Đường Grafton, con đường dành cho người đi bộ đông đúc của thành phố Dublin, như bị cuốn đi với những dòng người đổ ra mua sắm giờ phút cuối cùng. Những bàn tay tranh nhau để chộp lấy được những món hàng còn sót lại cuối cùng trên kệ. Ngân sách và tất cả những ý nghĩ khác bay vèo qua cửa sổ khi những quyết định hấp tấp được đưa ra, chỉ còn dựa trên chuyện có thể mua được những gì và thời gian còn lại để mua sắm được bao nhiêu mà thôi, chứ cần thiết hay không thì điều đó không tồn tại trong đầu họ nữa. Cứ mua quà trước đã. Còn cho ai thì… để tính sau!
Trong khung cảnh ấy, Lou và Ruth nắm tay nhau, bước từng bước chậm rãi trên đường phố Dublin, cho phép cả người khác chen và đẩy mình. Lou có tất cả thời gian trên thế giới này. Ruth không hỏi gì cả. Cô đón nhận sự thay đổi mới mẻ của anh với một sự sung sướng. Tuy nhiên, với tất cả sự hoài nghi của mình, cô từ chối nói ra điều đó thành lời. Lou Suffern phải chứng minh nhiều hơn nữa cho cô kìa.
Họ đi dọc xuống đường Herry, con đường lúc này đầy ắp những quầy bán hàng trưng ra các món cuối cùng để dọn sạch kho: Nào đôc chơi và giấy gói quà, nào những dây kim tuyến lấp lánh. Những chiếc xe hơi chạy xuôi chạy ngược. Tất cả đều thể hiện rõ nét những giờ phút mua sắm cuối cùng của mùa Giáng sinh.
Trên con đường Moore, dọc theo những gian hàng bán hàng truyền thống, có cả những cửa hàng châu Á, châu Phi trộn lẫn vào.
Lou mua vài thứ. Sau đó họ dự tính ăn trưa ở khách sạn Westin, một tòa nhà lịch sử được xây dựng từ thế kỷ mười chín, trước kia là ngân hàng, còn bây giờ được biến thành khách sạn năm sao. Họ cùng nhau ăn trưa ở Đại Sảnh Ngân Hàng cũ, trong khi Pud đanh hết cả thời gian của mình để ngước đầu nhìn lên trần, ngắm nghía những trang trí kỳ lạ, rồi hét lên hết lần này đến lần khác để nghe tiếng của mình vang vọng trên trần nhà cao vút.
Lou Suffern nhìn cả thế giới này một cách khác hẳn trong ngày hôm nay. Thay vì nhìn nó tít từ tầng mười ba, anh đã chọn cách hòa nhập vào nó, thưởng thức nó.
Gabe đã đúng về con chuột. Anh ta đã đúng về chuyện Cliff sẽ dạy cho anh một thứ gì đó – sự thật thì nó đã xảy ra sáu tháng trước, nhanh như khi con chuột nhựa đập mạnh vào khuôn mặt anh. Chính những chuyện này là nguyên nhân của nỗi sợ hãi trong Lou và khiến lương tâm tội lỗi của anh được khơi gợi lên sau một thời gian dài bị chôn kín.
Thật ra là Gabe đã đúng về rất nhiều thứ. Giọng nói của anh ta cứ vang vọng trong lỗ tai anh, nói những từ ngữ mà anh không muốn nghe. Anh nợ Gabe rất nhiều. Lou hôn Ruth và tạm biệt những đứa trẻ, nhìn chúng an toàn trong chiếc xe của cô. Sau đó, anh hướng thẳng về văn phòng. Anh hãy còn một việc phải làm.
Ở tiền sảnh công ty, trong lúc chờ thang máy, khi thấy cánh cửa vừa mở, Lou bước vào thì cũng cùng lúc đó, ông Patterson bước ra.
“Trời! Lou!”. Ông ta kêu lên đầy vẻ ngạc nhiên. “Tôi không thể tin được là anh còn làm việc trong ngày hôm nay. Anh đúng là bị dính chặt với công việc rồi”.
Đôi mắt ông ta nhìn vào hộp quà mà Lou cầm trên tay.
“Ồ, không. Tôi đâu có làm việc. Không làm việc trong kỳ nghỉ lễ được”. Lou mỉm cười. “Tôi chỉ phải… Ừm…”. Anh không muốn kéo Gabe vào rắc rối này. “À, chỉ là tôi để quên một thứ trong phòng làm việc…”.
“Ừ, ừ… Tốt lắm, Lou!”. Ông Patterson đưa tay chà nhẹ trên mắt một cách mệt mỏi. “Tôi e rằng phải nói với anh một việc. Tôi đã căn nhắc nhiều lần xem nên hay không, nhưng tôi nghĩ rằng tốt nhất là mình nên làm. Tôi không phải đến đây trong buổi tối này để làm việc đâu…”, ông nói, “Alfred gọi tôi đến. Nói là nó rất gấp. Sau những gì xảy ra với Cliff, tất cả chúng ta đều lo sốt vó. Tôi e rằng chính vì thế nên tôi đã có những quyết định vội vã…”.
“Tôi nghe ông nói đây”, Lou nói, nỗi sợ hãi lớn dần trong anh. Cánh cửa thang máy đóng lại, không còn đường nào để thoát.
“Anh ta muốn có vài nhận xét về… vâng, về anh”.
“Vâng”, Lou nói chậm rãi.
“Anh ta đưa tôi những thứ này”. Ông Patterson thò tay vào túi, lấy ra cái lọ thuốc mà Gabe đã đưa cho Lou. Chỉ còn duy nhất một viên ở bên trong.
Alfred, con chuột cống, rõ ràng là đã chạy vội đến cái thùng rác để nhặt những bằng chứng chống lại anh.
Lou nhìn cái lọ đầy kinh ngạc, cố gắng quyết định xem mình nên từ chối dính líu đến những viên thuốc hay không. Mồ hôi ướt đãm lưng áo anh khi anh nhanh chóng nghĩ ra câu chuyện. Chúng là của bố anh. Không. Chúng là của mẹ anh. Cho cái hông đau của bà. Không. Anh có chứng đau lưng.
Anh nhận ra ông Patterson điều chỉnh giọng trở lại và bắt đầu nói.
“Anh ta nói điều gì đó về chuyện tìm thấy chúng dưới cái thùng. Tôi cũng không biết nữa”, ông Patterson nhíu mày. “Nhưng anh ta biết chúng là của anh…”.
Ông lại kín đáo dò xét Lou, cố tìm ra một sự thừa nhận nào đó.
Tim Lou đập thình thịch
“Tôi biết anh và Alfred là bạn bè”, ông Patterson nói, có một chút hoang mang. Gương mặt ông thể hiện rõ độ tuổi sáu mươi lắm của mình. “Nhưng sự quan tâm của anh ta dành cho anh hình như có một chút gì nhầm đường lạc lối. Nó khiến tôi nghĩ rằng mục đích của sự quan tâm ấy là để kéo anh dính vào những rắc rối”.
“Ừm…”, Lou nuốt nước bọt, mắt dán vào chiếc hộp nâu. “Đó không phải, ừm… đó không phải là… ừm…”. Anh ấp anh ấp úng trong khi cố gắng sắp xếp để nói ra một câu rành mạch.
“Tôi không phải là loại người thích xoi mói vào đời sống riêng tư của người khác, Lou. Những gì mà các nhân viên các đồng nghiệp của tôi làm trong thời gian rảnh rỗi với tôi hoàn toàn là chuyện riêng của họ, nếu như chuyện đó không ảnh hưởng đến công ty theo bất cứ cách nào. Vì thế, tôi không lấy gì làm vui vẻ với chuyện Alfred đưa cho tôi những thứ này”, ông nhíu mày.
Lou không trả lời, nhưng mồ hôi tiếp tục tứa ra, ướt đẫm. Ông Patterson thêm vào. “Nhưng có lẽ đó là thứ mà anh muốn anh ta làm?”. Ông hỏi, cố gắng phán đoán mọi chuyện.
“Hả?”. Lou lau trán. “Tại sao tôi lại muốn Alfred mang những thứ này đưa cho ông?”.
Ông Patterson nhìn anh chằm chằm, môi ông mím nhẹ. “Tôi không biết, Lou, anh là một người rất thông minh”.
“Sao cơ?”. Lou phản ứng lại, hoang mang cực độ với những lời rối rắm này. “Tôi không hiểu”.
“Anh cứ chỉnh nếu tôi sai nhé, nhưng tôi cho rằng…”. Ông nhếch nhẹ môi, làm thành một nụ cười, “Rằng anh đã suy nghĩ, cân nhắc để cố gắng hướng Alfred đi sai đường với những viên thuốc này. Bằng cách này hay cách khác, anh khiến anh ta tin rằng chúng là một thứ gì đó hơn mức một viên thuốc bình thường. Tôi nói đúng không?”.
Miệng Lou há hốc. Anh nhìn sếp của mình đầy kinh ngạc.
“Tôi biết điều đó”. Ông Patterson lắc đầu. “Anh giỏi. Nhưng không giỏi trong chuyện này đâu. Tôi có thể nói cho anh biết về những dấu xanh trên mấy viên thuốc đó”. Ông giải thích.
“Ông nói vậy có ý gì? Cái dấu xanh nào?”.
“Anh đã không cào hết toàn bộ những dấu hiệu trên viên thuốc”. Ông giải thích, mở chiếc lọ và dốc ngược nó để có thể trút hết những gì bên trong ra lòng bàn tay.
“Thấy những cái dấu xanh không? Nếu anh nhìn gần hơn, anh có thể nhìn thấy dấu vết của chữ D trước kia đấy. Tôi biết mà, tin tôi đi…”.
Lou nuốt nước bọt. “Chỉ có một viên này với cái dấu màu xanh thôi?”.
“Không, có hai viên thuốc. Cả hai đều có dấu xanh cả. Tôi đã uống hết một viên rồi. Tô hi vọng anh không phiền vì điều đó. Tìm dưới cái thùng hay không phải trong thùng cũng kệ, cái đầu của tôi nặng quá mức nên tôi phải uống một viên. Cái mùa Giáng sinh khỉ gió này chắc đủ sức đưa tôi đi sớm đến nấm mồ rồi đấy”.
“Ông đã uống một viên?”, Lou thở hổn hển.
“Tôi sẽ bỏ vào viên khác”. Ông phẩy mạnh tay. “Anh có thể mua chúng ở bất kỳ hiệu thuốc nào mà. Ngay cả tiệm tạp hóa hay sạp báo cũng có. Chúng là loại thuốc thông dụng”.
“Chuyện gì xảy ra khi ông uống viên thuốc đó?”.
“À, nó làm bay biến cơn đau đầu của tôi, chẳng phải thế sao?”. Ông nhíu mày. “Mặc dù nói thật với anh là nếu tôi không về tới nhà trong vòng một tiếng đồng hồ tới thì tôi chắc mình sẽ lại có một cơn đau khác đấy!”. Ông nhìn chiếc đồng hồ trên tay.
Lou lặng thinh.
“Tuy nhiên, tôi chỉ muốn cho anh biêt rằng tôi không thích những điều mà Alfred đang cố gắng làm, và rằng tôi không nghĩ anh… à… vâng… Bất kể những gì Alfred đã cố gắng làm để khiến tôi phải tin, cũng không có chỗ nào trong công ty cho những người như anh ta. Tôi phải để anh ta đi thôi. Giáng sinh vui vẻ! Chúa ơi, cái công việc này nhiều lúc giống như con quái vật với chúng ta vậy”. Ông nói, đầy vẻ mệt mỏi, có vẻ già hơn cả cái tuổi sáu mơi lăm của mình.
Lou vẫn lặng thinh. Tâm trí anh đang gào thét bao nhiêu câu hỏi. Alfred không thay thế chúng, hay Lou cũng đã uống những viên thuốc đau đầu trong hai trường hợp mà anh được nhân đôi. Lou lấy cái khăn tay trong túi, mở ra để kiểm tra viên thuốc còn lại trong đó. Tim anh như muốn đóng băng trong ngực. Dấu vết mờ mờ trên viên thuốc chứng tỏ nó cũng là viên thuốc đau đầu. Sao anh lại không chú ý đến điều đó trước kia nhỉ?”.
“À, tôi thấy anh còn một viên thuốc khác nữa cơ đấy”. Ông Patterson cười khẽ. “Bắt quả tang nhé, Lou. Thôi được rồi, đây này, đưa lại cho anh luôn viên còn lại. Thêm nó vào cho trọn bộ sự tập của anh”. Ông chìa cái lọ ra.
Lou nhìn ông ta và mở ra khép lại miẹng mình cứ như một con cá vàng, mặc dù chẳng thốt được lời nào cả trong lúc cầm lấy cái lọ có viên thuốc còn lại từ ông Patterson.
“Tốt hơn hết là tôi nên đi thôi”. Ông Patterson chầm chậm quay đi. “Giáng sinh vui vẻ, Lou!”.
Ông chìa tay ra.
Lou đứng trơ như phỗng. Tâm trí anh đầy ắp những câu hỏi xoay như chong chóng về những viên thuốc đau đầu.
Hay là anh bị dị ứng với chúng? Hay là chuyện nhân đôi chỉ là một tác dụng phụ của thuốc? Hay là anh nằm mơ? Không. Không. Rõ rằng là nó đã xảy ra. Gia đình anh có thể làm chứng cho sự hiện diện của anh trong cả hai trường hợp.
Thếnghĩa là nếu nó không phải do những viên thuốc, thì nó là…
“Lou”, ông Patterson ói, bàn tay vẫn còn đưa ra trong không khí.
“Tạm biệt”, Lou nói khô khốc, sau đó phải tằng hắng giọng. “Ý tôi muốn nói là Giáng sinh an lành”, anh chìa tay ra, bắt tay sếp mình.
Ngay khi ông Patterson vừa quay lưng, Lou chạy vội vào lối thoát hiểm, đâm bổ xuống những bậc thang để xuống tầng hầm. Nó vẫn lạnh lẽo như thường lệ. Ánh đèn ở cuối phòng đã được sửa, không còn chập chờn sáng tắt. Nhạc Giáng sinh vang ra khe khẽ từ dưới cánh cửa.
Bản nhạc “Lái xe về nhà đón Giáng sinh” của Chris Rea vang vọng nghe lành mạnh thế nào. Lou không gõ cửa trước khi vào. Anh đẩy cánh cửa bằng chân, vẫn cầm món quà bằng hai tay.
Căn phòng tạo nên một cảm giác trống rỗng hơn bất kỳ lúc nào trước đó. Gabe cuộn người trong chiếc túi ngủ và chiếc chăn.
“Chào anh, Lou”, anh ta nói, không quay người lại.
“Anh là ai?”, Lou hỏi. Giọng anh run rẩy khi anh đặt gói quà xuống, lên trên một cái kệ.
Gabe đứng dậy. “Được rồi”, anh ta nói thật chậm, nhìn Lou từ trên xuống dưới. “Đây là một cách thú vị để bắt đầu một cuộc đối thoại đấy chứ”.
“Ánh mắt anh ta dừng lại nơi chiếc hộp trên kệ. Anh mỉm cười: “Một món quà tặng tôi à?”.
Anh bước thẳng tới nhận lấy nó trong khi Lou vội vã bước lùi một bước, ánh mắt đầy sợ hãi.
“Hừm”, Gabe khẽ nhíu mày, sau đó quay sang chiếc hộp được gói trong giấy gói quà trên kệ. “Tôi có thể mở ra không?”.
Lou không trả lời. Những giọt mồ hôi nhỏ tong tong trên mặt anh. Ánh mắt anh chuyển động theo từng cử chỉ của Gabe. Theo sát và đầy sắc sảo. Như có cả thời gian trong tay, Gabe cẩn thận mở gói quà được bọc giấy tuyệt đẹp một cách chậm rãi. Khi chạm đến phần cuối của gói quà, anh càng thong thả kéo từng miếng keo, cố giữ cho không rách tờ giấy gói.
“Tôi rất thích tặng quà người khác”, anh giải thích, vẫn giữ một giọng đều đều tự nhiên. “Nhưng thỉnh thoảng lắm người khác mới tặng quà cho tôi. Anh thì khác hẳn, Lou. Tôi luôn luôn nghĩ thế”. Anh ta mỉm cười với anh. Anh ta mở chiếc hộp, và cuối cùng mở món quà ở bên trong. Một chiếc máy sưởi bằng điện cho căn phòng lạnh lẽo của anh ta. “Ôi trời, đây quả là một món quà đầy tinh tế. Cảm ơn anh. Tối ẽ luôn luôn được ấm áp ở không gian kế đến của tôi, chứ không phải ở đây. Thật không may, tôi sắp chuyển đi rồi”.
Lou giật nảy mình. Anh bước lùi lại, tựa vào tường, đủ xa Gabe trước khi cất giọng run rẩy: “Những viên thuốc anh đưa cho tôi là thuốc đau đầu”.
Gabe vẫn dồn hết sự chú ý vào chiếc máy sưởi, loay hoay với nó. “Ông Patterson nói với anh như thế đúng không?”.
Lou bình tĩnh lại, mong đợi ở Gabe một câu chối bỏ. “Vâng, Alfred đã lấy chúng từ cái thùng và đưa chúng cho ông ta”.
“Đúng là con chuột cống nhỏ”. Gabe lắc đầu, mỉm cười. “Có thể đoán trước được Alfred. Tôi đã nghĩ rằng có thể anh ta sẽ làm thế. Nào, chúng ta có thể cho anh ta một động cơ khiến anh ta dai dẳng đến thế. Bởi vì anh ta thật sự không muốn anh có được vị trí đó, phải vậy không?”.
Lou không trả lời. Và Gabe tiếp tục. “Tôi đánh cuộc là anh ta đã chạy bổ đến chỗ ông Patterson, nhưng điều đó không đem lại cho anh ta lợi ích gì…”.
“Ông Patterson đã sa thải anh ta”. Lou nói khẽ, vẫn cố gắng để hiểu rõ được tình hình.
Gabe mỉm cười, dường như hoàn toàn không ngạc nhiên. Chỉ hài lòng thôi, ,một cảm giác rất hài lòng với anh ta.
“Nói cho tôi biết về những viên thuốc đi!”, Lou thấy giọng mình run rẩy.
“Vâng, nhưgnx viên thuốc đó nằm trong một lọ thuốc đau đầu của tôi được mua ở một sạp báo. Tôi phải mất cả thế kỷ để cạo hết những chữ nhỏ đi. Anh biết đấy, đâu có nhiều viên thuốc không có nhãn hiệu trên đó ngày nay đâu”.
“ANH LÀ AI?”, Lou hét toáng lên, giọng anh đầy vẻ sợ hãi.
Gabe nhảy dựng lên một cái, sau đó nhìn anh với vẻ như bị làm phiền đôi chút. “Anh sợ tôi à? Bởi vì anh phát hiện ra nó không phải là những viên thuốc có thể sinh sản vô tính? Nó là cái gì với khoa học ngày nay? Mọi người đều tin nó cực kỳ nhanh. Trong tất cả những khám phá mới về khoa học, luôn có những viên thuốc mới trị cái này, những viên thuốc mới hỗ trợ cái kia. Để ốm hơn, để mọc tóc… vân vân và vân vân. Nhưng nó sinh ra một chút tác dụng phụ nào đó, tất cả mọi người đều trở nên hoảng sợ”. Anh lắc đầu.
“Nếu phép màu được tạo thành từ những hóa chất và giống hệt nhau, mọi người đều sẽ tin. Thật đáng thật vọng. Tôi đã phải giả vờ đó là những viên thuốc, Lou ạ. Bởi vì anh không tin tôi. Và tôi đã đúng. Phải vậy không?”.
“Anh ám chỉ gì khi nói là tin anh? Anh là kẻ quái quỷ nào thế? Tất cả những chuyện này là thế nào?”.
“Nào…”, anh nói, nhìn Lou đầy buồn bã. “Tôi nghĩ rằng cần phải có một chút gì đí rõ ràng rồi”.
"Rò ràng à? anh nói đi, đừng để mọi thứ lẫn lộn tùm lum với nhau".
"Những viên thuốc. Chúng chỉ là một trò lừa bịp của khoa học. Tất cả đều là thuốc đau đầu, chỉ có vài viên khi anh cầm lấy và uống vào, tôi thổi riêng vào đấy một thứ__". Anh ta mỉm cười.
Lou chà tay lên mặt đầy mệt mỏi, đầy hoang mang, đầy e ngại. "Tất cả những gì tôi cho anh là cơ hội, Lou. Mọi người đều xứng đáng có cơ hội. Ngay cả anh, bất chấp anh nghĩ gì".
"Cơ hội cho CÁI GÌ?". Lou gào lên.
Những từ sau đó Gabe thốt ra khiến xương sống Lou lạnh từ trên xuống dưới. Và anh chỉ muốn nhanh chóng chạy về với gia đình mình.
"Thôi nào, Lou, anh biết mà...".
Đó là những từ Ruth vẫn nói. Đó là những từ thuộc về Ruth.
"Một cơ hội để dành một chút thời gian bên gia đình, để thật sự hiểu về mọi người, trước khi... vâng... chỉ là để dành thời gian cho họ thôi".
"Anh nói để thật sự hiểu về mọi người trước khi cái gì?". Lou hỏi, khẽ hơn.
Gabe không trả lời, quay nhìn đi chỗ khác, biết rằng anh đã nói quá nhiều.
"TRƯỚC KHI CÁI GÌ?". Lou lại gào lên lần nữa, tiến sát đến gương mặt Gabe.
Gabe im lặng. Nhưng đôi mắt xanh như pha lê của anh như xoi vào tận sâu thẳm tâm trí Lou.
“Có phải sẽ có chuyện gì đó xảy ra với họ không?”. Giọng anh run lên và anh chuyển sang hoảng loạn. “Tôi biết điều đó. Tôi đã từng luôn cảm thấy mình lo sợ điều đó. Cái gì sẽ xảy ra với họ?”. Anh nghiến răng lại. “Nếu anh làm bất cứ điều gì với họ, thì tôi sẽ…”.
“Không có gì xảy ra cho gia đình anh đâu, Lou”. Gabe nói.
“Tôi không tin anh”. Anh nói với vẻ hoảng loạn, thò tay vào túi và lôi ra chiếc điện thoại di động của mình. Anh nhìn màn hình: Không có cuộc gọi nhỡ. Bấm số gọi về nhà thật gấp, anh quay lưng lại với căn phòng nơi nhà kho, ném cho Gabe một cái nhìn hằn học, rồi chạy… chạy… và chạy…”.
“Nhớ thắt dây an toàn, Lou!”. Gabe hét lên đằng sau anh. Giọng anh ta vọng theo tai Lou cho tới tận khi Lou chạy xuống bãi đậu xe dưới tầng hầm.
Với chiếc điện thoại bấm chế độ tự động về số ở nhà vẫn đang reng chuông, Lou lái chiếc xe ra khỏi bãi đậu dưới tầng hầm với một tốc độ khủng khiếp. Một cơn mưa nặng hạt gõ thình thình lên cửa kính xe. Bấm chiếc cần gạt nước trên kính xe cho nó chạy ở tốc độ nhanh nhất, anh lái ra khỏi bãi đậu xe trống rỗng.
Tiếng kêu bíp bíp tự động cảnh báo thắt dây an toàn vang lên càng lúc càng to, nhưng anh không nghe thấy. Tâm trí anh đang lo lắng… Những chiếc bánh xe thể thao Porsche trượt nhẹ trên con đường ướt mưa. Anh băng thẳng về nhà. Băng qua biển… Chiếc kim báo tốc độ rung rung như ngón tay cảnh cáo.
Mưa như xối xả khiến tầm nhìn bị giảm hẳn, nhưng anh không lo vì anh nằm lòng con đường này. Anh đã lái đi lái về những con đường này suốt cả đời mình. Và tất cả những gì anh quan tâm bây giờ là vượt qua những dải đất nhỏ ngăn cách anh với gia đình càng nhanh càng tốt.
Đã sáu giờ ba mươi. Hầu hết mọi người đều đã về nhà, sẵn sàng gửi đến nhau những món quà, sẵn sàng để cốc sữa và miếng bánh Giáng sinh bên ngoài cho ông già Noel. Sẵn sàng một ít cà rốt cho những con tuần lộc của ông ấy.
Gia đình Lou đều đã tụ tập ở nhà, ăn bữa tối – bưa tối mà anh hứa sẽ tham gia cùng với họ. Nhưng chẳng ai trong nhà trả lời điện thoại. Anh nhìn xuống chiếc điện thoại BlackBerry của mình để chắc rằng nó vẫn đang tự động gọi, mắt rời khỏi con đường.
Anh bị chệch một chút khỏi lằn đường ở giữa. Chiếc xe hơi chạy sau anh bấm còi loạn xạ và anh nhanh chóng dịch chuyển, điều khiển để trở về làn đường của mình trở lại. Anh phóng như bay băng qua khách sạn Marine nơi góc đường, lúc này đang tất bật với những bữa tiệc Giáng sinh của khách.
Nhìn thấy con đường phía trước trống trơn không có chiếc xe nào, anh tăng tốc nhanh hơn. Giờ thì phóng như bay qua nhà thờ, phóng như bay qua ngôi trường ven bờ biển, phóng như bay ngang qua những người láng giềng thân thiện đang ngồi bên ánh nến nơi cửa sổ.
Cây thông Noel vẫn lấp lánh những ánh đền chớp tắt. Phóng ngang qua vịnh, anh chào tạm biệt khe khẽ trong miệng trước khi vòng lên con đường dốc dẫn lên ngôi nhà anh trên đỉnh đồi. Mưa vẫn trút xuống xối xả, che khuất tầm mắt anh.
Hơi nước bắt đầu xuất hiện trên khung kính tước mặt. Anh dựa người tới trước, nhìn chăm chăm, chà chà với cổ tay chiếc áo khoác của mình lên mặt kiếng. Anh bấm nút mở chiếc thắt lưng an toàn, chồm về trước với hi vọng nhìn rõ hơn.
“Bíp, bíp, bíp”. Tiếng động báo hiệu yêu cầu thắt dây an toàn lại vang lên. Vừa lúc ấy, điện thoại cũng tiếp tục gọi tự động về nhà. Anh khát khao về với gia đình lúc này, để nói với họ những cảm xúc của anh dành cho họ. Chỉ khoảng 20 phút nữa thôi, anh sẽ về đến nhà.
Cuối cùng, chiếc điện thoại của anh cũng kêu “bíp” một cái, có tín hiệu cuộc gọi đã được kết nối. Anh nhìn xuống, thấy gương mặt của Ruth – bức ảnh nhận diện đi liền với số điện thoại được anh lưu sẵn hiện lên. Gương mặt cô, với một nụ cười lớn, với đôi mắt nâu, đầy vẻ dịu dàng và chào đón.
Chiếc Porsche Carrena 4S có một chế độ lái 4 bánh độc nhất vô nhị, có khả năng bám mặt đường tốt hơn bất cứ chiếc xe thể thao nào khác. Chiếc xe ấy có khả năng chạy trên con đường bị đóng băng, có khả năng giữ cho anh an toàn cả trong những góc quanh khó.
Thật không may, Lou không có được chiếc Porsche ấy. Anh đã đặt rồi. Nó sẽ được đưa tới vào tháng Giêng, chỉ một tuần nữa thôi. Và thế là, khi Lou nhìn xuống chiếc điện thoại di động BlackBerry của mình, tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm và hạnh phúc khi được nhìn thấy gương mặt của vợ, trong một tích tắc, anh không còn để mắt đến con đường trước mặt và lái vào khúc quanh kế đó quá nhanh.
Một tích tắc. Chỉ một tích tắc.
Anh ngẩng lên và hoảng loạn đạp thắng. Chiếc xe bổ nhào, xoay tròn trước khi rơi xuống một vách đá. Dựng đứng.
Khoảnh khắc đó, trong anh chỉ có duy nhất cảm giác sợ hãi và hoảng loạn. Cảm giác sốc lấn át cả cảm giác đau. Chiếc xe lộn vòng. Lần thứ nhất. Lần thứ hai. Và lần thứ ba. Mỗi lần, Lou đều kêu lên đau đớn khi đầu anh, cơ thể anh, hai chân và hai tay anh đều bị đập mạnh, va tán loạn vào xe như một con búp bê trong một cái máy giặt đang xoay hết tốc lực. Túi khí khẩn cấp bung ra, đập mạnh vào mặt anh, làm chảy máu mũi. Cơ thể anh nhừ tử ngay cả khi chiếc xe đã thôi lộn vòng và anh được nằm im.
Vài khoảnh khắc trôi qua, Lou mở mắt, cố gắng tìm hiểu tình trạng hiện giờ. Nhưng anh không thể. Anh bị bao bọc tron bóng đêm đen kịt và chỉ có thể khám phá được duy nhất một điều là mình không thể cự động được.
Một chất gì đó rin rít, nhiều lắm, che mất một con mắt anh, khiến anh không thể nhìn được. Vưosi một bàn tay còn có thể cử động, anh rờ rẫm khắp người, và phát hiện ra mỗi phần cơ thể anh chạm được tay vào đều dính đầy cái chất tương tự thế.
Anh cử động lưỡi, thè lưỡi chung quanh miệng của mình và nhận ra vị của máu. Anh thử cử động hai chân, nhưng không thể. Anh thử cử động hai cánh tay, nhưng chỉ có một cánh có thể nhúc nhích.
Anh cố giữ bình tĩnh, thật im lặng, để xác định xem mình phải làm gì. Sau đó, lần đầu tiên trong đời, anh không thể đưa ra một ý nghĩ rõ ràng. Khi cơn sốc qua đi và nhận thức bắt đầu hiện rõ rệt hơn, cơn đau như muốn quật ngã anh. Anh không thể đẩy hình ảnh của Ruth ra khỏi đầu. Hình ảnh của Lucy, của Pud, của cha mẹ anh. Họ không xa lắm phía bên kia, nơi nào đó trên đỉnh đồi, nơi anh đã tạo dựng. Trong bóng đem, trong chiếc xe bẹp dúm, giữa những bụi cây kim tước, ở nơi nào đó trên ngọn đồi ở Howth, Lou Suffern bắt đầu rên rỉ.
Raphie và Jessica đang thực hiện công việc tuần tra như thường lệ. Trên chiếc xe cảnh sắt, cả hai tranh cãi không ngừng quanh chuyện những băng nhạc đồng quê của Raphie, thứ vốn được xem là “nỗi khổ sở” của Jessica. Chiếc xe vừa băng qua nơi chiếc xe của Lou rơi xuống vách đá.
“Khoan đã, chú Raphie”, cô cắt ngang những câu liến thoẳng của ông.
Ông vờ không nghe, càng hát lớn hơn.
“CHÚ RAPHIE!”. Cô hét lên, với tay tắt mạnh chiếc máy nghe đĩa.
Ông nhìn cô kinh ngạc.
“Được rồi, được rồi. Thế thì đặt chiếc đĩa nhạc cái nhóm nhạc cháu thích vào đi. Cái nhóm gì mà như những con khỉ ướp lạnh… hay như bất cứ cách gì cháu hay gọi đấy…!”.
“Chú Raphie, ngừng xe lại…!”, Jessica nói, giọng lạc đi khiến ông lập tức phải đạp thắng. Cô nhảy ra khỏi xe, và chạy bộ ngược lại phía sau để trông cho rõ cái cảnh vừa đập vào mắt cô, nơi những cái cây bị gãy nát. Cô lấy đèn pin ra, chiếu xuống dưới vách núi.
“Ôi trời ơi, chú Raphie, chúng ta phải gọi dịch vụ khẩn cấp ngay thôi”, cô hét lên với ông. “Xe cứu thương và một đội cứu hỏa”.
Ông lập tức quay ngược lại chỗ xe cảnh sát, nơi có hệ thống liên lạc trong ấy.
“Cháu leo xuống đây!”, cô thét lên, lập tức băng mình qua những cành cây gãy, leo xuống vách đá dựng đứng.
“Không được, Jessica!”. Cô nghe tiếng Raphie gào lên phía sau, nhưng cô không chịu làm theo.
“Quay lại đây, nguy hiểm lắm!”.
Cô có thể nghe thấy, nhưng rất nhanh, những âm thanh từ tiếng kêu thét lên của chú Raphie bị thổi bạt đi, và cô chỉ còn có thể nghe được thứ duy nhất là hơi thở của chính mình, gấp gáp, đầy sợ hãi.
Jessica, một cảnh sát mới, còn quá trẻ, hẳn chưa bao giờ nhìn thấy cảnh tượng tương tự như chiếc xe bẹp dí, nham nhở này. Nó lợn ngược đầu. Hoàn toàn không thể nhận ra.
Nhưng không, cô từng nhìn thấy điều tương tự thế.
Với Jessica, tất cả những điều này quá quen thuộc. Nó ám ảnh những giấc mơ của cô, ám ảnh mọi khoảnh khắc khi cô đi bộ. Đối mặt trực diện với những ác mộng, và cho trí nhớ được phép hình dung lại, một cơn chóng mặt ập đến khiến cô khụy xuống, phải cúi gập đầu mình giữa hai đầu gối. Jessica có những điều bí mật, và một trong số chúng luôn quay lại ám ảnh cô. Cô ước gì không có ai trong chiếc xe đó. Chiếc xe bị tai nạn, đâm xuống, không thể nhận dạng, không có bảng số, và trong bóng tối cô không thể nói nó là màu xanh hay màu đen.
Cô bò chung quanh chiếc xe. Cơn mưa tuyết trút xuống làm cô ướt sũng chỉ trong chốc lát. Mặt đất ướt sũng bên dưới, khiến cô trượt chân hết lần này đến lần khác. Tim cô đập loạn xạ trong ngực khi cô cảm nhận như mình đang quay ngược lại một ký ức đau lòng xảy ra ngày xưa.
Nhớ lại điều ấy, cô không còn thấy cảm giác đau dưới mắt cá chân nữa. Cô không còn cảm thấy những vết cào của cá nhánh cây xước trên mặt. Không cảm thấy cả những viên đá lởm chởm làm hai chân cô đau điếng.
Ở khoảng cách tương đối gần chiếc xe, cô nhìn thấy một người. Hay chí ít là một cái xác. Tim cô đập loạn xạ. Cô chiếu cái đèn đến gần anh. Cả người anh bê bết máu. Máu ướt sũng cả cơ thể, bao phủ hết mọi thứ. Cánh cửa đã bị vỡ ra từng mảnh vẫn đóng chặt, cô không thể kéo nó mở ra được. Nhưng tấm kính cửa sổ bên chỗ ngồi lái thì đã vỡ hoàn toàn, nghĩa là ít nhất cô có thể tiếp cận được với nửa người trên của anh ấy.
Cô cố giữ bình tĩnh khi chiếc đèn pin soi tới.
“Tony”, cô sững sờ khi nhìn rõ được hình dáng bên trong. “Tony”. Nước mắt tràn ra khỏi mắt cô.
“Tony”. Cô bấu chặt lấy người đàn ông. Đôi bàn tay hoảng loạn sờ soạng khắp khuôn mặt anh, vội lay cho anh tỉnh dậy.
“Tony, em đây!”, cô nói. “Em ở đây!”.
Người đàn ông lại rên khẽ, nhưng đôi mắt anh vẫn nhắm nghiền.
“Em sẽ đưa anh ra khỏi đây”, cô thì thầm vào tai anh, hôn lên trán anh. “Em sẽ đưa anh về nhà”.
Đôi mắt anh ta từ từ mở ra và cô choáng váng. Màu xanh. Không phải màu nâu. Tony có đôi mắt màu nâu.
Anh nhìn cô chằm chằm. Cô cũng nhìn anh chằm chằm. Cô đang cố kéo mình ra khỏi cơn ác mộng này.
“Thưa ông”, cô nói, giọng run rẩy hơn mức mà cô muốn. Cô hít một hơi thật sâu và bắt đầu lại. “Thưa ông, ông có nghe thấy tôi nói gì không? Tên tôi là Jessica. Ông nghe tôi nói không? Những người giúp đỡ đang trên đường tới. Được chứ? Chúng tôi đang giúp ông”.
Anh rên khẽ và nhắm mắt lại.
“Họ đang trên đường tới”, Raphie nói hổn hển phía trên cô, rồi bắt đầu tìm đường đi xuống.
“Chú Raphie, dưới này nguy hiểm lắm. Nó rất trơn trợt. Chú ở trên đó đi, để lát nữa mọi người chạy đến có thể thấy được chú”.
“Có ai còn sống không?”. Ông hỏi, phớt lờ lời đề nghị của cô và vẫn tiếp tục bước từng bước chậm, di chuyển xuống phía dưới.
“Có ạ!”, cô nói với lên. “Đưa bàn tay ông cho tôi, thưa ông!”. Cô rọi đèn pin để có thể nhìn thấy bàn tay anh ta. Và ngay lúc ấy, dạ dày của cô thót lên một cái.
Cô phải mất một hồi lâu để điều chỉnh lại nhịp thở bình thường và lại nâng ánh đèn pin cao lên. “ Cầm lấy tay tôi, thưa ông. Tay tôi đây, ông có cảm thấy được nó không?”.
Cô nắm chặt hơn.
Anh rên khẽ.
“Ông cứ bình tĩnh. Chúng tôi sẽ đưa ông ra khỏi đây”.
Anh rên nhiều hơn.
“Gì thế? Tôi không thể… ừm… đừng lo lắng, thưa ông. Xe cứu thương đang trên đường tới”.
“Ai thế?”, Raphie gọi to, “Cháu có biết không?”.
“Không”. Cô trả lời vọng lại một cách thật đơn giản, không muốn rời sự chú ý của mình khỏi người đàn ông này, không muốn để mất anh ta.
“Vợ tôi”, cô nghe anh thì thào, khẽ đến mức có thể nhầm với việc anh đang trút hơi thở cuối cùng. Cô kề lỗ tai mình vào sát miệng anh.
“Anh có vợ phải không?”, cô hỏi thật dịu dàng, “Anh sẽ được nhìn thấy cô ấy. Tôi hứa như thế. Nhất định anh sẽ được gặp cô ấy. Tên anh là gì?”.
“Lou”, anh nói. Sau đó, anh bắt đầu khóc khe khẽ.
“Ráng lên nhé Lou, làm ơn đi…”. Cô nuốt ngược nước mắt vào trong lại kề tai sát miệng anh để cố nghe cho được vài từ anh thì thào trong hơi thở.
“Viên thuốc? Lou, tôi không có bất kỳ…”.
Đột nhiên, anh cầm lấy bàn tay cô và bắt đầu kéo cái áo khoác của mình, cố gắng chỉ vào ngực bằng bàn tay yếu ớt không còn sự sống. Cái động tác ấy khiến anh phải gắng sức tương đương với nhấc một chiếc xe lên.
Anh rên khẽ trong cơn đau.
Chạm được tới chiếc túi sát trong ngực, nơi giờ đây đã ướt sũng máu, Jessica lấy ra được một chiếc lọ. Trong lọ có một viên thuốc màu trắng.
“Thuốc của anh phải không Lou?”, cô hỏi mà không chắc lắm. “Hay tôi…?”.
Cô nhìn lên chỗ Raphie, người vẫn đang cố gắng để định hình làm thế nào có thể đi xuống được cái dốc có địa thế hiểm trở này.
“Tôi nghĩ là nên đưa cho anh…”.
Lou nắm lấy tay cô và bóp chặt nó với tất cả sức lực còn lại của mình. Cô lập tức mở cái lọ, với bàn tay run rẩy, và run run giữ viên thuốc duy nhất còn trong đó trong lòng bàn tay của mình. Bằng những ngón tay run rẩy, cô mở miệng anh ra, đặt viên thuốc vào trên lưỡi anh và khép miệng anh lại. Cô nhìn quanh để xem liệu Raphie có nhìn thấy mình không. Ông chỉ mới xuống được phân nửa dốc. Khi cô nhìn xuống Lou, anh cũng chăm chăm nhìn cô, mắt mở to. Anh gửi đến cô một cái nhìn đầy yêu thương, tuyệt đối biết ơn trước một hành động vô cùng đơn giản. Điều đó khiến trái tim cô lại tràn đầy niềm hi vọng.
Sau đó, anh thở hổn hển từng hơi gấp trong không khí và cơ thể của anh giật mạnh lên, trước khi anh nhắm mắt và rời bỏ thế giới này.