Lúc này đã quá nửa đêm, Lam Hạo Nguyệt nằm thiêm thiếp đến hừng đông, vừa mở mắt đã thấy trời sáng rõ. Loáng thoáng nghe tiếng ngựa hí vang, nghĩ đến chuyện hôm nay sẽ chia tay mỗi người một ngả với Trì Thanh Ngọc, nàng cảm thấy thật bi thương. Vốn định sẽ nói vài câu với chàng lúc chia tay, nhưng rốt cuộc vẫn không biết nên tạm biệt thế nào. Thế mà, không ngờ chưa suy nghĩ kĩ thì đêm qua lại xảy ra mâu thuẫn. Đó là tranh cãi dữ dội nhất từ khi quen biết nhau đến nay. Cơn tức trong lòng Lam Hạo Nguyệt đã tan đi, chỉ còn nỗi chua xót không muốn để ai hay. Nàng không biết khi mình xuống lầu gặp chàng thì nên mở lời thế nào.
Do dự một lúc lâu, cuối cùng nàng cũng ngồi dậy, soi gương một chút, thấy mặt mũi tiều tụy, hốc mắt sưng đỏ, chẳng hề giống dáng vẻ ngày trước. Vì sợ mợ nghi ngờ, nàng đành cố vực dậy để rửa mặt chải đầu, vừa định ra ngoài thì nghe thấy tiếng Mộ Dung Cẩn gọi liên tục: “Hạo Nguyệt, Hạo Nguyệt!”
Lam Hạo Nguyệt cúi đầu đi tới mở cửa, Mộ Dung Cẩn nhíu mày nói: “Chưởng quầy đã bị Doãn Tú Dung giết rồi, chúng ta lập tức lên đường thôi.”
Mộ Dung Cẩn nói: “Đêm qua Trì Thanh Ngọc phát hiện tiểu nhị chuồn ra khỏi nhà trọ, sau khi đuổi theo thì mới hay hắn biết võ, trong lúc đánh nhau đã giết chết. Sau đó cậu ta quay về liền nói cho Cố đạo trưởng, thế là bọn mợ liền đi tìm chưởng quầy. Nhưng tựa như chưởng quầy đã biết bị bại lộ, chạy trốn từ trước. Doãn cô nương dẫn người đuổi theo, vừa rồi đã quay lại báo rằng đã bắt được giữa đường. Thì ra là thủ hạ của Khương Mão Đoạt Mộng lâu, định bày mai phục ở đây, đang chờ những người khác quay lại để tấn công chúng ta…
“Vì sao mọi người ra ngoài để con ở đây?!” Lam Hạo Nguyệt giật mình. Lúc này mới nhận ra đêm qua, khi nàng trở về thì chẳng ngờ bọn họ đã chạy đi truy bắt.
Mộ Dung Cẩn vỗ nhẹ vào vai nàng nói: “Không phải con đang không khỏe sao? Mà cũng không phải tất cả mọi người đều truy đuổi, Cố đạo trưởng và thủ hạ của mợ đều âm thầm bảo vệ cho con, thế nên mợ mới yên tâm.”
Lam Hạo Nguyệt kinh ngạc đứng ngây người một hồi, Mộ Dung Cẩn thấy sắc mặt nàng tệ quá, định hỏi han nhưng Hạo Nguyệt lại bảo: “Mợ, con đi tìm Cố đạo trưởng để cảm ơn. Mợ ra ngoài cửa đợi con đi.”
Mộ Dung Cẩn còn đang sửng sốt thì Lam Hạo Nguyệt đã im lặng đi xuống lầu dưới.
***
Cố Đan Nham đang gắn dây cương trong hậu viện, người của Đường môn và Nga Mi đều ra khỏi nhà trọ, chờ ở ven đường. Lam Hạo Nguyệt tìm Cố Đan Nham mà cũng không dám ngẩng đầu, sợ gặp phải Trì Thanh Ngọc. Mãi khi lén đưa mắt, thấy bên cạnh Cố Đan Nham không có ai, mới lấy can đảm đi đến sau anh, thấp giọng gọi khẽ: “Đạo trưởng.”
Cố Đan Nham xoay người, thấy Lam Hạo Nguyệt tới, gật đầu chào: “Lam cô nương, đến ngã rẽ trước thì tôi phải tạm biệt mọi người, về núi La Phù rồi.”
Lam Hạo Nguyệt chỉ dám nhìn góc váy mình, mặt nóng bừng: “Nghe mợ nói, hôm qua nhờ có anh thầm bảo vệ cho, tôi vẫn chưa cảm ơn anh.”
“Sao cô lại nói như vậy?” Cố Đan Nham cười, “Tôi không hề ra tay, chỉ đứng ngoài giữ cửa một chút thế thôi.” Anh ta nói tới đây, trong mắt như có ý cười nhàn nhạt, “Lam cô nương, thật ra đêm qua cô cũng ra ngoài phải không?”
Lam Hạo Nguyệt giật mình, càng lo lắng bất an: “Tôi… Trì Thanh Ngọc nói cho anh sao?”
“Thanh Ngọc?” Trái lại Cố Đan Nham ngẩn ra, lập tức lắc đầu, “Đệ ấy chẳng nói gì cả, tôi nghe thấy tiếng cô lên lầu nên mới biết thôi, lúc đó tôi đang băng bó vết thương cho đệ ấy.”
“Băng bó vết thương?” Đến lượt Lam Hạo Nguyệt ngẩn ra, ngước mặt lên hỏi, “Anh ấy bị thương từ lúc nào?”
Cố Đan Nham nhíu mày, đáp, “Hẳn là khi đánh nhau cùng tên kia, trên tay bị trúng một ám khí, dù đệ ấy đã nhổ ra trước khi quay lại nhưng tôi vẫn nhìn thấy vết máu.”
Lúc này Lam Hạo Nguyệt mới nhớ đến khi đó, suýt nữa mình không tránh kịp phi thoa kia, là nhờ Trì Thanh Ngọc đẩy nàng ra sau cây… Nhưng khi ấy đêm tối, chàng không lên tiếng, Lam Hạo Nguyệt không biết thì ra chính chàng lại bị thương.
Nàng cảm thấy cực kì áy náy, hít một hơi thật sâu, hỏi: “Đạo trưởng, vậy anh ấy đang ở đâu? Tôi muốn tìm anh ấy.”
“Đệ ấy?” Cố Đan Nham nhìn Lam Hạo Nguyệt, bình tĩnh đáp: “Trời chưa sáng đã đi rồi.”
Lam Hạo Nguyệt chỉ cảm thấy có một chậu nước lạnh đang ập xuống đầu mình, ngây người một hồi lâu mới sốt ruột đến mức cao giọng hỏi: “Một mình anh ấy thì sao mà đi?”
Cố Đan Nham huơ dây cương trong tay, trả lời: “Cô không thấy tôi chỉ có một mình sao? Có Hoàn Nhi đi với đệ ấy, không sao đâu.” Anh lại thở dài một hơi, “Cũng chẳng biết vì sao đệ ấy lại vội vàng bỏ đi trước như vậy, tôi lo nếu không chào tạm biệt thì thất lễ quá, vậy nên mới ở lại, báo với mọi người một tiếng rồi lên đường.”
Anh nói rồi vác hành lý lên lưng ngựa, chuẩn bị ra ngoài. Lúc xoay người nhìn lại thấy Lam Hạo Nguyệt đang cúi đầu, hai vai run rẩy. Nhìn kĩ lại một lát, mắt cô gái này đỏ ngầu, như chực khóc.
“Lam cô nương, cô sao vậy?” Anh vội vàng bỏ dây cương xuống, cúi người nhìn nàng, “Dù đệ ấy không nói lời nào mà đi trước thì bây giờ cũng sẽ về chung với tôi thôi, sớm muộn gì cũng phải tạm biệt.”
“Không… vì anh ấy không muốn gặp lại tôi… thế nên mới đi…” Lam Hạo Nguyệt càng nghĩ càng đau khổ, cố nén nước mắt, không thể nói được một câu gãy gọn.
Cố Đan Nham suy nghĩ một chút, hỏi: “Hay là đêm qua cô ra ngoài gặp đệ ấy, hai người mất vui mà về?”
Nước mắt Lam Hạo Nguyệt đã đong đầy trong hốc mắt, nghe nói thế, nghẹn ngào gật đầu, lệ tuôn rơi.
“Tôi thấy chiêu nào của anh ấy cũng muốn giết người, không suy nghĩ kĩ, đã mắng…” Nàng nói xong, càng cảm thấy mình đã tổn thương chàng, chỉ muốn tìm một cái lỗ để chui vào.
“Thảo nào sau khi trở về, đệ ấy lại vậy…” Cố Đan Nham lẩm bẩm một câu, thấy Lam Hạo Nguyệt đang khóc nức nở, đành phải an ủi nàng, “Cô đừng lo quá, tuy rằng trông đệ ấy có vẻ tùy hứng nhưng không phải là người hay mang thù đâu.”
“Nhưng mà, tôi nói anh ấy ác lắm.” Lam Hạo Nguyệt cố ngăn nước mắt, thút thít nói: “Tôi không đối tốt, chắc chắn anh ấy sẽ không tha thứ cho tôi đâu. Vốn tôi định tìm anh ấy để nói chuyện một chút, nhưng bây giờ bóng người cũng không còn!”
Cố Đan Nham thở dài một tiếng não nề: “Cô đã nói chuyện này thì tôi có thể chuyển lời xin lỗi giúp cô… Chỉ là quả thật kiếm thuật của Thanh Ngọc rất ác liệt, tính tình cũng hơi cố chấp, chuyện này không phải không có quan hệ với quá khứ trước đây, sau khi về, tôi sẽ từ từ nói chuyện với đệ ấy.”
Lam Hạo Nguyệt ngẩn ra: “Quá khứ? Tôi đã đi đến thôn Giếng Ngọt cùng anh ấy, nơi đó rất nghèo. Chắc là, không được tốt…”
“Đệ ấy kể chuyện lúc nhỏ cho cô nghe sao?” Cố Đan Nham nhìn nàng, lại nói, “Trước khi đệ ấy đến Lĩnh Nam, người ông duy nhất bị người ta làm tức chết, thế nên mất chỗ dựa, chỉ có thể lang thang ở nông thôn vậy thôi, không thiếu những lúc bị người xua đuổi, đối xử lạnh nhạt. Tuy sau này được chúng tôi đưa về núi La Phù nhưng tính tình vẫn cứ cô độc cực đoan như vậy…”
Anh nói được một nửa, bỗng dưng dừng lại, bảo: “Từ trước đến nay đệ ấy luôn không muốn để người ngoài biết được, cô cũng chớ nên quá để ý. Tôi phải đi gấp, Lam cô nương, xin tạm biệt ở đây nhé.”
Dứt lời, Cố Đan Nham dắt ngựa ra khỏi cổng.
“Cố đạo trưởng!” Bỗng Lam Hạo Nguyệt cất tiếng gọi, chạy tới cạnh Cố Đan Nham, đưa tay giữ chặt dây cương, “Xin anh nói xong rồi hẵng đi không được sao?”
Cố Đan Nham bất đắc dĩ cầm kiếm, bảo, “Lam cô nương, mỗi người đều có một quá khứ riêng, cô không thể hiểu được hoàn cảnh của đệ ấy, cần gì phải hỏi tới cùng?”
“Nhưng tôi muốn biết… Nếu cái gì tôi cũng không biết, sau này nhỡ đâu lại nói lời tổn thương anh ấy thì biết phải làm sao?” Trong lúc cấp bách, Lam Hạo Nguyệt nói vậy chứ chẳng biết liệu sau này có còn cơ hội được gặp lại không.
Cố Đan Nham nhíu mày, mãi lâu sau mới nói: “Mùa đông năm đó tôi theo sư phụ dạo chơi khắp nơi, vừa hay sao đến vùng phụ cận Nga Mi, trong tuyết rơi thấy mấy đứa nhỏ ăn xin đang đuổi đánh một cậu bé áo quần rách nát. Tôi thấy bước chạy cậu bé ấy lảo đảo không rõ phương hướng, biết là bị mù, liền đi tới đuổi tụi nhỏ kia đi.”
Lam Hạo Nguyệt nghẹn ngào nói: “Cậu bé anh cứu được chính là Trì Thanh Ngọc ư?”
Cố Đan Nham gật đầu, vẻ mặt cũng dần trở nên nghiêm túc: “Dù áo quần trên người rách nát hết, nhưng đệ ấy vẫn khăng khăng nói mình khác với những người đó, không phải ăn xin. Đệ ấy quét lá rụng tuyết đọng trước cửa nhà người ta, đổi được nửa cái bánh bao nguội lạnh, chọc giận đám ăn xin kia, thế nên thường bị đuổi đánh. Sư phụ mang theo lương khô nên cho đệ ấy ăn, nghe chúng tôi bảo là đạo sĩ từ xa đến, để cảm ơn sự giúp đỡ nên đệ ấy đưa chúng tôi về nhà mình nghỉ tạm.”
Anh nói tới đây, giọng nói sang sảng cũng dần trầm xuống, “Dù tôi cũng xuất thân nghèo khó, nhưng chưa bao giờ thấy một nơi như vậy mà cũng có người ở. Bốn phía quanh căn nhà lá kia đều rách nát, chỉ còn mỗi mái nhà gắng gượng lắm mới có thể che chắn chút gió mưa, xung quanh là nước đọng băng tan, hôi thối không chịu được… Mùa đông khắc nghiệt, đệ ấy lại chỉ mặc một chiếc áo rách bươm, trên giường trúc chẳng có nổi cái chăn bông. Sư phụ hỏi người nhà đệ ấy đâu, mới hay từ lúc ra đời đã bị vứt bỏ, nhờ một cụ già hái thuốc họ Trì nhặt được từ đồng hoang mang về. Nhưng cụ già ấy cũng thường bị người trong thôn bắt nạt, sau đó chẳng biết vì sao mà bị tức chết, chỉ còn một mình đệ ấy lẻ loi trong nơi được gọi là nhà kia.”
Lam Hạo Nguyệt nghĩ tới ngày cùng Trì Thanh Ngọc đến thôn Giếng Ngọt hôm đó, tìm di tích của căn nhà lá khắp nơi trong bụi cỏ hoang kia mà không thấy, chàng đau lòng thất vọng đến cùng cực, quỳ gối mò mẫm trong bãi nước bẩn. Có lẽ Cố Đan Nham nói rất đúng, xưa nay nàng sống an nhàn sung sướng, nhìn cảnh sinh sống của một gia đình bình thường ở thôn Giếng Ngọt cũng cảm thấy quá nghèo khó, nào biết rốt cuộc thời thơ ấu của Trì Thanh Ngọc khốn khổ đến nhường nào?
“Thế… sau này thì sao?” Nàng khàn giọng hỏi.
Cố Đan Nham trầm ngâm đáp: “Sư phụ biết cứ tiếp tục thế này, e rằng đệ ấy chẳng sống được lâu mà sẽ chết rét chết đói. Vậy nên bèn kể cho đệ ấy rằng, có một nơi tên là núi La Phù, ở đây bốn mùa như xuân, chúng tôi muốn mang đệ ấy tới ở, nếu nhớ nhà thì sẽ đưa về đây. Cứ thế mà nửa dỗ nửa lừa mang đệ ấy tới được Lĩnh Nam. Đệ ấy quả thật là một đứa bé rất cứng cỏi, dù đến Thần Tiêu cung cũng không chịu ăn không mặc không đồ chúng tôi cho, một mực đòi giúp đốn củi gánh nước. Sau này, sư phụ tình cờ phát hiện, dù đệ ấy mù bẩm sinh nhưng lại nhạy bén hơn hẳn người thường, thế nên dạy cách điều tức. Về mặt này Thanh Ngọc cực kì có thiên phú, lại thêm cố gắng luyện kiếm ngày đêm không nề, chẳng bao lâu sau bái nhập môn hạ, trở thành đệ tử cuối cùng của sư phụ.”
Cố Đan Nham không nhận ra mình đã nói nhiều đến vậy, thấy vệt nước mắt còn đọng lại trên má Lam Hạo Nguyệt, như đang chìm sâu vào suy nghĩ trong lòng.
Anh do dự mãi, cuối cùng không nhịn được mà nói: “Lam cô nương, thật ra cô và Thanh Ngọc chưa quen biết được lâu, có rất nhiều điều không biết về nhau. Núi La Phù cách Trung Nguyên khá xa, huống chi Thanh Ngọc cũng giống tôi, đều là người tu đạo. Thần Tiêu cung chúng tôi thuộc phái Toàn chân giáo, có rất nhiều luật lệ quy tắc, cô nói vậy chắc hẳn cũng không biết hết. Thế nên mong cô chớ nên quá suy nghĩ về điều này, tránh thêm phiền não…”
Dù Cố Đan Nham không trực tiếp nói thẳng, nhưng lại ngầm nhắc nhở khuyên răn, cớ sao Lam Hạo Nguyệt lại không hiểu? Nhưng trong tình huống này nàng chẳng biết làm sao cho phải đây.
Cố Đan Nham lại chắp tay thi lễ với nàng lần nữa, cười nói: “Hôm nay tôi nói nhiều quá, mong thứ tội cho. Chốn giang hồ vẫn luôn hỗn loạn như vậy, cô nương nên sớm về nhà. Tôi đi trước một bước!”
Dứt lời, vác hành lý lên, vung roi thúc ngựa mà đi.