Mộ Vân Thâm

Chương 3



Khi Dục Sơ bước vào, Mạch Sở Địch đang đứng bên hồ khúc thủy lưu thương giữa phòng hoa, thấy hắn tới, xa xa vẫy tay gọi: “Điện hạ tới xem này, khê tôn nở rồi.”

(Khúc thủy lưu thương là một trò chơi dân gian ở Trung Hoa xưa. Tháng ba âm lịch, mọi người ngồi hai bên cạnh hồ (hoặc sông), thả chén rượu xuống dòng nước cho nó trôi, chén rượu theo dòng chảy, dừng lại trước mặt ai, người đó phải cầm chén rượu lên uống.)

Dục Sơ đi lên phía trước, chỉ thấy hai bên bờ khúc thủy lá xanh mọc thành bụi, ngay thẳng như kiếm, trên đó từng đóa hoa tím xinh xắn ung dung, cánh hoa đang buông xuôi điểm vài đường vân vàng nhạt như cánh bướm, bên bờ nước ánh lên như cây đèn cao hoa lan, đẹp càng thêm đẹp.

“Chỉ khủng dạ thâm hoa thuỵ khứ, cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang*”, Tiểu Địch thật thanh tao.”

(Hai câu trong bài “Hải đường” của Tô Thức (Tô Đông Pha). Bản dịch của Nguyễn Sĩ Đại:

Gió đông phơi phới, màu xuân sáng

Bàng bạc trăng sương, bóng xế thềm

Nhưng sợ khuya rồi hoa ngủ mất

Vẻ hồng muốn ngắm, vặn đèn lên.)


“Đây là bài ‘Hải đường’ của Đông Pha cư sĩ, điện hạ biết không?”

Dục Sơ nghiêng đầu nhìn Mạch Sở Địch, thấy y cúi người xem hoa, nét mặt hân hoan, gò má như được hoa tô điểm thêm chút huyết sắc, bả vai và dáng lưng lại rất mực mảnh mai, dù phủ lên tầng tầng vải Hàng Châu hay gấm Tứ Xuyên cũng không che đậy sự ốm yếu bệnh tật. Dục Sơ nghĩ tiết trời mùa đông như thế, mà hoa mùa hạ đua nở, người với hoa trái ngược nhau, chừng như Mạch Sở Địch lấy mạng của mình dâng hết cho hoa, không khỏi lạnh lòng, kéo người bên cạnh lại, nói: “Chăm hoa vất vả, ngươi cứ để hạ nhân làm, tự mình ngắm là được.”

Mạch Sở Địch tựa trong lòng Dục Sơ, mắt vẫn nhìn lên hoa: “Kể cũng lạ, phòng này rất nhiều hoa nhưng không phải tay tôi thì không nở được.”

Dục Sơ nghe vậy càng lạnh lòng, như thể xương máu dưới bộ gấm vóc này chốc lát thôi sẽ tan theo gió, hắn muốn siết chặt tay, lại sợ làm y đau. Một lúc sau cửa có người gõ nhẹ, Mạch Sở Địch lên tiếng trả lời rồi nhận khay thuốc về, Dục Sơ kéo y ngồi trước bàn trà con, cầm chén thuốc lên nhấp một ngụm, đắng đến cau mày. Mạch Sở Địch đẩy tay hắn ra nhẹ giọng trách “Thuốc há có thể uống bừa”, vừa nói vừa nhận chén. Dục Sơ đem miệng chén đưa đến bên môi y, Mạch Sở Địch cũng không từ chối nữa, theo tay hắn chầm chậm uống. Thuốc còn chưa cạn, Dục Sơ đã lấy một viên mứt táo được đưa lên cùng với thuốc, thấy y uống hết, liền đút vào miệng y, lại cầm chiếc khăn tay trắng trên khay thuốc khẽ lau bên khóe môi y. Mạch Sở Địch ngậm mứt táo để trấn đi vị đắng, nghe Dục Sơ hỏi y: “Mấy phương thuốc mới này đều khó uống như thế sao?”

Mạch Sở Địch khẽ cười: “Tiểu Địch đã lớn như thế rồi, dù điện hạ không trông nom, thuốc có đắng nữa cũng uống được.”

Mạch Sở Địch trời sinh yếu ớt, từ bé thuốc thang không ngừng, đứa trẻ nhỏ như thế thì sao chịu được vị đắng của những toa thuốc kia. Mỗi lần đều là Dục Sơ đút mới bằng lòng uống, thế nên thời gian bệnh tình Mạch Sở Địch xấu nhất, Dục Sơ mười mấy tuổi cả ngày canh ở Mạch phủ, ngày tháng lâu dài, xem Mạch phủ như một nửa nhà mình.

Hôm nay, đã lớn.

“Cố Hoằng Chi bên kia, còn không chịu đồng ý?”

“Hình bộ dung hết cách rồi.” Vừa nói Dục Sơ vừa nhíu mày.

“Tiểu Địch vốn không trông cậy vào Cố Hoằng Chi có thể thành sự, chỉ cần gã không tự cho là thông minh khiến xảy ra rắc rối là quá tốt rồi.”

“Mất công bắt những kẻ kia lại không lấy được khẩu cung mong muốn, vẫn còn tốt?”

“Hai chữ ‘mất công’ của điện hạ, nói không thật.”

Dục Sơ cười, “Chỉ ngươi hiểu ta.”

Mạch Sở Địch lấy chén trà thanh lại vị ngọt trong miệng, chậm rãi nói: “Theo Tiểu Địch thấy, có hai chỗ không thật. Một, Cố Hoằng Chi thân là Quang lộc tự khanh chưởng quản yến tiệc trong cung, ngự tửu có độc mà không phát hiện, thất trách như vậy, tống gã vào ngục cũng không oan uổng.”

Dục Sơ hiểu Mạch Sở Địch lo lắng cho mình vì khiến người oan uổng mà phiền muộn, thay hắn phân ưu, hắn chỉ cười cười, đoạn nghe Mạch Sở Địch nói tiếp: “Hai, Thái tử ôn lương, không làm chuyện thất đức, nếu lần này bị chỉ tội mưu nghịch, không những bách quan không phục mà bệ hạ cũng không tin hoàn toàn, cứ không tìm được chứng cớ không giải quyết được gì như thế lại là hay nhất. Vậy thì khúc mắc khó giải, có thể khiến bệ hạ từ nay về sau hoài nghi hắn đề phòng hắn, thế là đủ.”

“Lời tuy hữu lý, nhưng mà đêm dài lắm mộng.”

“Người làm đại sự kỵ nhất là vì cái lợi trước mắt, điện hạ nhất định hiểu rõ hơn Tiểu Địch.”

Nói xong, sầu muộn của Dục Sơ tan biến, tay kéo vai Mạch Sở Địch, cười nói: “Ngươi nói ta nghe, Tiểu Địch có bao giờ sai.”

“Điện hạ, Tiểu Địch còn một câu.” Mạch Sở Địch lăng lăng nhìn chén trà trong tay, nói xong vẫn chưa ngẩng đầu. Dục Sơ thấy y do dự, vỗ nhẹ vai y: “Có chuyện không nói, vậy không giống với ngươi rồi.”

“Muốn thành đại sự, điện hạ còn phải đề phòng một người.”

Bàn tay Dục Sơ dừng một chút.

“… Công bộ Thượng thư Phương Đỗ Nhược, con nuôi Phương lão tướng quân, môn sinh Sử đài phủ, bình thường kết giao rộng rãi, danh tiếng quá mức tốt, ảnh hưởng trong triều… không thể khinh thường.”

Dục Sơ âm thầm thở phào một hơi, ngoài mặt lại nói: “Ta tưởng là ai, Tiểu Địch nói rất đúng, sau này ta sẽ chú ý.”

Mạch Sở Địch buông mắt cười cười, chậm rãi uống trà.

Những lời vừa tới bên miệng khi nãy, không phải những lời này. Có ý cũng tốt mà vô tâm cũng được, dù là ai trở thành Hoàng đế, tất cả cũng chỉ đợi một lời của đương kim thiên tử.

Chuyện liên quan đến Lục hoàng tử, không biết phải nói thế nào.

Đi một bước vây Nguy cứu Triệu, biết rõ thiên mệnh những vẫn đành ra hết sức mình.

(Vây Ngụy cứu Triệu: Năm 353 TCN, nước Nguỵ vây đánh kinh đô Hàm Đan của nước Triệu. Nước Tề phái Điền Kỵ dẫn quân đi cứu Triệu. Điền Kỵ dùng kế sách của quân sư Tôn Tẫn. Nhân khi nước Nguỵ không phòng bị kéo quân đi đánh Nguỵ, quân Nguỵ phải trở về bảo vệ đất nước, quân Tề thừa lúc quân Nguỵ mệt nhọc đã đánh bại quân Nguỵ tại Quế Lăng, do đó nước Triệu cũng được giải vây.)

Mạch Sở Địch nâng mắt nhìn về phía sườn mặt Dục Sơ.

Chỉ sợ ngày sau, tránh không khỏi…

Trước ngày đi Dục Thanh bày tiệc trong phủ Hoàng tử tiễn Phương Đỗ Nhược. Lúc Phương Đỗ Nhược đến, Dục Thanh một thân áo quần gọn nhẹ đang luyện kiếm tại hậu viện, Phương Đỗ Nhược cũng không quấy rầy hắn, đứng một bên xem gần nửa canh giờ. Đợi tới khi sắc trời dần tàn, hành lang thắp đèn, Dục Thanh thu kiếm, y phục không thèm đổi, đi về hướng y, vừa đi vừa nói: “Kiếm thế vừa lên, giữa chừng khó thu, phiền ngươi chờ rồi.”

Phương Đỗ Nhược cười, “Không sao, tôi thích xem.”

Võ nghệ của Dục Thanh khoan nói việc luôn luôn đứng đầu trong các Hoàng tử, mà dù có so chiêu với Ngự tiền thị vệ cũng chưa từng kém nửa phần. Sinh mẫu mất sớm, được Hoàng đế thương yêu gấp bội. Phương Đỗ Nhược tuy là con nuôi của Phương lão tướng quân, song từ nhỏ chỉ biết đọc kinh đọc sách, hoàn toàn không biết gì về võ nghệ, xem Dục Thanh tập kiếm luyện võ, chẳng qua vì thích khí thế vút bay như kinh hồng, oai vệ như du long của hắn, chứ tuyệt không nhìn ra chiêu thức gì. Dục Thanh biết y không hiểu, cũng không giải thích gì thêm, chỉ nói: “Phiền ngươi đợi thêm chút nữa, nếu ngươi không chờ được, luyện Tô khúc của ngươi là được, dù sao suối nước nóng cách nơi này khá xa, ta không nghe thấy được.”

Phương Đỗ Nhược cúi đầu cười, rút sáo trúc ra.

Một lát sau Dục Thanh thay xong y phục đến tìm y, mái tóc màu mật ướt đẫm, khoác ngoại bào màu tím như thường ngày, áo thấm ướt cả mảng. Phương Đỗ Nhược trông vậy thì nhíu mày bảo: “Thời tiết lạnh như vậy cũng không lau khô tóc, nhỡ bị phong hàn thì sao.” Dục Thanh vươn tay hất phần tóc phủ trên trán, trong mắt hiện lên chút hớn hở nho nhỏ: “Ta khác với thư sinh yếu đuối như ngươi, đừng nói là tắm, giờ xuống sông bơi cũng không bệnh.”

Phương Đỗ Nhược nghe Dục Thanh trêu mình, thầm nghĩ vị tiểu tổ tông này làm sao mà từng chạm vào nước sông tháng một. Cảm giác ấy y đã nếm rồi, cái lạnh đó, công nhân đắp đê từng trải cũng phải bệnh nặng một hồi, chứ đừng nói là bảo bối được nuôi trong cung. Trong lòng nghĩ vậy, ngoài miệng vẫn nói: “Điện hạ không lạnh, nhưng Đỗ Nhược lạnh, bếp lửa trong phòng đã đốt ấm lên, đi vào trong được không?”

Dục Thanh và Phương Đỗ Nhược vào phòng: “Tóc mái điện hạ đã dài như vậy không vướng víu sao? Sớm muộn cũng nên cắt đi thôi.”

Dục Thanh từ nhỏ chẳng sợ trời chẳng sợ đất, không hiểu sao rất sợ kéo. Khi còn nhỏ không biết, vừa lấy kéo sửa lại phần tóc mai mà ầm ĩ như trời sập, sau này lớn lên dù không náo loạn nữa nhưng trước sau cứ kéo dài được một ngày thì tiếp tục kéo dài, giờ nghe Phương Đỗ Nhược nhắc đến, không tiện phớt lờ, chỉ nói: ” ‘Tóc tai da thịt của thân thể, nhận được từ phụ mẫu, không được hủy hoại, là cái cơ bản của chữ hiếu’, một giới Bảng nhãn mà không hiểu sao?”

(Nguyên văn là “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã”, trích “Hiếu kinh · Khai tông minh nghĩa”.)

Phương Đỗ Nhược cười suýt ngã: “‘Dung mạo cử chỉ đáng xem, tiến lùi phải chuẩn’, cũng là từ ‘Hiếu kinh’ đó, không chỉnh tề là bất hiếu, đường đường là Hoàng tử mà không hiểu sao?”

(Nguyên văn là “Dung chỉ khả quan, tiến thoái khả độ”, trích “Hiếu kinh · Thánh trì”.)

Dục Thanh thấy thế thì lạnh mặt, Phương Đỗ Nhược tự biết thất lễ, vội thu lại nụ cười, đã thấy đôi mắt của Dục Thanh đảo đảo, nói: “Ngươi giúp ta cắt thì ta đồng ý.”

Phương Đỗ Nhược liên tục xua tay, “Thế không được, nếu cắt hỏng, để Hoàng thượng thấy được mà trách tội xuống, Đỗ Nhược làm sao đảm đương nổi.”

Đôi mắt trong ngần nhìn chằm chặp vào Phương Đỗ Nhược, ý cười lại hiện, “Đường đường là Công bộ Thị lang, thang mây súng đá dùng linh hoạt thế, một cây kéo nhỏ bé mà lại cầm không nổi? Hay là…” đang nói mắt chợt có chút sầu muộn, “… sợ việc hầu hạ lặt vặt này làm nhục thân phận Thị lang?”

“Dục Thanh!” Một tiếng trách cứ vừa ra khỏi miệng, Phương Đỗ Nhược liền biết mình lỡ lời, hoảng hốt đứng dậy, đã thấy Dục Thanh rũ mi, trên mặt không có tức giận, chỉ hờ hững không đoán ra tâm tư. Phương Đỗ Nhược trong lòng rối loạn, như chạy trốn bước ra cửa phòng, yêu cầu tỳ nữ lấy kéo về, thấy Dục Thanh vẫn ngồi như vừa rồi, uống từng ngụm trà. Phương Đỗ Nhược ổn định lại tâm trạng bước tới nói: “Nếu cắt hỏng thì đừng trách tôi.”

“Ta cho ngươi cắt, tất nhiên không trách ngươi.”

Phương Đỗ Nhược lấy ngón tay khe khẽ vuốt qua trán Dục Thanh, cầm mấy lọn tóc tinh tế trước trán sửa lại cho hắn. Dục Thanh vẫn luôn hạ mắt, hơi thở rất lặng. Một sợi tóc vừa cắt đi rơi trên lông mi hắn, hắn chớp mắt, sợi tóc rơi xuống gò má, Phương Đỗ Nhược đưa tay áo lên lau đi. Một lát sau Dục Thanh mở miệng: “Tóc mai của ngươi rất chỉnh tề, trước giờ là ai sửa?”

Phương Đỗ Nhược thấp giọng trả lời: “Là Bão Cầm trong phủ.”

“Thông phòng nha đầu*?”

(Thông phòng nha đầu là người hầu thân cận, thường giúp chủ nhân giải quyết vấn đề sinh lý…)

Phương Đỗ Nhược vốn còn đang hoảng loạn, nghe lời này thì dừng hẳn cây kéo: “Điện hạ nói đùa rồi, Đỗ Nhược phải tuân theo ngũ giới tu tại gia, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, điện hạ quên rồi ư?”

Dục Thanh lặng đi một lúc mới hỏi: “Nói thế, ngươi thật sự định cả đời không lập gia đình sao?”

“Đỗ Nhược không thể lập.”

“Quy củ Phật môn, chỉ cần báo với một người hiểu biết là được trừ giới, không phải sao?”

“Giới của Đỗ Nhược đã in trên trán, trừ không được.”

Phương Đỗ Nhược lúc này hơi cúi người, Dục Thanh nâng mắt lên, theo những sợi tóc mai buông xuống nhìn giới ba* lờ mờ trên ấn đường y, giữ ở trong lòng thật lâu cuối cùng mới lên tiếng hỏi: “Để đứa trẻ năm tuổi học cư sĩ giới, ngươi có từng nghĩ tới Phương lão tướng quân là vì sao không?”

(Giới ba là mấy chấm tròn trên đầu các hòa thượng á.)

Phương Đỗ Nhược hất đi một sợi tóc cuối cùng rơi trên vạt áo trước của Dục Thanh, “Gia phụ tất nhiên có đạo lý của gia phụ.”

“Tâm như nước lặng ấy à, thực sự là Bồ Tát.” Dục Thanh thản nhiên một câu, đứng dậy phủi phủi vạt áo, “Ta đói rồi.”

Phương Đỗ Nhược theo Dục Thanh đi qua hành lang tới hướng nhà ăn, mới đi vài bước, chợt nghe hắn nói: “Thọ thần của mẫu phi nương nương sắp tới, mấy ngày trước truyền chúng ta tiến cung chuẩn bị. Cùng ngồi tiếp đãi, Tam ca tất nhiên không cần phải nói, ngoài ra còn có muội muội của Lễ bộ Mạch đại nhân, cháu gái của nương nương, Như Hồng.”

Sinh mẫu của Dục Thanh mất sớm, khi còn nhỏ được Khắc quý phi trong cung nuôi lớn, vì năm đó nhỏ tuổi, Khắc quý phi chiều hắn còn hơn cả thân sinh Dục Sơ, Dục Thanh từ nhỏ cũng coi Khắc quý phi là mẹ. Cũng vì chuyện này, Phương Đỗ Nhược xưa nay luôn mừng thay hắn. Giờ nghe Dục Thanh nhắc tới, chỉ thấy trời lạnh đất giá, hai chân cũng không nghe lời.

“Ý tứ của mẫu phi nương nương, có lẽ là muốn nhờ phụ hoàng đem Như Hồng chỉ hôn cho ta làm chính phi, dù không nói hẳn nhưng xem như là rõ mười mươi.”

Phương Đỗ Nhược chậm rãi lê bước chân, miễn cưỡng cười bảo: “Mạch đại nhân phong tư kinh thế… Tài mạo Mạch tiểu thư tuy rằng Đỗ Nhược chưa có vinh hạnh thấy, nhưng chắc hẳn là không chê vào đâu được… Đỗ Nhược ở đây trước tiên xin chúc mừng điện hạ.”

Dục Thanh chưa đáp lễ, hắn vẫn đi về phía trước, vừa cất bước vừa đơm lời: “Hôm nay ta tham kiến phụ hoàng, trên tiệc Nguyên Đán người bị kinh hách, đã nhiều ngày bệnh tình dấy lên. Hơn nữa phía Bắc biên cảnh, tộc Thổ Dục Hồn đến xâm phạm, phụ hoàng lo lắng hết lòng, đêm đêm ngủ không an giấc. Ta xin phụ hoàng đi giết giặc bình lại biên cảnh, đề ra lời của Hoắc Phiêu Diêu rằng ‘Hung Nô chưa diệt, sao dám lập thất’, phụ hoàng rất vui, ý chỉ xuất binh nội trong mấy ngày nữa sẽ hạ.”

(Nguyên văn là “Hung nô vị diệt, hà dĩ gia vi” – câu nói của Hoắc Phiêu Diêu (hay Hoắc Khứ Bệnh.)

Phương Đỗ Nhược dừng chân. Dục Thanh bước về phía trước mấy bước, rồi ngừng hẳn.

Phương Đỗ Nhược có trăm ngàn lời muốn nói nghẹn ở cổ, ngực cuộn trào như sôi sục, nắm binh quyền, rời kinh thành, đều là bản thân dự liệu vì hắn mưu đồ, thận trọng tính toán quan hệ của Khắc quý phi với Tam hoàng tử, cũng là mình chuẩn bị chỉ điểm cho hắn, từ hôn… Những lời y chuẩn bị để nói với hắn giờ lại không thốt nên lời, thì ra điều bản thân mình hiểu, hắn cũng hiểu, bản thân mình biết, hắn cũng biết.

Tâm tư của hắn, đến giờ y còn nói không biết, thì là lừa người lừa mình thôi.

Thế nhưng, không biết phải nói thế nào, không biết phải nói ra sao.

Dục Thanh vẫn chưa quay người lại, Phương Đỗ Nhược cũng không đuổi theo, chỉ có năm bước, cận kề đến thế mà như cách trở thiên nhai.

“Lần này đi, tận cùng sông núi, đao kiếm không có mắt, điện hạ… xin hãy thật bảo trọng.”

Dòng dõi long phượng, bay tận cửu thiên*.

(Nguyên văn là “Phượng sồ long tử, tương tường cửu thiên”, ý chỉ tuổi trẻ tài cao.)

Y lại nhớ ra một số chuyện, nhưng mà chắc cũng chỉ là dư thừa mà thôi.

“Ta chỉ muốn xem,” giọng nói Dục Thanh cách bóng đêm mịt mờ truyền lại, “xem thiên hạ to lớn ngoài kinh thành này rốt cuộc có phong thái tươi đẹp gì, mà khiến ngươi lưu luyến không về.”

Không phải không muốn, là không dám.

Có những điều, một đời một kiếp này cũng không thể nói ra.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.