“Hắn giết cô gái tối hôm qua. Gã lớn tuổi quá già và có vẻ như Charlie rất nhỏ con. Và chứng cứ vật lý cho biết rằng đó là một cú đấm tay trái.”
“Và bốn là kẻ giật dây.”
Reacher lại gật đầu. “Ở một nơi đâu đó trong bóng tối, lập kế hoạch, giật dây. Chúng ta có thể đoán rằng hắn không chạy quanh và tự tay thực hiện những việc loại này.”
“Nhưng làm thế nào để chúng ta tiếp cận hắn đây? Nếu hắn đã rút mất tên theo dõi ông, thì chúng ta có thể cho rằng hắn cũng rút Charlie luôn. Chúng đang thủ thế.”
“Có một con đường khác. Một xa lộ rộng mênh mông.”
“Ở đâu?”
Reacher đáp, “Chúng ta bỏ qua một điều rất hiển nhiên. Chúng ta trước giờ đã nhìn lầm đầu khẩu súng. Tất cả những gì mà chúng ta đã làm là nhìn xem ai đã bắn nó.”
“Lẽ ra chúng ta nên làm gì?”
“Lẽ ra chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn.”
“Về chuyện gì?”
“James Barr bắn bốn phát ở Kuwait City. Và hắn bắn sáu phát ở đây.”
Helen nói, “OK. Hắn bắn nhiều hơn hai phát ở đây. Vậy thì sao nào?”
Reacher đáp, “Nhưng không phải vậy. Thật sự không. Khác hoàn toàn nếu ta nhìn từ bên lề. Sự thật là ở đây hắn đã bắn ít hơn bốn phát.”
“Thật buồn cười. Sáu so với bốn là nhiều hơn hai. Không phải ít hơn bốn.”
“Kuwait City rất nóng. Vào ban trưa thật không thể chịu nổi. Có khùng mới đi lang thang ra ngoài. Đường phố phần lớn thời gian vắng vẻ.”
“Thì sao nào?”
“Thế nên ở Kuwait City, James Barr giết mọi người mà hắn thấy. Một, hai, ba, bốn, chấm dứt. Con đường hoàn toàn vắng trừ bốn anh chàng của ta. Chỉ có mỗi họ ngu ngốc đến nỗi đi ra ngoài trong nhiệt độ ấy. Và Barr làm thịt cả bốn. Hắn làm láng. Lúc đó câu chuyện có vẻ trở nên hợp lý với tôi. Hắn muốn nhìn thấy máu phụt ra thành màn sương màu hồng. Điều làm tôi sực tỉnh là lẽ ra hắn có thể thỏa mãn sau một lần nhìn nó thôi, nhưng rõ ràng hắn không thỏa mãn. Vậy thì hợp lý sẽ là nếu hắn không dừng lại ở một vụ, thì hắn sẽ làm tới cho đến khi không còn mục tiêu nào nữa. Và hắn đã làm như vậy. Ở Kuwait City, hắn không tìm được thêm mục tiêu.”
Helen không nói gì.
Reacher nói, “Nhưng ở đây thì hắn không hết mục tiêu. Phải có cả chục người trong đoạn cổ chai đó. Hay mười lăm người. Dù sao thì cũng nhiều hơn mười người. Và hắn có băng đạn mười viên. Nhưng hắn ngừng bắn sau phát thứ sáu. Cứ thế ngừng. Hắn chừa lại bốn viên trong khẩu súng. Chúng được ghi lại trong quầy triển lãm của Bellantonio. Và đó là điều tôi muốn nói. Hắn đã bắn xả láng ở Kuwait City, vậy mà ở đây ít hơn bốn viên so với mức xả láng. Đó là sự khác biệt về mặt tâm lý ở đây. Hắn quyết định không làm láng ở đây. Vì sao vậy?”
“Vì hắn đang vội chăng?”
“Hắn có bộ phận nạp đạn tự động. Băng ghi âm trong máy tính ra sáu phát trong bốn giây. Có nghĩa là lẽ ra hắn có thể bắn mười viên trong chưa đến bảy giây. Ba giây sẽ không tạo ra sự khác biệt nào đối với hắn.”
Helen không nói gì.
Reacher nói, “Tôi đã hỏi hắn. Khi tôi gặp hắn trong bệnh viện. Tôi hỏi hắn sẽ làm chuyện đó như thế nào, về mặt lý thuyết. Như là một dự thảo chiến thuật. Nên hắn suy nghĩ về nó. Hắn rành khu vực đó. Hắn nói rằng mình sẽ đậu xe trên xa lộ. Sau lưng thư viện. Hắn nói sẽ quay kính xe xuống và trút hết băng đạn.”
Helen không nói gì.
“Nhưng hắn đã không trút hết băng đạn. Hắn ngưng bắn ở phát thứ sáu. Cứ thế ngưng. Một cách lạnh lùng và bình tĩnh. Điều này khiến toàn bộ động cơ trở nên khác biệt. Đây không phải là một gã điên xuất hiện để khủng bố cả thành phố vì một trò thách đố nữa. Hắn không bị đẩy vào nó vì niềm vui được giết chóc. Helen, chuyện này không phải là ngẫu nhiên. Không phải là rối loạn tâm thần. Mà có một mục đích rõ ràng, giới hạn và chặt chẽ ở phía sau. Điều này khiến tiêu điểm hoàn toàn đảo ngược. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra nó. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra rằng toàn bộ chuyện này là ở các nạn nhân chứ không phải ở người bắn. Họ không phải là những kẻ bất hạnh đã chọn nhầm chỗ, nhầm thời điểm.”
Helen hỏi, “Họ là những mục tiêu?”
Reacher đáp, “Được chọn lựa kỹ lưỡng. Và ngay khi chắc ăn rằng họ bị hạ gục thì Barr thu dọn và chuồn đi. Với bốn viên đạn vẫn còn lại. Một hồi kịch về kẻ loạn trí bắn bừa sẽ không rẽ ngang theo kiểu đó. Hắn sẽ tiếp tục kéo cò cho tới khi hết đạn. Thế nên vụ này không phải là do lên cơn. Mà nó là một vụ ám sát.”
Căn phòng chìm trong im lặng.
Reacher nói, “Chúng ta cần xem các nạn nhân là những ai. Và cần tìm hiểu xem ai muốn họ phải chết. Đó là con đường sẽ dẫn chúng ta đến nơi cần đến.”
Helen không cử động.
Reacher nói tiếp, “Và chúng ta cần làm điều này thật nhanh. Vì tôi không có nhiều thì giờ và chúng ta đã phí phạm hết ba ngày tốt nhất để xem xét mọi sự đảo ngược hết cả.”
Tay bác sĩ mệt mỏi trạc ba mươi tuổi ở tầng sáu của bệnh viện hạt đang kết thúc tua khám buổi chiều của anh ta. Anh ta đã chừa James Barr lại sau cùng. Một phần vì anh ta không chờ đợi một thay đổi đột ngột nào trong tình trạng của hắn, một phần vì dù sao anh ta cũng không thèm quan tâm. Chăm sóc cho bọn trộm cắp bịp bợm cũng đã quá tệ rồi, nhưng chăm sóc cho một tên giết người hàng loạt thì thật là vô lý. Vô lý bội phần, bởi ngay khi Barr khỏe hẳn thì hắn sẽ bị đè ra trói xuống giường và một bác sĩ nào khác sẽ đến giết hắn.
Nhưng những ràng buộc về nguyên tắc thì khó mà làm ngơ. Thói quen cũng vậy. Chưa kể bổn phận, thủ tục, và sự ổn định. Thế nên viên bác sĩ bước vào phòng của Barr và nhặt tờ biểu đồ bệnh trạng của hắn lên. Anh ta lấy bút ra. Liếc nhìn các máy móc. Liếc nhìn bệnh nhân. Hắn đang thức. Đôi mắt hắn chuyển động.
Viên bác sĩ viết. Tỉnh táo.
Anh ta hỏi, “Vui không?”
Barr đáp, “Vui vẻ gì.”
Viên bác sĩ viết. Có phản ứng.
Anh ta nói, “Đồ khốn kiếp sống dai.” Và cất cây bút.
Chiếc còng trên tay phải của Barr va lắc leng keng vào thanh chắn giường. Bàn tay phải đang run và hơi cụm lại, ngón cái và ngón trỏ đang nhúc nhích liên tục, như thể hắn đang cố lăn một viên bi tưởng tượng bằng sáp cho thật tròn.
Viên bác sĩ nói, “Ngưng cái trò đó đi.”
“Ngưng cái gì?”
“Bàn tay anh.”
“Tôi không thể.”
“Tình trạng đó là mới có à?”
“Một hay hai năm rồi.”
“Không phải là chỉ có từ khi anh tỉnh dậy à?”
“Không.”
Viên bác sĩ nhìn tờ biểu đồ bệnh trạng. Tuổi: Bốn mươi mốt.
Anh ta hỏi, “Anh có uống rượu không?”
Barr đáp, “Không nhiều. Thỉnh thoảng một ngụm, để dễ ngủ.”
Viên bác sĩ tất nhiên không tin hắn, anh ta giở biểu đồ đến kết quả kiểm tra độc tố trong máu và thử nghiệm chức năng gan. Nhưng kiểm tra độc tố thì sạch sẽ còn chức năng của gan thì rất tốt. Không phải là dân nhậu. Không phải là kẻ nghiện rượu. Thậm chí không uống nữa.
Anh ta hỏi, “Gần đây anh có đi khám bác sĩ riêng không?”
Barr đáp, “Tôi không có bảo hiểm y tế.”
“Có tê cứng ở tay chân không?”
“Chút ít.”
“Tay kia của anh có bị như vậy không?”
“Đôi khi.”
Viên bác sĩ lại lấy bút ra và ghi vào dưới cùng của biểu đồ: Tay phải có dấu hiệu run rẩy, không phải là hội chứng hậu chấn thương, chẩn đoán sơ bộ không nghiện rượu, tay chân cứng, có khả năng PA giai đoạn đầu?
Barr hỏi, “Tôi bị gì vậy?”
Viên bác sĩ đáp, “Câm miệng.” Rồi xong việc, anh ta cặp biểu đồ trở lại chân giường và bước ra khỏi phòng.
Helen Rodin lục hết các thùng giấy đựng chứng cứ và lấy ra bản liệt kê chính thức những lời cáo buộc dành cho James Barr. Giữa nhiều vi phạm luật pháp có tính hình thức khác, thì bang Indiana đã đưa ra năm điểm buộc tội giết người bậc một với tình tiết tăng nặng, và theo quy định của nguyên tắc đúng pháp trình đã liệt kê năm nạn nhân theo tên tuổi, giới tính, địa chỉ và nghề nghiệp. Helen lướt qua trang giấy, dò theo địa chỉ và nghề nghiệp.
Cô nói, “Tôi không thấy có mối liên hệ rõ ràng nào cả.”
Reacher nói, “Tôi không có ý muốn nói rằng tất cả bọn họ đều là các mục tiêu. Chắc hẳn chỉ một người trong số họ thôi. Nhiều nhất là hai người. Những người khác chỉ là để ngụy trang. Vụ ám sát được giả như một vụ xả súng. Tôi đoán thế.”
Cô nói, “Tôi phải đi làm việc đây.”
Ông nói, “Ngày mai tôi sẽ gặp lại cô.”
Ông dùng lối cầu thang thoát hiểm thay vì dùng thang máy và trở lại nhà để xe mà không bị ai thấy. Ông bước vội lên con dốc, băng qua đường và lại đi dưới xa lộ. Kẻ tàng hình. Sống trong bóng tối. Ông mỉm cười. Ông dừng chân.
Ông quyết định đi tìm điện thoại công cộng.
Ông tìm thấy một trạm trên bức tường bên hông của một tiệm tạp hóa nhỏ có tên là Martha's, nằm cách tiệm bán áo quần rẻ tiền mà ông đã mua hai khối phố. Trạm điện thoại đối mặt với một con hẻm rộng được dùng làm một bãi đậu xe hẹp. Có sáu lô chéo đã đậu đủ sáu chiếc xe. Bên ngoài chúng là một bức tường gạch cao có gắn mảnh chai bên trên. Con hẻm rẽ chín mươi độ phía sau tiệm tạp hóa. Ông đoán là nó rẽ lại ở một chỗ nào đó và dẫn ra khối phố kế bên về hướng Nam.
Ông nghĩ, Khá an toàn.
Ông lấy tấm danh thiếp bị xé của Emerson ra khỏi túi. Chọn số điện thoại di động. Dựa vai vào bức tường và quan sát cả hai đầu của con hẻm cùng một lúc, lắng nghe tiếng chuông reo.
Emerson nói, “Vâng?”
Reacher nói, “Đoán xem ai đây nào?”
“Reacher?”
“Ông nói đúng chóc.”
“Ông ở đâu?”
“Tôi vẫn trong thị trấn.”
“Ở đâu?”
“Không xa lắm.”
“Ông biết là chúng tôi đang truy tìm ông phải không?”
“Tôi có nghe.”
“Vậy thì ông nên ra đầu thú đi.”
“Tôi không nghĩ vậy.”
Emerson nói, “Thế thì chúng tôi sẽ tìm ra ông.”
“Ông nghĩ tìm được hả?”
“Dễ dàng thôi.”
“Ông có biết một người có tên là Franklin không?”
“Tôi biết chứ.”
“Hãy hỏi xem dễ đến mức nào.”
“Lúc đó khác. Ông có thể đang ở bất cứ nơi nào.”
“Ông đã theo dõi cái nhà trọ rồi phải không?”
Im lặng trong một thoáng. Emerson không trả lời.
Reacher nói, “Cứ để người của ông ở lại đó. Có thể tôi sẽ quay lại. Mà cũng có thể không.”
“Chúng tôi sẽ tìm ra ông.”
“Không hy vọng đâu. Ông không đủ giỏi để làm chuyện đó.”
“Có thể chúng tôi đang lần theo cú gọi này.”
“Tôi sẽ đỡ cho ông một tay. Tôi đang ở bên ngoài một tiệm tạp hóa tên là Martha's.”
“Ông nên vào trong tiệm đi kẻo lạnh.”
Reacher đáp, “Ta sẽ trao đổi nhé. Hãy tìm xem ai đã đặt cái trụ chắn đường trong bãi đậu xe và rồi tôi sẽ nghĩ đến việc ra nộp mình.”
“Barr đã đặt cái trụ.”
“Ông biết là hắn không đặt. Chiếc xe của hắn không hiện diện trong các cuốn băng.”
“Vậy thì hắn dùng xe khác.”
“Hắn không có xe nào khác.”
“Thì hắn mượn xe.”
Reacher nói, “Mượn của một người bạn? Có thể. Hay có thể là người bạn đặt cái trụ cho hắn. Dù thế này hay thế khác, ông tìm ra người bạn đó thì tôi sẽ nghĩ đến việc tới nói chuyện với ông.”
“Có hàng trăm chiếc xe trong những cuốn băng đó.”
Reacher nói, “Ông được hỗ trợ mà.”
Emerson nói, “Tôi không trao đổi gì cả.”
Reacher nói, “Tôi nghĩ tên hắn là Charlie. Một gã nhỏ con, tóc đen thô và xoăn.”
Emerson lặp lại, “Tôi không trao đổi gì cả.”
Reacher nói, “Tôi không giết cô gái đó.”
“Đó là ông nói.”
“Tôi mến cô ấy.”
“Ông đang làm tôi đau lòng đấy.”
“Và ông biết là tôi không ngủ ở khách sạn Metropole tối qua.”
“Đó là lý do vì sao ông vứt cô ấy ở đó.”
“Và tôi không thuận tay trái.”
“Tôi không hiểu ý ông.”
“Hãy bảo Bellantonio nói chuyện với nhân viên pháp y của ông.”
Emerson nói, “Chúng tôi sẽ tìm ra ông.”
Reacher nói, “Các ông không tìm ra đâu. Trước đây chưa từng có ai làm được.”
Rồi ông cúp máy và đi trở ra đường. Băng qua đường và cuốc bộ lên nửa khối phố về hướng Bắc rồi núp sau một chồng cọc chia làn bằng bê tông chưa sử dụng trong một khu đất trống. Ông chờ. Sáu phút sau hai xe tuần tra dừng lại trước tiệm tạp hóa. Bật đèn, nhưng không hụ còi. Bốn tay cảnh sát nhảy ra. Hai người vào tiệm, hai người kia đi tìm trạm điện thoại công cộng. Reacher quan sát họ gặp lại nhau trên vỉa hè. Quan sát họ lục soát con hẻm và góc phố của nó. Quan sát họ trở lại. Quan sát họ chấp nhận thua cuộc. Ông thấy một trong bốn người gọi máy bộ đàm nói chuyện vắn tắt gì đó đầy những cử chỉ thanh minh. Giơ tay lên, nhún vai. Rồi cuộc đàm thoại chấm dứt và Reacher chuồn đi về hướng Đông, nhắm hướng trở lại khách sạn Marriott.
* * *
The Zec chỉ có một ngón cái và một ngón duy nhất nữa còn lại trên mỗi bàn tay. Trên bàn tay phải là phần còn lại của ngón trỏ, đen lại và teo quắt vì giá lạnh. Có lần lão đã sống một tuần ngoài trời trong mùa đông, mặc một chiếc áo choàng Hồng quân cũ, và do người chủ cũ của nó đeo bình toong nước trên dây thắt lưng nên đã làm mòn phần vải túi bên phải nhiều hơn là túi bên trái. Sự sống còn đã treo trên những khác biệt nhỏ mọn ấy. Bàn tay trái của lão đã thoát, và bàn tay phải mất đi. Lão đã cảm thấy từng ngón tay chết đi từ ngón út trở vào. Lão đã rút bàn tay ra khỏi túi áo và để cho nó đông cứng lại đủ để không còn cảm thấy gì nữa. Rồi lão cắn đứt những ngón tay đã chết trước khi chứng hoại thư kịp lan ra. Lão vẫn nhớ đã nhả chúng xuống đất, từng ngón một, như những nhánh cây con màu nâu.
Bàn tay trái của lão còn ngón út. Ba ngón giữa đã mất. Hai ngón bị một tên bạo dâm cắt đứt bằng kéo làm vườn. Chính tay The Zec cắt đi ngón còn lại, với một chiếc thìa được mài sắc, để được tính là thiếu khả năng lao động trong một xưởng máy nào đó.
Lão không thể nhớ lại các chi tiết, nhưng vẫn nhớ một lời đồn rất thuyết phục rằng thà mất thêm một ngón tay còn hơn là làm thứ công việc đó. Có vấn đề gì đó với tay đốc công.
Hai bàn tay hư hoại. Chỉ là hai trong nhiều kỷ vật về một thời điểm khác, một nơi chốn khác. Lão không còn để tâm nhiều đến chúng, nhưng chúng làm cho đời sống thời hiện đại trở nên khó khăn. Điện thoại di động trở nên quá bé. Số của Linsky dài đến mười con số, bấm được nó thật là khốn nạn. The Zec chẳng bao giờ giữ lại một chiếc điện thoại đủ lâu để đáng lưu lại một con số. Giữ lại là một chuyện điên rồ.
Rốt cuộc lão cũng bấm được số và cố tập trung, và bấm nút gọi bằng ngón út của bàn tay trái. Rồi lão chuyển chiếc điện thoại vào lòng bàn tay kia và úp nó vào tai. Lão không cần giữ sát nó vào tai. Thính giác của lão vẫn còn rất tuyệt, điều này quả là một phép lạ.
Linsky nói, “Vâng?”
The Zec nói, “Chúng không thể tìm ra hắn. Lẽ ra ta không nên bảo mày chấm dứt việc tự theo dõi đi. Lỗi của ta.”
“Chúng đã tìm ở đâu?”
“Đây đó. Tối qua hắn ngủ ở nhà trọ. Chúng đã cho người giám sát khu đó, nhưng ta tin chắc là hắn sẽ không quay lại đó. Chúng cắt một người ở phòng luật sư. Ngoài chuyện đó ra, chúng đang va vấp mò mẫm trong bóng tối.”
“Thầy muốn em làm gì đây?”
“Ta muốn mày tìm hắn. Dùng Chenko và Vladimir. Và ta sẽ phái Raskin tới mày. Hợp tác với nhau. Hãy tìm ra hắn trong tối nay và gọi cho ta.”
Reacher dừng chân cách khách sạn Marriott hai khối phố. Ông biết Emerson sẽ làm những gì. Ông đã từng là Emerson trong mười ba năm. Emerson sẽ duyệt lại một danh sách trong đầu mình. Những nơi có khả năng thường lui tới, những mối quan hệ đã được biết. Những nơi có khả năng thường lui tới vào giờ này sẽ bao gồm những quán ăn. Thế nên Emerson sẽ điều xe đến các quán ăn, nhà hàng, quán cà phê, gồm luôn quán ăn nhẹ mà Helen Rodin thích và quán bar thể thao. Rồi ông ta sẽ tính đến những mối quan hệ được biết, như thế là hạn chế lại chỉ còn bản thân Helen Rodin. Ông ta sẽ phái tay cớm ở khách sảnh lên tầng bốn và gõ cửa văn phòng.
Rồi ông sẽ thử thời vận với Eileen Hutton.
Vì thế Reacher dừng chân cách khách sạn Marriott hai khối phố và nhìn quanh tìm nơi để chờ. Ông tìm thấy một chỗ phía sau một tiệm giày. Có một tường quây cao ba mặt bằng gạch, chắn một hộc chứa rác bằng nhựa cao ngang vai khỏi mắt thiên hạ. Reacher bước vào và phát hiện ra rằng nếu ông dựa vai vào thùng rác thì ông có thể thấy một khoảnh cửa chính của Marriott rộng chừng một thước. Tư thế đó không phải là không thoải mái. Và nó là đống rác có mùi dễ chịu nhất mà ông từng gặp. Cái thùng tỏa mùi giấy bìa và giày mới. Khá hơn những nơi có thể gặp ở phía sau một tiệm bán cá.
Ông nghĩ rằng nếu Emerson là người năng nổ thì ông sẽ phải chờ ít hơn ba mươi phút. Rất năng nổ, thì ít hơn hai mươi phút. Trung bình, thì chừng gần một giờ. Ông dựa vào thùng rác giết thì giờ. Chưa muộn lắm nhưng đường phố đã vắng ngắt. Rất ít người ra ngoài lang thang. Ông quan sát, và chờ. Rồi mùi da mới từ những hộp giày vứt đi làm ông phân tâm. Nó khiến ông nghĩ đến giày dép. Có lẽ một lúc nào đó ông nên ghé lại tiệm mua một đôi giày mới. Ông duỗi chân ra và nhìn xuống. Đôi giày thuyền ông đang mang mềm, nhẹ và đế mỏng. Nó hợp với Miami. Nhưng không tốt cho tình cảnh hiện tại chút nào. Ông có thể hình dung được mình sẽ cần đến một đôi khác nặng hơn.
Rồi ông lại nhìn xuống. Đu người về phía sau, khép hai bàn chân lại với nhau và bước tới trước cùng một nhịp. Rồi dừng lại. Ông làm lại với chân kia, rồi dừng lại, như khuôn hình bất động một người đang bước đi. Ông nhìn chăm chăm xuống, lờ mờ nghĩ một điều gì đó trong đầu. Một điều gì đó từ mớ chứng cứ của Bellantonio. Một điều gì giữa hàng trăm tờ giấy được in ra đó.
Rồi ông lại ngẩng lên, vì ông cảm thấy có sự chuyển động trong khóe mắt cạnh cánh cửa của khách sạn Marriott cách hai khối phố. Ông thấy một mui xe tuần cảnh. Nó chạy vào tầm nhìn của ông và chúi xuống một thoáng khi phanh và dừng lại. Rồi hai tay cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện, bước tới trước. Ông liếc nhìn đồng hồ. Hai mươi ba phút. Ông mỉm cười. Emerson giỏi, nhưng không đến nỗi xuất sắc. Các viên cảnh sát bước vào cửa. Họ sẽ mất năm phút với tay nhân viên đứng quầy tiếp tân. Tay lễ tân sẽ cho họ số phòng của Hutton mà không tranh cãi gì. Nói chung, những tay lễ tân khách sạn ở những thành phố nhỏ miệt trong không phải là những nhà hoạt động trong Liên hiệp tự do dân sự Hoa Kỳ. Và ngày mai thì khách sẽ đi, nhưng sở cảnh sát địa phương thì luôn luôn còn đó.
Vậy là các tay cảnh sát sẽ lên phòng của Hutton. Họ sẽ gõ cửa. Hutton sẽ để cho họ vào. Bà không có gì giấu giếm. Các tay cớm sẽ nhìn ngó quanh phòng rồi trở xuống. Mười phút là cao nhất, từ đầu cho đến cuối.
Reacher lại ngó đồng hồ lần nữa, và chờ.
Các viên cảnh sát trở ra sau tám phút. Họ dừng lại bên ngoài cửa, những dáng người nhỏ tí xa xa. Một người trong bọn chúi đầu xuống cổ áo và dùng máy truyền tin, gọi báo cáo tiến trình thất bại, lắng nghe địa chỉ kế đến là ở đâu. Nơi có khả năng thường lui tới kế tiếp. Mối quan hệ được biết đến kế tiếp. Hoàn toàn thủ tục. Reacher nghĩ, Chúc mấy em trai một buổi tối vui. Vì tôi sẽ vui. Điều đó là chắc chắn. Ông nhìn họ lái xe đi và chờ thêm một phút phòng hờ họ chạy về phía mình. Rồi ông bước ra khỏi bức tường quây bằng gạch và đi thẳng đến chỗ Eileen Hutton.
Grigor Linsky ngồi chờ trong xe tại một lối thoát hiểm ở một bãi đậu xe của siêu thị, đối diện với một cửa sổ dán nguyên một tấm quảng cáo thịt bò xay hạ giá khổng lồ màu cam. Linsky nghĩ, Cũ và hỏng rồi. Hay đầy nhóc vi khuẩn. Loại thịt mà có thời mình và The Zec sẽ giết người để có mà ăn. Và giết người là sự thật. Linsky không có chút ảo tưởng nào cả. Không một chút nào. The Zec và hắn là những kẻ xấu bị cuộc sống làm cho tồi tệ hơn. Những nỗi khổ nhục chung của chúng không sinh ra tình cảm khoan dung hay cao thượng nào cả. Mà hoàn toàn ngược lại. Những kẻ trong hoàn cảnh của chúng mà xem trọng sự khoan dung và cao thượng đã chết ngay trong vài giờ. Nhưng The Zec và hắn đã sống sót, như những con chuột cống, bằng cách vứt bỏ mọi ức chế, bằng cách chiến đấu và cắn xé, bằng cách phản bội những kẻ mạnh hơn mình, bằng cách khống chế những kẻ yếu hơn mình.
Và chúng đã học nằm lòng. Điều gì thành công một lần sẽ luôn thành công trong những lần sau đó.
Linsky nhìn vào kính chiếu hậu thấy xe của Raskin đang chạy đến. Đó là một chiếc Lincoln Town Car kiểu cũ dáng vuông, màu đen và bụi bặm, nghiêng ngả như một tàu chiến bị thủng lỗ. Nó đậu nối đuôi xe hắn và Raskin bước ra. Hắn giống y như trước kia, một thằng lưu manh hạng hai của Moscow. Đậm người, mặt dẹt, áo khoác da rẻ tiền, mắt lờ đờ. Trên bốn mươi. Theo quan niệm của Linsky thì hắn là một thằng đần độn, nhưng hắn đã sống sót qua chiến thắng cuối cùng của Hồng Quân ở Afghanistan, việc này cũng có ý nghĩa chút đỉnh. Khối kẻ khôn ngoan hơn Raskin không trở về được nguyên vẹn, hay chẳng trở về là đằng khác. Điều làm cho Raskin thành một kẻ sống sót là phẩm chất có ý nghĩa hơn bất cứ phẩm chất nào khác, đối với The Zec.
Raskin mở cửa sau và chui vào băng ghế ngay sau lưng Linsky. Hắn không nói lời nào. Chỉ chìa ra bốn bản sao tờ áp phích lệnh truy nã của Emerson. Do The Zec gửi. Làm thế nào mà The Zec có được mấy tờ áp phích thì Linsky không biết chắc. Nhưng hắn có thể đoán. Những tờ áp phích trông khá được. Nhìn rất giống. Nó sẽ thực hiện được mục đích của mình.
Linsky lịch sự nói, “Cám ơn.”
Raskin không đáp.
Hai phút sau, Chenko và Vladimir đến trong chiếc Cadillac của Chenko. Chenko cầm lái. Chenko luôn luôn cầm lái. Hắn đậu xe sau chiếc Lincoln của Raskin. Ba chiếc xe lớn màu đen đậu thẳng hàng. Đoàn xe tang dành cho Reacher. Linsky cười thầm. Chenko và Vladimir ra khỏi xe và bước tới, một gã nhỏ con da sậm, gã kia to con da sáng. Chúng lên chiếc Calillac của Linsky, Chenko ngồi ghế trước, Vladimir lên ghế sau kế bên Raskin, đếm theo chiều kim đồng hồ thì Linsky trên ghế tài xế, rồi Chenko, rồi Vladimir, và Raskin. Đúng tôn ti trật tự, được tuân thủ một cách bản năng. Linsky lại mỉm cười và đưa ra ba bản sao áp phích. Hắn giữ lại cho mình một bản, cho dù hắn không cần nó. Hắn đã thấy Jack Reacher quá nhiều lần rồi.
Hắn nói, “Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu. Ngay từ khởi điểm. Chúng ta có thể tin rằng cảnh sát sẽ bỏ sót một điều gì đó.”