Trên giường đất đặt một cỗ tử thi quần đỏ áo đỏ từ đầu tới chân, da thịt khô héo, tóc mọc dài che kín cả mặt, bất quá vẫn có thể nhận ra đây là một cô gái, dùng một sợi dây bền chắc trói ngược lại ra sau. Tôi không dám để cho Tiêm Quả nhìn thấy cảnh này, liền khép lại cửa, đi sang sương phòng phía Tây không khoá nhìn một cái, liền thấy phía dưới gầm giường có hai cái túi da đặt trong rương sắt lớn, một túi bên trong đựng mười mấy khối vàng tổ ong (Trans: Nguyên văn là “cẩu đầu kim”, nhưng mình search thử thì ra hình mấy cục vàng có lỗ như tổ ong nên tạm gọi như thế, các bạn có thể search 狗头金 để dễ hình dung), túi còn lại thì chứa toàn súng, có dài có ngắn, trừ súng của Liên Xô chế tạo còn có cả súng trường được tuồn ra từ kho quân dụng thời kỳ Đông Bắc vẫn bị quân Nhật chiếm lĩnh, bất quá phần lớn đều đã hoen gỉ mốc meo, cò súng kẹt cứng không bóp được nữa. Nằm trong rương còn có mấy khẩu súng lục cùng băng đạn lắp sẵn được bọc trong vải dầu, vuốt thử vẫn thấy lớp dầu bóng nhẫy, không khác gì súng mới, đây chính là khẩu Browning M1900, hay thường được gọi là “súng lục thương bài”, có nơi còn gọi thất liên tử hoặc thất âm tử, một băng bắn được liên tục bảy phát đạn. Trong rương niêm phong đựng đầy đầu đạn súng lục vàng óng, ngoài ra còn có rất nhiều thuốc nổ dùng để phá núi.
Có câu “Bạch tửu hồng nhân diện, hoàng kim hắc nhân tâm", đám người đào vàng sợ nhất là gặp phải thổ phỉ cướp bóc, lại ẩn cư ở trong rừng sâu núi thẳm, thậm chí bản thân cũng có thể nói là “kim phỉ", lâu nay vẫn luôn dũng mãnh nhanh nhẹn, không chịu sự quản thúc của quan lại, trong thôn có cất giấu súng là điều đương nhiên. Hơn nữa nhìn đống vũ khí này cũng đủ hiểu đám kim phỉ này giàu có đến mức nào, những năm đầu thời kỳ ấy, một cây súng trường đổi được hai con ngựa, một viên đạn trị giá hơn tám quả trứng gà, dù cho có là địa chủ đại hộ thuê vài tay súng về bảo tiêu cũng không mua được nhiều súng như thế.
Tôi cùng Tuyền béo, Tiêm Quả, mỗi người tự chọn cho mình một khẩu súng lục để phòng thân. Tuy khẩu “đồng pháo” kia của Tuyền béo hơi một tí là lại tắc đạn nhưng uy lực không hề nhỏ, cậu ta không nỡ vứt bỏ nên vẫn dứt khoát đem khoác trên lưng, rồi mở balo ra nhét vào mấy bọc thuốc nổ cùng vài băng đạn súng lục, lại còn muốn vét nốt chỗ vàng tổ ong kia. Cậu ta lý sự rằng lúc trước vì mải đuổi theo tên chuột đất, chưa kịp móc lấy mấy cái nhẫn vàng ở trong quách đá, lần này mang mấy khối vàng về tặng cho cậu Tứ, cậu lại chẳng cười không ngậm được mồm cả ngày ý chứ! Tôi hù doạ cậu ta: “Những kẻ đào vàng này có ai là không tham lam? Giờ chúng ta cầm theo vàng của người chết đi, chỉ sợ không ra khỏi được nơi này!”
Tuyền béo thế nhưng đếch thèm quan tâm: “Vàng tổ ong này là từ trong núi sinh ra, dựa vào cái gì không để tôi mang đi? Lại nói người chết rồi hoá thành ma thành quỷ thì cần vàng làm cái gì? Đem đi biếu Diêm vương à?”
Tôi đáp: “Cậu mang theo một khối là đủ rồi, từng ấy cũng phải đánh ra được chục cái nhẫn vàng, khe nứt này rốt cuộc sâu đến nhường nào chúng ta còn chưa rõ, hung hiểm không ít, mang nhiều vác nặng sẽ càng gây ra nhiều phiền toái hơn!”
Tuyền béo nói: “Còn có gì mà nguy hiểm cơ chứ? Tên chuột đất kia chẳng phải đã chết rồi sao?”
Tôi nói: “Trước chưa nói đến những nguy hiểm khác, cái chúng ta cần quan tâm bây giờ là những thôn dân này chết như thế nào?”
Tuyền béo vẫn chưa rõ ý tôi: “Cả thôn rơi vào trong lòng đất, ngã từ trên cao chết hết chứ sao nữa, đâu còn sống được?”
Tiêm Quả nghe ra được ý tứ trong lời của tôi, nói: “Cả thôn cùng với nền đất bên dưới cơ hồ vẫn giữ nguyên dạng, đồ đạc trưng bày trong nhà cũng không bị đổ vỡ xê dịch, cho nên sau khi rơi xuống các thôn dân chưa chắc là đã chết.”
Tuyền béo nói: “Bọn họ bị vây khốn ở chỗ này… chết đói chết khát ư?”
Tôi đáp: “Hai người có thấy đống xương trắng ở phòng chính ngoài kia không? Nếu như nói sau khi chết da thịt đều bị rữa nát hết, vậy quần áo trên người biến đi đâu mất rồi? Nếu như nói không kiếm được đồ ăn thức uống, thôn dân tại sao lại đóng kín cửa, trốn ở trong phòng không đi ra ngoài? Từ cách bày biện cũng như chỗ súng ống đạn dược kia, khoảng thời gian nơi này bị vùi lấp sụp xuống đây chắc cũng chưa quá lâu, cùng lắm chỉ khoảng năm sáu chục năm trước, bức bích hoạ khôi đại tiên trong phòng mực vẽ còn chưa bay hết, quần áo trên người tử thi hãy còn chưa bạc màu.”
Đây mới chỉ là ý thứ nhất, còn ý thứ hai, ánh sáng trước thôn cũng thật là cổ quái, nơi này là rừng sau núi thẳm tuyệt không có lấy một dấu chân người, bên dưới khe nứt đào đâu ra điện? Việc chúng tôi phải làm bây giờ là thu thập những gì hữu dụng rồi mau chóng rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt. Bất quá những thôn dân thờ phụng khôi đại tiên này, quanh năm suốt tháng ở trong núi đào đất tìm vàng, sau khi bị rơi xuống dưới này đều không thoát ra được, liệu chúng tôi nắm chắc được mấy phần hay kết cục rồi cũng như họ? Tôi bảo Tuyền béo cùng Tiêm Quả trước cứ ở lại chỗ này, vào trong gian chính nhìn một chút xem có đồ gì dùng được hay không, còn tôi thì một mình đi sang mấy nhà bên cạnh quan sát, nhà nào nhà nấy đều cửa đóng then cài như nhau, trong nhà đều là xương trắng, có thể thấy rằng thôn dân sau khi rơi xuống khe nứt cũng không có ngã chết, nhưng vì để trốn tránh điều gì đó cho nên toàn bộ cửa nẻo đều bị đóng chặt. Tường đất các thứ về cơ bản khá là chắc chắn, chỉ có nóc nhà là được lợp từ cỏ tranh, có thứ gì muốn chui vào trong nhà thì chắc chắn đều là từ trên đó đi xuống, thôn dân là bị những thứ đó ăn thịt!
Vốn từ đầu cứ tưởng ánh sáng là từ trong thôn phát ra, bây giờ mới phát hiện ra cái thôn này căn bản là chẳng có tí điện nào, mấy thập niên trước xảy ra biến cố mà sụp xuống khe nứt trong núi, lúc ấy đèn dầu vẫn là thông dụng nhất. Nơi này thế đi quanh co rối rắm, hai bên là vách đá thẳng tắp, chính giữa lúc rộng lúc hẹp, đất đá từ trên cao rơi xuống dần dần chất thành đống, có nơi cao vống lên, lại có nơi thấp hẳn xuống, mây mù tràn ngập, không biết thứ gì đang phát sáng. Đương lúc tôi vừa bước ra, ánh sáng từ trong rừng sâu đột nhiên biến mất, tôi chột dạ cảm giác có chuyện không ổn, lo lắng hai người kia gặp phải chuyện gì nguy hiểm, vội vã trở lại gian nhà lớn nhất trong thôn. Tuyền béo tìm được một cái chum lớn bên cạnh giường đất, bên trên có nắp đậy, còn dùng một khối đá lớn đè lên, mở ra nhìn một cái, trong chum có mấy chục bình đựng sáp thắp đèn dầu được bịt kín, bên trong là kình ngư cao chất lượng thượng đẳng, cái gọi là “kình ngư cao” chính là dùng mỡ cá voi chế biến thành, có thể đốt được rất lâu, lại không cay mắt, nhưng giá cả đặc biệt đắt đỏ, là thứ hàng có được từ thương nhân người Nhật Bản thời Mãn Châu, ở nơi rừng sâu núi thẳm như này chỉ có đám kim phỉ mới có khả năng dùng nổi. Tiêm Quả thì từ trong rương tìm được mấy quyển sách cũ nát, phần lớn đều bị ẩm ướt, lật mãi chẳng được trang nào, những quyển mở được bên trong ghi chép lại số vàng cả thôn đào được, số súng ống đã sắm, thậm chí còn ghi lại cả số người đã mua về làm nô lệ, gần như thành một cái phả hệ, bên trên ghi tên của chủ hộ.
Tôi hỏi Tiêm Quả: “Có tìm ra tấm bản đồ nào không?” Tiêm Quả lắc đầu bảo chưa thấy, những kẻ đào vàng này đối với vị trí của mạch vàng còn coi trọng hơn cả tính mạng của mình, tuyệt sẽ không lưu lại bất kỳ đầu mối nào. Chúng tôi lấy một ít kình ngư cao ra để thắp đèn dầu, mượn ánh sáng soi từng trang sách một nhưng đa số toàn là sổ sách kế toán với lại gia phả, chẳng có ích gì, bất quá cuối cùng cũng mở trúng một quyển nội dung ghi lại toàn bộ đại sự đã phát sinh trong thôn, mọi người cùng chăm chú đọc.
Thì ra năm đó có một tên kim phỉ vào trong núi đào huyệt để chôn ngựa, bất ngờ tìm được mạch vàng, liền lập tức trở về đem tất cả họ hàng chuyển đến nơi này, năm này qua năm khác đào vàng bên dưới thôn, hang đất càng khoét càng sâu, vàng càng đào càng nhiều, chẳng mấy chốc mà đã phát tài, giàu nứt đố đổ vách. Một lần nọ, thủ lĩnh đám kim phỉ này bỗng thấy ở sâu trong hang có bạch quang loé lên, bên cạnh người lại có một tên anh rể rất hay giở trò vuốt mông ngựa, nói cho hắn biết đây chính là điềm lành đại cát đại phúc, thứ đồ vật phát sáng kia có khả năng là “Kim vương thi y" trong truyền thuyết. Từ lâu đã có truyền thuyết kể lại rằng, trong chốn hoang sơn dã lĩnh vùng Đông Bắc xuất hiện một vị “Kim vương", thiên phú dị bẩm, có sở trường xem thế núi tìm mạch vàng, nơi nào có vàng đều không thoát khỏi ánh mắt của hắn, thật có thể nói là phú gia địch quốc, vì sau khi chết muốn được vũ hoá phi thăng, dùng toàn bộ kỳ trân dị bảo trong thiên hạ chế tạo thành một món bảo y làm áo liệm, đồng thời ra lệnh cho hậu nhân đem mình chôn ở trên mạch vàng. Tương truyền nếu như có thể đoạt được kiện bảo y này, không chỉ bảo đảm một đời vinh hoa phú quý, mà còn có thể chia đất phân cương, trở thành một phương nhân chủ đế vương. Thủ lĩnh kim phỉ tin là thật, để cho thủ hạ tiếp tục đào xuống sâu hơn hòng đoạt lấy kim vương thi y, từ đó đổi tên thành Cô Đạo Quả, tự phong là Thảo Đầu Thiên tử, còn phong cho vợ hắn làm Hoàng hậu nương nương, tên anh rể biết coi bói được làm Quốc sư, hai trưởng lão trong tộc lần lượt trở thành Tả hữu thừa tướng, những người giữ sổ sách là quan văn, giám công là võ tướng. Như người vẫn nói: không có quy củ không thành đất nước, thủ lĩnh kim phỉ sau khi xưng vương, đem tộc quy lập ra phải càng sâm nghiêm hơn trước, nếu như có người dám cất giấu vàng làm của riêng, hoặc là nói cho người ngoài biết thông tin về vị trí của mạch vàng, không chỉ bắt nuốt than nóng để cho kẻ đó từ nay về sau không thể nói gì được nữa, mà còn chặt đứt hai chân sau, trên người khoét ra vô số vết rạch, lột da rồi nhân lúc máu còn chưa khô bọc lên một tấm da sói, nhốt ở trong hầm ngục, hai bữa nửa ngày lại đem ra quất tới tấp một phen để làm gương cho mọi người. Đọc đến chỗ này, tôi cùng Tuyền béo và Tiêm Quả đồng thời nhớ tới con bái đã tập kích chúng tôi ở trước bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, tuy chưa thể xác định một trăm phần trăm, thế nhưng con “bái" đó hơn phân nửa là từ thôn này chạy trốn ra ngoài.
Lại đọc tiếp nội dung phía dưới, kim phỉ ở trong núi đào được một cái động vàng khá sâu, bên trong là một cái ổ chuột đông nhung nhúc, bọn chuột này không chỉ số lượng nhiều mà kích thước cũng rất lớn, hơn nữa còn dám cắn người. Suốt những năm cuối thời Thanh cho đến tận bây giờ, vùng Đông Bắc liên tiếp bùng phát mấy lần dịch chuột, dịch chuột không giống với các loại dịch bệnh khác, trừ tỷ lệ tử vong rất lớn ra, tính lây lan cũng cực mạnh, thường thường một lần chết là chết cả gia đình, vì phòng ngừa dịch bệnh tiếp tục mở rộng sang các vùng khác thì chỉ có cách là đem xác người chết đi thiêu chứ tuyệt đối không được chôn. Bên cạnh việc xử lý người bệnh còn phải lo đến việc diệt tận gốc nguồn bệnh, cho nên dân gian phát triển một loại thuốc chuột cực kỳ lợi hại, bài thuốc bí truyền có thể xưng là nhất tuyệt, thuốc chuột ở mấy vùng quan nội (Trans: chỉ miền Tây Sơn Hải Quan, Trung Quốc) chuột phải ăn vào mới chết, mà ở đây chỉ cần để ở góc nhà, bầy chuột chui qua khe tường vào nhà trộm lương thực, từ xa ngửi thấy mùi liền sẽ lập tức tắt thở, một đêm có thể hun chết đầy một bao tải chuột, thật phải nói là “trăm chuột trăm chết, một con không lọt”. Bất qua kim phỉ trước giờ vẫn luôn thờ phụng khôi tiên gia, một mực mê tín coi là thần tài, cho rằng đã chọc giận đại tiên gia, không dám hạ thuốc chuột, mà đi mua lấy một đại cô nương, bắt mặc áo đỏ quần đỏ, trói chặt tay chân lại rồi ném vào trong động, nói là cưới vợ cho đại tiên gia. Hơn nữa còn đẽo lấy rất nhiều quan tài cỡ nhỏ, phá núi đào hầm không tránh được việc phải dùng tới thuốc nổ, các thôn dân mang toàn bộ số chuột vô tình bị nổ chết gom lại đặt vào trong những cỗ quan tài tí hon ấy, đốt trường minh đăng đem hương khói thờ cúng chung một chỗ với bài vị tổ tiên. Trong thời kỳ loạn lạc ấy, thứ không đáng tiền nhất chính là mạng sống con người, một đại cô nương chỉ đổi được năm cân gạo lép. Người sống bị ném xuống sẽ trở thành thức ăn của bầy chuột, chỉ trong chớp mắt liền trở thành một đống xương trắng, không chỉ không khiến cho khôi đại tiên nguôi giận, mà ngược lại còn đưa tới nhiều chuột mò đến hơn. Mặc dù nội dung tiếp theo ra sao không được ghi chép lại nhưng tôi cũng đã phần nào mường tượng ra được - đám kim phỉ vì muốn tìm được kiện bảo y nên dốc sức đào càng ngày càng sâu, cuối cùng đào phải khe nứt trong núi, toàn thôn sụp xuống, người trong thôn bị bầy chuột gặm sạch sẽ chỉ còn sót lại xương trắng! Mà hôm đó lại đúng ngày trong thôn mua tới một người phụ nữ, mặc áo đỏ giày đỏ rồi lấy dây trói lại, chuẩn bị đến giờ làm lễ cưới vợ cho khôi đại tiên thì bất ngờ cả thôn liền sụp vào trong lòng đất. Ban đầu thôn dân lấy người sống để cung phụng khôi đại tiên, cũng không biết rằng bất cứ con gì một khi đã được cho ăn thịt người thì sẽ vĩnh viễn không muốn ăn thứ gì khác, rốt cuộc lại rơi vào kết cục giống như những người bị đem đi làm vật hiến tế kia, không phải báo ứng thì là gì?
Cái này quả thật chính là ứng với câu nói: “ác giả ác báo, thiện giả thiện lai”, ba người lúc này đều cảm thấy lạnh sống lưng, không biết bầy chuột ăn thịt người có còn quanh quẩn ở xung quanh đây không nữa, so sánh với toà Liêu mộ âm u kia, nơi thôn dã không có người sống này còn kinh khủng hơn. Tuyền béo hỏi tôi: “Này Nhất ạ, cặp đùi này của tôi đếch phải làm bằng sắt, từ tít trên vách đá kia leo xuống, xuống đến đây lại phải đi đi lại lại như vậy cả nửa ngày, tôi với cậu đều không chịu nổi nữa rồi, Tiêm Quả còn tệ hơn, không bằng ở lại đây nghỉ ngơi một chút. Căn nhà này dù gì bốn phía cũng có vách tường vững chãi, chỉ cần bịt kín lại nóc nhà bên trên thì sẽ không sợ có con chuột nào lọt vào được. Hơn nữa suốt một đường đi vào đến đây cũng chưa có thấy dù chỉ là một cái đuôi chuột. Các cậu dù cho đem trái tim để vào trong bụng thì trời cũng không sập xuống được đâu.”
Tôi mặc dù nóng lòng tìm đường thoát thân nhưng cũng không dám đi bừa, cả ba đều mệt đến lả cả người, bụng réo sôi ầm ầm vì đói, trên người hoàn toàn không còn một chút sức lực nào, ai cũng không biết tiếp theo còn phải đi mất bao nhiêu lâu nữa, có hay không sẽ gặp những tình huống không lường trước nổi, một khi đi được nửa đường kiệt sức không bước nổi tiếp, lại không tìm được chỗ nghỉ ngơi, vậy thật sự là rất nguy hiểm. Có lẽ nên nghe theo lời Tuyền béo, tạm dừng chân ở đây, ăn chút lương khô hồi phục chút khí lực, rồi thảo luận qua về bước kế tiếp phải đi thế nào. Bất quá mặc dù gian nhà chúng tôi đang ở là gian lớn nhất trong thôn, nhưng bên trên cũng chỉ là lấy cỏ tranh lợp thành mái, dùng thứ gì mới có thể chặn được bầy chuột ăn thịt người kia?
Tuyền béo nói: “Nhà này chia làm hai gian, đại môn rộng, nhị môn hẹp, gian tiền đường thờ cúng khôi đại tiên kia thì không ở được rồi, còn gian phía Đông và phía Tây trần nhà được đóng mấy tấm bạch dương, không phải vị kia vẫn nguyên vẹn không bị gặm thành xương trắng sao? Chúng ta tháo bỏ cánh cửa phía trước, chặn lại hai cánh cửa sau, rồi đến gian phòng phía Tây ở tạm, thứ gì cũng đừng hòng vào được.”
Tiêm Quả hỏi cậu ta: “Anh vừa mới nói cái gì? Trong gian phòng phía Đông vẫn còn có một người?”
Tuyền béo thuận miệng nói: “Có một cô nương áo đỏ… ” Tôi vội vàng ngắt lời cậu ta: “Trong thôn có nhiều người chết, mắt đã không thấy thì cứ coi như không có đi.”
Tiêm Quả nghe tôi nói như vậy, tựa hồ như đã đoán ra được điều gì đó, cũng không truy hỏi nữa, quay qua giúp chúng tôi chặn cánh cửa lại. Tôi dùng mắt ra hiệu cho Tuyền béo, hai người khiêng một chiếc rương nằm không đến gian phòng phía Đông. Tôi giơ ngọn đèn dầu lên, bước tới quan sát cỗ thi thể đang nằm trên giường đất một chút, trong đầu nghĩ: Tất cả mọi người trong thôn đều bị bầy chuột gặm chết, nhưng cô gái này lại là chết vì đói, bọn chúng không kéo vào trong này sao? Nghĩ đến đây, tôi cẩn thận suy xét thật kỹ khắp một lượt kết cấu bố trí của gian phòng này, bên trên có vài tấm gỗ bạch dương làm trần nhà, cũng phủ một lớp cỏ khô thật dày làm mái, bốn bức tường được làm từ đất, dán lên vài bức tranh Tết, không ngoài mấy loại như Thương vương, Ngưu mã thần,.., không nhìn ra điểm nào khác thường so với các phòng còn lại.
Tôi dứt khoát không nghĩ nhiều nữa, rút đoản đao ra cắt bỏ những sợi dây trói trên người nữ thi, chợt phát hiện ra những sợi dây đó thế mà lại là “ngũ quỷ chu sa thừng", là dùng năm sợi dây gai cho vào ngâm trong nước chu sa mà thành. Đừng nói là trói một người phụ nữ, cho dù có trói một đại hán vạm vỡ khoẻ mạnh đến mấy, chỉ cần dùng tới ba sợi là đã quá đủ rồi, khí lực có lớn hơn nữa cũng không thoát nổi. Mà tương truyền một khí bị ngũ quỷ chu sa thừng trói chặt ở trên người, sau khi chết biến thành quỷ cũng không thể thoát thân được. Kim phỉ đem người sống ném vào trong hang cho bầy chuột ăn, sẵn vốn mê tín, sợ rằng những cô gái này vì chết quá thảm sẽ hoá thành lệ quỷ quay lại báo thù, cho nên mới phải dùng ngũ quỷ chu sa thừng. Những sợi dây này vừa thô ráp lại vừa dẻo dai, còn thắt nút chết, cắt nửa ngày mãi mới đứt được, tôi cùng Tuyền béo đem xác nữ thi bỏ vào trong rương, đóng chặt nắp lại.
Tôi sở dĩ làm như vậy, thứ nhất là vì không muốn Tiêm Quả thấy được lại đâm ra sợ hãi, thứ hai là do thấy cô gái này quả thật đáng thương, bị đám kim phi đem ra mua bán như loài gia súc, chuẩn bị trở thành cô dâu của khôi đại tiên, tuy rằng đến cuối cùng không bị ném vào trong động làm mồi cho bầy chuột, nhưng phải nằm chờ chết với cái bụng rỗng tuếch, chỉ sợ cũng không dễ chịu lắm. Chúng tôi đặt cô ta vào trong rương cũng coi như một cái quan tài, tiếp theo ngàn vạn lần chớ có đẻ ra mấy con yêu bướm yêu trùng gì gì đó!
Hai người an bài mọi việc thoả đáng, đóng cửa gian phòng phía Đông lại, đem đèn dầu đặt lên trên giường đất đồng thời cũng chính là một chiếc bàn, ngồi xuống chia nhau lương khô ăn tạm chống đói. Cái gọi là lương khô, chẳng qua chỉ là mấy miếng bánh bột ngô để khô, đưa lên miệng cắn một miếng tưởng chừng như có thể làm gãy cả hàm răng, có ném cho chó chó còn chê nữa là người, bất quá đói đến mức này rồi không trôi cũng phải cố mà nuốt. Tôi nhồm nhoàm nhai vội mấy miếng bánh đậu, mở nắp bình nước dã chiến tu ừng ực một hơi dài, rốt cục cũng cảm thấy khá lên nhiều. Tiêm Quả không nhịn được tò mò, ngồi bên cạnh hỏi tôi: “Hai người các anh mới vừa rồi đi làm gì thế?”
Tôi biết cô ấy đã phát giác mọi chuyện, bởi vì lúc trước Tuyền béo đã lỡ miệng nói ra rồi, Tiêm Quả cũng không phải là không nghe rõ, chẳng qua là không dám hỏi trực tiếp, cho nên bây giờ tôi cứ việc nói thẳng: “Trong gian phòng kia có một cái xác phụ nữ, là bị kim phỉ mua về để làm cô dâu cho khôi đại tiên, chúng tôi đem xác để vào rương.”
Tuyền béo còn chen mồm vào, khẳng định chắc nịch một câu: “Cô yên tâm, không chui ra được đâu!”
Tuyền béo miệng cứ bô bô nói không chịu nghĩ chứ cậu ta cũng không có ác ý gì, bất quá dễ khiến người nghe cảm thấy sợ hãi, tôi không để cậu ta nói tiếp nữa, ba người ngồi quanh một vòng trên giường đất, thảo luận xem làm thế nào để thoát khỏi chỗ này. Chúng tôi đứng từ trên cao thấy trong khe nứt có một luồng ánh sáng phát ra, đến khi xuống tới nơi đi vào trong thôn lại chẳng thấy đâu nữa cả, xung quanh rơi vào một mảnh đen nhánh, cho dù có đầy đủ súng đạn cùng thiết bị chiếu sáng đi chăng nữa, chúng tôi cũng không dám đi linh tinh ở trong rừng rậm, ít nhất phải vạch ra được một phương hướng cụ thể rõ ràng. Trước mắt chúng tôi vẫn nên ở lại trong thôn, tuy nói toàn bộ thôn đây nơi đây đều bị bầy chuột ăn thịt, nhưng dẫu sao đó cũng là chuyện của mấy chục năm về trước, chúng tôi thẳng một đường đi tới nơi này cũng chưa có gặp qua một con chuột nào, nếu như bọn chúng muốn công kích người thì sớm đã lao ra tấn công. Trong thôn ít nhất cũng có gian nhà để trú ẩn, cùng với đèn dầu, kình ngư cao đầy đủ có thể cung cấp ánh sáng. Duy nhất có một việc khiến cho người ta không nghĩ ra, vẫn là tại sao nữ thi áo đỏ ở trong gian phòng phía Đông không bị bầy chuột động tới, thôn dân còn lại thì bị gặm sạch sẽ đến quần áo cũng chẳng còn. Ngẩng đầu ba thước có thần minh, cả thôn bị rơi vào trong khe nứt, toàn bộ tộc kim phỉ bị chuột ăn thịt, duy chỉ có người này vốn là người ngoài nên được bỏ qua, nói là gặp báo ứng cũng không có gì cường điệu, không tin cũng không được.
Tiêm Quả cũng cảm thấy kỳ quái: “Kim phỉ đào hang tìm vàng, trong hang lại không có thứ gì ăn được, tại sao lại kéo đến nhiều chuột như vậy làm ổ? Bọn chuột ăn thịt người là ai cũng cắn hay như nào, sao có người bị người không?”
Tuyền béo đáp: “Cô em muốn biết thì phải đi hỏi bọn chúng nó chứ hai anh đây biết thế quái nào được? Kỳ thực tôi đoán rằng bọn chuột này cũng không thông minh mấy đâu, các cậu xem não chúng nó to chừng nào, làm sao nghĩ ra được mấy cái chủ ý quái gở gì được cơ chứ? Chớ nên mê tín khôi đại tiên có gì mà đạo với chẳng hạnh, không phải đám kim phỉ kia suốt ngày thờ cúng đó sao, cuối cùng vẫn đều bị chính bầy chuột mình cung phụng ăn thịt!”
Ba người suy đoán lung tung cả nửa ngày, từ đầu đến cuối vẫn chưa tìm ra được điểm mấu chốt. Đầu tôi như muốn nổ tung, suy nghĩ này nối tiếp suy nghĩ kia, tất cả đều xoay quanh câu hỏi vì sao nữ thi trong gian phòng phía Đông kia lại không bị bầy chuột ăn thịt? Trong chuyện này nhất định phải tồn tại một nguyên nhân nào đó, những thôn dân kia và cô gái này khác nhau ở điểm nào? Tôi ngờ ngợ được rằng hình như mình đã bỏ qua một điểm nào đó vô cùng trọng yếu, nhưng lúc này cả người tôi chỗ nào cũng mệt mỏi rã rời, đầu óc tê liệt cơ hồ không thể nghĩ được cái gì nữa, cho nên tia suy nghĩ mong manh này liền bị vùi sâu vào một góc nào đó trong não hải, vô luận thế nào cũng không gợi lại ra được. Trước tiên hãy nói tới những điểm tương đồng, mọi gian nhà trong thôn đại khái đều giống hệt nhau, đèn dầu cùng giường đất, trần nhà lợp cỏ tranh, tường đất dán tranh Tết, cửa gỗ bạch dương. Chỗ bất đồng cũng rất rõ ràng, cô gái bị đám kim phỉ mua về để cưới vợ cho khôi đại tiên, không phải là người trong thôn, còn lại thôn dân đều làm kim phỉ, đồng tông đồng tộc, vậy thì như nào? Bầy chuột có thể phân biệt ai là người trong thôn và ai là người ngoài thôn sao? Hay là do cô gái đó trên người bị ngũ quỷ chu sa thừng trói chặt, mà bầy chuột thì lại sợ chu sa? Trước giờ chỉ nghe nói đến rắn sợ hùng hoàng chứ chưa thấy ai nói chuột sợ chu sa bao giờ, tuy rằng chu sa cùng thạch tín, hùng hoàng, phèn sống, từ thạch đều được xưng là ngũ độc, nhưng dùng chu sa để trừ tà quả thực cũng chỉ là chuyện mê tín mà thôi. Tôi cảm thấy vẫn là nên nhìn kỹ tình hình xung quanh một chút, chớ để xảy ra sai sót thì có hối cũng không kịp. Liền từ trên giường đất đứng dậy, cầm lấy ngọn đèn dầu kình ngư cao giơ lên, đẩy cửa đi vào trong hậu đường, lại mở cánh cửa gian phòng phía Đông ra, bước vào bên trong nhìn một cái, nhất thời lông tóc toàn thân dựng ngược lên - nữ thi lúc trước bị tôi cùng Tuyền béo đặt vào trong rương sắt, giờ phút này đang ngồi ngay ngắn ở trên đầu giường.
Người tôi như dại đi, trong thôn này ngoài chúng tôi ra hoàn toàn không còn người sống nào khác, mấy người chúng tôi nãy giờ vẫn ở trong Tây phòng, nữ thi bên gian này làm sao có thể tự mình thoát ra? Các thôn dân đều bị bầy chuột ăn tươi nuốt sống, nhưng lại không có một con nào chui vào trong phòng này, điều này thật sự là quá tà môn đi, tôi có phải hay không không nên cởi bỏ ngũ quỷ chu sa thừng trói trên người cô ta? Lúc này mồ hôi lạnh chạy dọc sống lưng, liền nhớ tới tổ phụ tôi khi còn sống từng dạy tôi một câu nói mà người hết sức tâm đắc, “một phần bản lĩnh chính phần lưỡi dẻo” hay là “luyện chân luyện tay không bằng luyện miệng” gì gì đó, một khi gặp phải tình huống nguy hiểm mà bản lĩnh lại không đủ dùng thì chỉ có thể trông chờ vào cái miệng, có câu nói “một lời chết người” chính là vì thế. Tôi trước dùng miệng lưỡi thử cùng cô ta tâm sự vài câu, nếu như hỏng việc thì cũng không cần phải gấp, chẳng phải vẫn còn hai cái chân để chạy sao? Nghĩ tới đây đầu óc tôi như được thả lỏng, tinh thần thoải mái, mở miệng nói: “Đại tỷ khổ cực, cũng không phải là do tôi đem tỷ đi trói lại mà là người ta, tỷ chớ nên giở trò quấy phá trước mặt thằng em này! Tôi luôn luôn tự nhủ đã làm người thì phải đàng hoàng tử tế, từ bé tới giờ chỉ nhằm đường thẳng đường lớn mà đi, không dối trá lừa lọc, không nhuốm bụi trần, lớn từng này tuổi chưa từng làm chuyện gì thất đức. Tôi là thấy tỷ đáng thương, bị bọn kim phỉ độc ác kia ép làm cô dâu đem dâng cho khôi đại tiên, sau khi chết lại không được chôn cất cẩn thận cho nên mới đem dây thừng cắt bỏ, đặt tỷ nằm tạm trong rương xem như là đã khâm liệm, chẳng nhẽ tỷ không muốn? Đã như vậy thì, tỷ đi đường tỷ, tôi đi đường tôi, chúng ta nước sông không phạm nước giếng!”
Mới nói được tới đó, bỗng nhiên một trận âm phong thổi qua, quần áo thốc lên soàn soạt, ngọn đèn dầu trên tay tôi lập tức tối dần, ánh lửa chỉ còn bé bằng cái hạt đậu, tối đến nỗi khiến cho người ta không mở mắt nổi, ngẩng đầu nhìn lên, nữ thi ngồi trên giường đất đang dùng ngón tay chỉ thẳng vào mặt tôi!
Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Thiết Bị Chiếu Sáng (Trung)” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng & http://truyenfull.xyz