Đêm đó, như thường lệ, họ chào tạm biệt ở mép rừng.
Harney định đi vào sáng sớm hôm sau. Anh ta bảo Charity đừng nói gì về hoạch định của họ cho tới khi chàng trở lại, và lạ lùng làm sao, bản thân nàng cũng vui vì sự trì hoãn này. Một sự xấu hổ nặng nề treo trên nàng, làm cho nàng mụ mẫm khó nói lên những lời đầy xúc cảm để tạm biệt anh ta. Anh ta lặp đi lặp lại những lời hứa sẽ trở lại của mình dường như là gây tổn thương cho nàng. Nàng tin chắc anh ta sẽ trở lại, nhưng những sự hoài nghi của nàng còn sâu sắc hơn và khó định nghĩa được.
Cảnh tượng kỳ diệu của tương lai thoáng qua trí tưởng tượng của nàng. Lần đầu gặp gỡ, nàng không bao giờ nghĩ rằng anh ta sẽ cưới nàng. Nàng không có ý tưởng đó trong đầu, nó không có trong đó. Nếu có bao giờ nàng nghĩ về tương lai thì theo bản năng, nàng thấy như có một cái vực rất sâu ngăn cách họ mà cây cầu tình cảm bắc ngang qua không có thực, nó chỉ như một chiếc cầu vồng. Nhưng nàng ít khi nghĩ về tương lai, nhiều thứ quá đến nỗi nó làm nàng mê muội. Bây giờ cảm giác đầu tiên của nàng là mọi thứ sẽ khác trước đây. Đối với Harney, nay nàng sẽ là một “sinh vật khác”. Thay vì vẫn còn riêng biệt và tuyệt đối, nàng sẽ được so sánh với những người khác, và những điều không biết sẽ được mong mỏi ở nàng. Nàng rất tự hào nhưng cũng lo sợ, tự do của tinh thần đang suy sụp.
Harney không nói chính xác ngày trở lại, anh ta nói sẽ phải xem xét trước rồi mới hình thành mọi thứ. Anh ta hứa sẽ viết thư ngay khi có điều gì đó được xác định rõ ràng. Anh ta để lại địa chỉ, và cũng bảo nàng viết thư cho mình. Nhìn địa chỉ, nàng cảm thấy sợ. Nó ở New York, một câu lạc bộ với cái tên dài ngoằng trên đại lộ thứ năm: nó dường như dựng lên một rào chắn không thể nào vượt qua được giữa anh ta và nàng. Một vài lần trong những ngày đầu tiên, nàng lấy giấy để viết thư rồi ngồi nhìn nó. Nàng cố gắng để xem phải viết những gì, nhưng nàng có cảm tưởng thư nàng sẽ không đến nơi. Nàng chưa bao giờ viết cho ai ở xa hơn Hepberun.
Lá thư đầu tiên của Harney đến vào ngày thứ mười sau khi anh ta đi. Nó nhẹ nhàng nhưng quan trọng và không giống những mẩu giấy mà thằng bé mặt đầy tàn nhang từ Creston River mang đến cho nàng. Anh ta nói một cách chủ quan về ý định của anh ta trong chuyến trở lại, nhưng không nói ngày nào. Anh ta còn nhắc nhở Charity về việc thỏa thuận những kế hoạch của họ không được tiết lộ ra, cho đến khi anh ta có đủ thời gian để “sắp xếp mọi thứ.” Khi nào việc đó hoàn thành thì anh ta chưa biết trước được, nhưng nàng chờ anh ta trở lại thì mọi việc sẽ rõ ràng ngay tức khắc.
Nàng có cảm giác lạ lùng khi đọc lá thư đến từ một nơi xa vời vợi và nó đã mất gần hết ý nghĩ trên đường đi. Nàng trả lời bằng một bưu thiếp có ảnh màu Thác Creston, trên đó nàng viết: “Gửi anh với tình yêu của Charity.” Nàng cảm thấy việc này không thỏa đáng. Nàng thất vọng và hiểu rằng mình không có khả năng để diễn tả những gì mình muốn nói. Nàng không biết làm gì hơn là gửi cho anh ta những cảm tưởng lạnh lùng miễn cưỡng mà thôi. Nàng không thể nào quên việc anh ta chưa bao giờ nói cưới nàng, cho đến khi ông Royall buộc phải nói ra. Nàng không đủ dũng khí để giũ bỏ chất bùa mê đã gắn nàng vào anh ta. Nàng đã mất tính tự chủ trong tình cảm và dường như đang ngồi chờ số phận mà nàng không thể ngoảnh mặt đi.
Nàng đã không gặp ông Royall khi trở về ngôi nhà màu đỏ. Sáng hôm sau ngày nàng chia tay Harney, khi nàng đi xuống, Verena bảo cho nàng biết ông Royall đã đi Worcester và Portland. Thời gian này trong năm là lúc ông đến các hãng bảo hiểm mà ông đại diện để báo cáo tình hình. Không có gì bất thường trong chuyến khởi hành của ông ngoại trừ sự đột ngột của nó. Nàng có nghĩ đôi chút về ông, nhưng cũng vui vì ông không có mặt ở nhà.
Trong khi North Dormer đang hồi phục sau những ngày lao thân vào vui chơi lễ hội, nàng cũng nghỉ ngơi vài ba ngày, vì vậy sự lo âu lắng xuống và rời bỏ nàng lúc nào nàng cũng không biết. Một vài ngày sau khi lễ hội “Trở Về Mái Nhà Xưa” khép lại, Charity đã trốn Ally và bỏ thư viện để đi lang thang lên những ngọn đồi suốt ngày. Nhưng nàng không thể tránh Ally trung thực được lâu. Vì sau đó, mùa mưa kéo đến vào các buổi chiều, nên Ally đến ngôi nhà đỏ để tìm bạn mình là Charity và cùng nhau may vá ở trong nhà.
Hai cô gái ngồi trong phòng của Charity trên lầu. Charity để đôi bàn tay nhàn nhã của mình trên đùi, rồi chìm đắm vào giấc mơ nặng như chì, mà qua đó nàng chỉ nhận ra Ally mờ mờ đang ngồi đối diện với nàng ở chiếc ghế thấp bằng cói. Ally để đồ may của mình trên đầu gối, đôi môi mỏng trề ra khi nó cúi xuống làm việc.
Ally nói một cách tự hào: “Viền một dây ruy băng dọc theo áo là ý tưởng của tớ đấy.” Ally ngả người ra sau một chút để ngắm nghía chiếc áo nó đang trang trí: “Áo này của cô Balch: cô ấy sẽ vui chết đi được.” Nó ngừng lại rồi nói thêm với một cơn xúc động trong cái giọng the thé của nó: “Tớ không bảo cho cô ấy biết là tớ bắt chước theo cái áo của Julia.”
Ally đỏ mặt, như thể lời nói bóng gió đã giải thoát nó một cách không chủ tâm. “Ồ, tớ gặp chị ấy lâu lắm rồi trong lần chị mặc chiếc áo này.”
Lại yên lặng, rồi Ally nói tiếp: “Cô Balch để lại cho tớ nhiều việc làm trong lúc này.”
“Cô ấy chưa đi sao?” - Charity dò hỏi mà trong lòng buồn bực không yên.
“Cậu không biết sao? Cô ấy đi ngay sáng hôm sau khi xong lẽ hội ở Hamblin. Tớ thấy cô ấy chạy ngang qua với ông Harney.”
Sự yên lặng khác lại nối tiếp được đo bằng những giọt mưa tí tách đập vào cửa sổ, chỉ có tiếng kéo cắt lách cách của Ally xen vào trong không gian và thời gian đó mà thôi.
Ally phá ra cười một cách vô tư: “Cậu biết cô ấy nói gì với tớ trước khi đi không? Cô ấy bảo là sẽ gởi thư mời tớ đến Springfield để làm vài việc cho ngày cưới của cô ấy.”
Charity lại nhướn đôi mắt nặng nề lên và nhìn trân trân gương mặt nhọn tái mét của Ally đang chuyển tới lui theo những ngón tay đang làm việc của nó.
“Cô ấy sắp sửa đám cưới sao?”
Ally kẹp cái áo vào trong hai gối của nó, và ngồi nhìn chằm chằm vào đó. Đôi môi nó dường như khô lại, nó liếm môi và nói:
“Sao gì mà sao, đó là tớ nghĩ thế, từ những gì cô ấy nói. Bộ cậu không biết à?
“Tại sao tớ phải biết?”
Ally không trả lời. Nàng cúi xuống chiếc áo, và bắt đầu rút chỉ lược ra bằng mũi kéo.
“Tại sao tớ phải biết chứ?” - Charity lặp lại một cách gay gắt.
“Tớ không biết nhưng những người ở đây nói cô ấy đính hôn với ông Harney.”
Charity đứng lên cười lớn và dang hai tay lên đầu.
“Nếu tất cả mọi người kết hôn theo lời của người dân ở đây nói thì cậu có nhiều cơ hội để may đồ cưới rồi còn gì.” - nàng mỉa mai nói.
“Sao, cậu không tin à?” - Ally đánh bạo nói.
“Tớ sẽ không để việc đó xảy ra nếu tớ biết.”
“Tớ chỉ thấy cô ấy khóc ở buổi tiệc đêm đó vì áo của cô ấy không vừa vặn. Đó là lí do cô ấy không nhảy bản nhạc nào.”
Charity đứng nhìn lơ đãng xuống chiếc áo ren trên đầu gối của Ally. Nàng cúi xuống và vồ lấy nó một cách xấc xược.
“Ừ, tớ nghĩ cô ta cũng sẽ không khiêu vũ trong chiếc áo này đâu.” - nàng nói với một giọng hết sức ngang ngược, rồi ghì chặt cái áo và xé nó ra làm hai trong đôi tay trẻ, khỏe của mình và ném những mảnh rách xuống sàn nhà.
“Ôi, Charity!” - Ally vừa la vừa lảo đảo đứng lên. Trong một lúc lâu cả hai cô gái nhìn nhau rồi nhìn cái áo bị hủy hoại. Ally bật khóc.
“Trời ơi, tớ phải nói sao với cô ấy đây? Tớ phải làm gì? Đó là loại ren xịn đấy!” - Ally khóc ré lên.
Charity trừng trừng nhìn Ally một cách độc ác. “Cậu không nên mang nó đến đây.” - nàng vừa nói vừa thở hổn hển. Tớ ghét những chiếc áo của người khác - làm như chỉ có hai người họ ở đó cùng nhau. Cả hai lại nhìn nhau trên những lời tuyên bô” công khai này, cho đến khi Charity bật ra trong hơi thở gâp gáp khốn khổ: “Ôi, xéo - đi - đi - đi nếu không thì tớ cũng ghét lây cậu bây giờ.”
Khi Ally bỏ đi, nàng đổ mình xuống giường và khóc sướt mướt.
Cơn bão kéo dài theo sau một cơn gió tây bắc cấp 10, khi bão qua đi, đất trên đồi đổi màu, bầu trời xanh hơn và những cụm mây to trắng nằm ngang những ngọn đồi giống như những dòng sông tuyết. Những chiếc lá rời cành bắt đầu quay tít trên sân nhà cô Hatchard, và cây kim ngân mọc ở đài kỷ niệm tạo một mảng màu đỏ đậm trên cổng vòm màu trắng. Tháng Chín với những tia nắng vàng óng vui tươi. Ngày qua ngày, ánh hồng của cây kim ngân lan rộng bên sườn đồi, rập rờn phô sắc thắm trong gió. Kia là những cây thông và những cây thích với những chiếc lá vàng phản chiếu ánh nắng, rực rỡ giống như vầng hào quang bao quanh ngọn lửa. Những cây độc cần đen trở nên màu chàm tương phản màu nóng, sáng chói của khu rừng.
Trời lạnh về đêm, những ngôi sao lấp lánh trên nền trời rất cao đến nỗi chúng có vẻ như nhỏ hơn và chói lọi hơn. Thỉnh thoảng Charity nằm trên giường không ngủ trong suốt canh thâu, nàng cảm thấy như mình bị hất tung lên những vòng lửa đang quay và bị treo lủng lẳng trên một hầm mộ lớn. Ban đêm nàng vạch ra nhiều kế hoạch rồi nàng viết thư cho Harney. Nhưng những lá thư thì không bao giờ cho vào phong bì, vì nàng không biết diễn tả như thế nào những gì nàng muốn nói với anh ta.
Vì vậy nàng chờ. Từ khi nói chuyện với Ally, nàng tin chắc Harney đã đính hôn với Annabel Balch. Và rằng cái quá trình “thu xếp mọi chuyện” sẽ bao gồm việc làm đứt dây ràng buộc giữa họ. Thoạt đầu nàng sôi lên vì ghen, rồi nàng cảm thấy không sợ thực tế của hoàn cảnh này. Nàng vẫn còn tin chắc Harney sẽ quay trở lại, và tương tự, ít nhất là trong lúc này, nàng là người anh ta yêu chứ không phải cô Balch. Bởi vì làm thân con gái thì làm sao mà không có địch thủ, vả lại nàng là hiện thân của một Charity bất lực nhất trong sự hiểu biết và tranh giành. Annabel Balch là địch thủ của nàng, nếu không phải thì sao Harney phải cưới cô ta chứ, ít nhất cô ta cũng là loại người đương nhiên phù hợp cho Harney cưới. Charity thì chưa bao giờ hình dung mình là vợ của anh ta, cũng không bao giờ nắm bắt được hình ảnh của chuỗi ngày sắp đến; nhưng nàng có thể hoàn toàn tưởng tượng được mối quan hệ đó giữa Harney và Annabel Balch.
Càng nghĩ nhiều về những chuyện này thì cảm giác bất hạnh càng đè nặng trên nàng: Nàng cảm thấy mình vô dụng trong việc đấu tranh chống lại những nghịch cảnh. Nàng không biết làm thế nào để tự chấp nhận bản thân mình, nàng chỉ có thể đập phá, khóc lóc và hủy hoại. Cảnh nàng đối xử với Ally đã làm nàng xấu hổ vì hành động tàn bạo, trẻ con của mình. Harney sẽ nghĩ thế nào khi anh ta chứng kiến cảnh đó? Nhưng nàng quay lại vụ việc xảy ra trong trí rối bời của mình, nàng có thể hình dung người văn minh sẽ ứng xử một cách khác khi họ ở trong địa vị mình.
Hồi lâu, cái cảm giác này đột ngột chuyển sang hành động. Vào một đêm nàng lấy giấy viết thư ở văn phòng ông Royall, rồi ngồi bên cạnh đèn nhà bếp và bắt đầu viết lá thư đầu tiên gửi cho Harney khi Verena đã vào giường. Thư rất ngắn:
Em mong anh sẽ cưới Annabell Balch nếu anh hứa thế. Có lẽ anh cho rằng em sẽ cảm thấy tồi tệ về việc này. Anh nên hành động đúng.
Tình yêu của anh,
Charity.
Nàng gửi lá thư vào sáng sớm hôm sau, và một ít ngày sau nàng thấy hơi lạ. Nàng bắt đầu tự hỏi tại sao nàng không nhận được thư trả lời.
Một ngày như bao ngày khác, nàng ngồi một mình trong thư viện suy nghĩ về những điều này giữa bốn bức tường, các quyển sách xung quanh, và cái bàn gỗ hồng đào đặt trên tảng đá dưới khuỷu tay mình. Nàng cảm thấy choáng váng và nôn mửa giống như ngày lễ hội ở Town Hall. Nhưng Town Hall thì đông đúc và ngột ngạt còn thư viện thì trống trải và rất lạnh đến nỗi nàng phải mặc áo khoác. Năm phút trước nàng còn cảm thấy hoàn toàn khỏe, vậy mà bây giờ dường như nàng sắp chết tới nơi. Mảnh ren nàng móc một cách uể oải tuột khỏi các ngón tay và cây móc bằng thép rơi xoảng xuống sàn nhà. Nàng ấn hai bên thái dương thật mạnh bằng hai bàn tay ướt đẫm, rồi tựa chắc vào bàn trong khi đợt sóng buồn nôn quét qua nàng. Dần dần nó giảm đi, sau ít phút nàng đứng lên, run rẩy và khiếp sợ. Nàng cúi xuống lấy mũ và loạng choạng bước ra ngoài không khí. Nhưng tất cả ánh nắng mùa thu như quay cuồng và tiếng gió không ngừng gào rú xung quanh khi nàng lê bước trở về nhà trên con đường dài vô tận.
Nàng về đến ngôi nhà đỏ, nàng giật thót tim khi thấy một chiếc xe độc mã dừng trước cửa. Nhưng ông Royall là người duy nhất bước ra, ông cầm túi du lịch trong tay. Thấy nàng đang đi đến, nên ông chờ ở cổng. Nàng bình tĩnh khi ông nhìn nàng một cách chú ý, như thể có điều gì đó là lạ trong dáng vẻ của nàng, còn nàng thì hất đầu ra sau với sự cố gắng làm ra vẻ dễ chịu. Đôi mắt họ gặp nhau và nàng nói: “Ông đã về!” như thể không có gì xảy ra. Và ông trả lời: “Ừ, tôi đã về.” rồi ông đi trước, đẩy cửa vào văn phòng mình. Còn nàng thì leo lên phòng. Mỗi bậc thang như giữ chân nàng lại, nàng không thể bước nhanh vì cảm thấy có keo dính ở hai bàn chân.
Hai ngày sau, nàng đáp xe lửa xuống Nettleton. Nàng ra khỏi nhà ga và đi vào quảng trường bụi bặm. Thời gian lạnh ngắn ngủi đã qua, ban ngày thì ôn hòa nhưng gần như nóng giống như khi nàng và Harney ở đây vào ngày Quốc khánh 4 tháng 7. Trong quảng trường vẫn những người làm thuê chán nản, những người khuân vác ủ rũ và những con ngựa gầy gò với cái lưới ruồi trên vai, đầu rũ rượi lắc tới lắc lui.
Nàng nhận ra và nhìn các bảng hiệu trên các tiệm ăn, các phòng chơi bi-da, các hàng dây thép trên các cột cao chạy thẳng tắp trên con đường chính dẫn đến công viên phía đằng kia. Theo con đường có dây thép dẫn lối, nàng đi vội vã, đầu cúi gằm cho đến khi nàng đến con đường ngang có tòa nhà bằng gạch trên góc đường. Nàng băng qua đường và nhìn lên phía trước ngôi nhà một cách lén lút, rồi nàng quay lại và bước vào một cái cửa đang mở trên một các bậc thang có diềm bằng đồng. Trên chiếu nghỉ thứ hai, nàng nhấn chuông, và một cô gái lai da đen tóc tai rậm rạp, mang tạp dề, dẫn nàng vào hành lang nơi có một con cáo nhồi bông ngồi trên hai chân sau mang một cái khay bằng đồng đựng danh thiếp của khách hàng. Phía sau hành lang có một cái cửa đề: “Văn phòng”. Sau khi chờ đợi trong một phòng có những ghế dài, những bức ảnh của những người đàn bà diêm dúa có khung mạ vàng được ít phút thì Charity được chỉ lối vào văn phòng.
Khi nàng đờ đẫn ra khỏi cửa, bác sĩ Merkle theo sau và đưa nàng vào một phòng khác nhỏ hơn đầy vải nhung đỏ và những khung ảnh màu vàng. Merkle là một người đàn bà phôp pháp với đôi mắt nhỏ sáng quắc, tóc đen lùm xùm xòa xuống trán và da thì trắng một cách không tự nhiên, thậm chí răng cũng thế. Bà ta mặc một chiếc áo đen đắt tiền, đeo những dây chuyền vàng đẹp mê hồn trên ngực. Đôi bàn tay bà ta thì to, mượt và nhanh nhẹn trong thao tác, bà có mùi xạ hương và a xít các bô ních.
Bà ta cười với Charity phô ra một hàm răng hoàn hảo. “Ngồi xuống, cô gái thân yêu. Cô có thích uống một chút gì không?”. “Không... chỉ nằm lại một phút rồi...” Chưa có gì để làm đâu, nhưng khoảng chừng một tháng, nếu cô quay trở lại, tôi sẽ đưa cô đến ngôi nhà riêng của tôi trong 2 hay 3 ngày, và sẽ không có mảy may phiền toái.
Charity nhìn chằm chằm vào bà ta với đôi mắt mở to. Người đàn bà này đội bộ tóc giả, hàm răng giả, nụ cười giết người giả dối - những gì bà ta đề nghị với nàng là nhằm vào mục đích giết người không thể tưởng tượng được. Charity nửa tỉnh nửa mê, nàng tự nhờm gớm bản thân mình trong nỗi đau buồn dằn vặt và giờ đây bỗng dâng lên trong nàng một tình mẫu tử đáng ngạc nhiên.
Nàng đã đến cái nơi khủng khiếp này vì nàng biết không còn cách nào khác làm sáng tỏ tình trạng nàng hiện nay. Người đàn bà này đã đưa nàng vào tình trạng của một nạn nhân khốn khổ như Julia. Ý nghĩ nầy thật kinh hoàng đến nỗi nàng lao ra, mặt trắng bệch và run rẩy, một trong những cơn giận bùng lên quét ngang nàng.
Bác sĩ Merkle, vẫn mỉm cười, đồng thời cũng đứng lên: “Sao cô lại vội vã chạy đi như thế? Cô có thể nằm thoải mái trên ghế sô pha.” Bà ta dừng lại, và lại mỉm cười nhưng có vẻ giống mẹ hiền hơn: “Sau này, nếu có việc gì và cô muốn đi xa một chuyến tôi có một bà bạn ở Boston đang tìm một người bầu bạn và cô là một người thích hợp, cưng ạ!”
Charity ra đến cửa: “Tôi không muốn ở lại. Tôi không muốn trở lại đây!”, nàng lắp bắp, bàn tay đặt lên núm cửa, nhưng với một động tác nhanh, bác sĩ Markle đứng bên cạnh nàng chặn ngay ngưỡng cửa.
“Ồ, được thôi. Vui lòng trả cho năm đô la.”
Charity có vẻ vô vọng trước đôi môi mím chặt và gương mặt hãm tài của bác sĩ. Những đồng tiền để dành của nàng đã bay đi trong sự bồi thường cho Ally về chiếc áo của cô Balch bị nàng xé, và nàng phải mượn năm đô la của bạn mình để mua vé xe và trả tiền công của bác sĩ. Chưa bao giờ có chuyện tư vấn của bác sĩ mà tính hơn hai đô la.
“Tôi không biết! Tôi không có nhiều tiền như vậy.” - nàng ấp úng rồi ràn rụa nước mắt.
Bác sĩ Merkle cười nghiến răng, và moi thông tin của Charity một cách ngắn gọn. Bà ta dựa đôi vai chắc nịch của mình chắn ngang cửa khi bà ta nói giống như tên cai ngục tàn nhẫn nói với kẻ trôn tù.
“Cô hãy nói là cô sẽ trở lại và ở lại chứ? Tôi nghe có vẻ tốt hơn đấy. Cho tôi địa chỉ nào, và nếu cô không thể trả cho tôi thì tôi sẽ gửi hóa đơn đến người nhà của cô.” “Gì hả? Tôi không hiểu cô nói gì.” “Điều đó cũng không thích hợp với cô sao? Cưng ơi! cưng là một cô gái khá đặc biệt vì không có đủ tiền để trả hóa đơn của mình.” Bà ta dừng lại xoáy đôi mắt vào cái kim cài áo có hột đá xanh mà Harney đã mua tặng nàng.
“Bộ cô không thấy xấu hổ khi nói chuyện kiểu đó với một quý bà làm nghề này để kiếm sống trong khi cô mang trên người loại nữ trang như vậy sao?... Cô không ở vào địa vị của tôi, tôi làm việc này như một ân huệ, nhưng nếu cô để lại kim cài áo như một vật thế chấp, thì tôi sẽ không từ chối đâu. Ừ, dĩ nhiên rồi, và cô có thể chuộc lại nó nếu cô mang tiền trả đủ cho tôi.”
Trên con đường về nhà, nàng cảm thấy một sự bình thản bao la và không ngờ. Thật là kinh khủng khi để lại quà tặng của Harney trong đôi bàn tay của mụ đàn bà, nhưng cái giá của tin tức nàng mua được thì không đắt tí nào.
Đôi mắt khép hờ, nàng ngồi trên chuyến xe lửa lướt nhanh trên quang cảnh quen thuộc. Nàng nhớ lại về cuộc hành trình của một chuyến bay xa lúc trước. Bây giờ nàng chín chắn như cánh đồng lúa mì đang yên ngủ. Nàng sẽ không bao giờ còn cảm thấy mình đơn độc. Mọi thứ dường như trở nên rõ ràng và đơn giản một cách bất ngờ. Nàng không còn có bất cứ khó khăn nào trong sự vẽ ra bức tranh mà trong đó nàng là vợ của Harney. Nhưng giờ đây nàng còn là mẹ của con anh ta, và để so sánh quyền lực tối cao của mình ngay trên Annabel Balch, thì đó chẳng qua là sự giàu tưởng tượng của một cô gái đa cảm mà thôi.
Vào buổi chiều hôm đó, ngay tại cổng ngôi nhà màu đỏ, nàng thấy Ally đứng chờ trong lúc trời chạng vạng. “Tớ ở dưới bưu điện khi họ vừa đóng cửa, và Will Targatt nói có thư cho cậu vì vậy tớ mang nó về đây.”
Ally lấy bức thư ra, nhìn Charity một cách trìu mến. Từ cảnh xé toạc áo, Ally có một sự ngưỡng mộ mới và e sợ trong đôi mắt, nó cúi xuống nhìn bạn mình.
Charity chụp vội bức thư và cười: “Ồ, cám ơn, chúc ngủ ngon!” - nàng gọi với ra sau lưng và chạy trên lối vào nhà. Nếu nàng nấn ná lại một chút thì thế nào Ally cũng theo nàng bén gót.
Nàng chạy vội vào phòng trong bóng tối. Đôi bàn tay run run tìm hộp diêm và thắp nến, nắp phong bì dán chặt quá đến nỗi nàng phải tìm cây kéo để rạch nó ra. Nàng đọc hồi lâu:
Charity yêu:
Anh đã nhận điỉợc thư em, và nó làm cho anh xúc động hơn những gì mà anh có thể nói. Bộ em không tin anh trong chuyện trở lại để làm chuyện tốt nhất của mình hay sao ? Có những việc không thể giãi bày được, khó thể thanh minh, nhưng sự rộng lượng của em sẽ làm mọi việc dễ dàng hơn. Tất cả những gì mà anh có thể làm hiện nay là cám ơn em tận đáy lòng cho sự hiểu biết của em. Em bảo rằng em muốn anh làm đúng là đã giúp anh bày tỏ nỗi lòng rồi đó. Nếu bao giờ có một tia hy vọng trong sự thực hiện những gì chúng ta mơ ước thì em sẽ gặp lại anh ngay tức khắc, và anh thì chưu mất hết hy vọng đâu.
Nàng đọc thư trong sự nôn nóng, rồi cúi xuống và cúi xuống trên lá thư mỗi lúc một chậm và cẩn thận hơn. Lời lẽ trong thư rất đẹp đến nỗi nàng thấy nó gần như khó hiểu giống như lời diễn giải những hình ảnh trong Phúc âm của người đàn ông sang trọng ở Nettleton, nhưng dần dần nàng hiểu ra ý nghĩa chính của lá thư nằm ở một ít chữ cuối. “Nếu bao giờ có một tia hy vọng trong sự thực hiện những gì chúng ta mơ ước”
Nhưng rồi anh ta không chắc cái gì chứ? Bây giờ nàng hiểu hết mọi từ và sự thừa nhận công khai giữa anh ta và Annabel Balch có liên quan. Vậy là việc đính ước với cô ta là sự thật và anh ta chưa tìm được cách gì để hủy cuộc hôn nhân này.
Anh ta không cố gắng lẩn tránh một yêu cầu thúc bách; anh ta đang tranh đấu một cách chân thành và hối lỗi giữa hai bổn phận trái ngược nhau. Nàng không trách móc anh ta trong tư tưởng về việc không tiết lộ với nàng rằng mình không còn tự do: Nàng không thể thấy bất cứ điều gì đáng chỉ trích ở hạnh kiểm anh ta hơn ở mình. Từ lúc đầu nàng đã cần anh ta hơn là anh ta muốn nàng, và mãnh lực đó đã kéo họ lại với nhau còn mạnh hơn trận cuồng phong làm tơi tả lá rừng. Một biến động đột ngột duy nhất đứng sừng sững giữa họ là gương mặt không thể phá hủy được của Annabel Balch...
Mặt đối mặt với sự thừa nhận sự thật, nàng ngồi nhìn trân trân vào lá thư. Một cơn ớn lạnh chạy khắp người, nức nở trào dâng làm nghẹn ngào và làm nàng run rẩy từ đầu đến chân. Trong một lúc, nàng bị chộp và ấn vào những đợt sóng phiền muộn làm nàng không còn tỉnh táo chống lại những sự tấn công của chúng. Rồi dần dần nàng bắt đầu hồi phục sau những cơn đau thai nghén, mỗi cơn đau là kết quả của mối tình lãng mạn đáng thương của mình. Những điều ngu xuẩn nàng đã nói nay quay về với nàng: vui vẻ đáp lại chuyện Harney đã làm, nụ hôn đầu tiên trong bóng đêm giữa trận pháo hoa, việc cùng nhau chọn kim cài áo, cách anh ta chọc ghẹo nàng về những lá thư nàng để rơi giữa đường mà nhà truyền giáo nhặt được...
Tất cả những kỷ niệm đó và hàng ngàn thứ khác đang vo ve trong óc nàng. Sự gần gũi của anh ta đang dâng lên rất mãnh liệt đến nỗi nàng như thấy những ngón tay anh ta trong tóc nàng. Hơi thở nồng ấm trên má nàng khi anh ta kéo đầu nàng ra sau như một cành hoa vẫn còn phảng phất đâu đây. Những cái này là của nàng, chúng đã thấm nhuần trong huyết quản của nàng, và đã trở thành một phần của nàng, chúng đã hình thành một thai nhi trong tử cung của nàng, không thể phân chia cuộc sống đã đan xen vào nhau được.
Sự tin tưởng dần dần tăng thêm sức mạnh cho nàng, rồi nàng bắt đầu hình thành trong trí những lời lẽ đầu tiên nàng sẽ viết cho Harney. Nàng muốn viết ngay tức khắc, với hai bàn tay bồn chồn nàng bắt đầu lục lọi trong ngăn kéo để tìm giấy viết thư. Nhưng không còn lại tờ nào, nàng phải xuống lầu để lấy nó. Nàng có cảm giác mê tín rằng lá thư phải được viết ngay tức khắc, viết ra những bí mật sẽ mang đến cho nàng sự yên tâm và an toàn. Nàng lấy nến và đi xuống văn phòng ông Royall.
Nàng nghĩ chắc sẽ không gặp ông Royall vào giờ đó, có lẽ ông ta đang ăn tối và đi đến nhà Carrick Fry. Nàng đẩy cửa vào văn phòng không đốt đèn, và ánh sáng trong cây nến của nàng đưa lên rọi trên gương mặt ông đang ngồi trong chiếc ghế dựa. Đôi cánh tay để nằm dọc theo tay ghế, đầu hơi gục xuống, nhưng ông ngẩng lên rất nhanh khi Charity bước vào. Nàng thụt lùi lại khi đôi mắt họ chạm nhau, cặp mắt của Charity thì đỏ vì vừa mới khóc, và nét mặt thì ánh lên vẻ mệt mỏi và xúc động sau cuộc hành trình. Nhưng quá muộn để chuồn đi nên nàng đứng nhìn ông ta trong im lặng.
Ông đứng lên, đi về phía nàng với hai bàn tay duỗi ra. Cử chỉ rất bất ngờ đến nỗi nàng để cho ông nắm lấy tay mình và họ đứng lặng thinh, rồi ông Royall nói một cách nghiêm trang: “Charity, em đang tìm tôi sao?”
Nàng buông tay ra đột ngột rồi thụt lùi: “Tôi hả? Không...” Nàng để cây nến trên bàn ông - “Tôi muốn vài tờ giấy viết thư, chỉ có vậy thôi.” Gương mặt ông rầu rầu, cặp lông mày rễ tre thò ra trên đôi mắt. Không trả lời, ông mở hộc bàn lấy ra một tờ giấy và một phong bì rồi đẩy chúng về phía nàng và hỏi: “Em muốn một con tem nữa chứ?”
Nàng gật đầu, và ông đưa cho nàng con tem. Khi ông Royall làm việc đó, nàng thấy ông nhìn nàng một cách chú ý. Nàng biết ánh nến đã chiếu trên gương mặt trắng bệch của nàng, nó cũng làm cho méo mó những nét căng trên cơ thể và cường điệu những quầng thâm trên mắt nàng. Nàng chụp tờ giấy, sự an tâm của nàng đang tan vỡ dưới cái nhìn của ông, nàng đọc được sự thương hại và nhẫn tâm trong đôi mắt đó. Và hồi ức đầy mỉa mai ngày nào lại hiện lên: chính trong căn phòng nơi nhà hoang ông đã thúc ép Harney cưới nàng. Cái nhìn của ông dường như nói lên rằng nàng lấy giấy để viết thư cho người yêu, cái người đã bỏ rơi nàng như lời ông đã cảnh báo. Nàng nhớ lại sự khinh bỉ của ông mà chính vì nó nàng đã quay lưng lại với ông từ dạo đó. Nếu ông đoán đúng thì bàn thắng sẽ nghiêng về phía ông. Nàng quay lại và vọt lên lầu, nhưng khi nàng về đến phòng mình thì những lời định viết ra bay đi mất hết...
Nếu nàng có thể tìm đến Harney thì mọi chuyện sẽ khác. Nàng phải tự tìm đến anh ta để những kỷ niệm nói thay nàng. Nhưng nàng không còn một đồng nào, và không có ai để nàng có thể mượn đủ tiền cho cuộc hành trình. Không có việc gì làm ngoài việc viết thư và chờ đợi anh ta trả lời. Nàng ngồi cúi xuống tờ giấy trắng một lúc lâu nhưng không tìm được lời để diễn tả thật lòng mình.
Harney đã viết rằng nàng đã làm cho anh ta thấy dễ dàng hơn, và nàng cũng vui về việc đó, nàng không muốn làm mọi việc trở nên khó khăn. Nàng biết mình có quyền làm việc đó, nàng cầm số phận anh ta trong tay mình. Tất cả việc nàng phải làm là nói cho anh ta nghe sự thật, nhưng thực tế nắm giữ nàng lại. Năm phút mặt đối mặt với ông Royall đã lột trần ảo tưởng cuối cùng của mình, và mang nàng trở lại quan điểm về North Dormer.
Trước mặt nàng nổi lên một cách rành rọt và nhẫn tâm cái định mệnh của cô gái kết hôn “để làm mọi việc đúng.” Nàng đã thấy rất nhiều câu chuyện tình yêu ở trong làng kết thúc trong cách này. Cuộc hôn nhân khốn khổ của Rose Coles là một trong số đó; và cái gì tốt trong cuộc hôn nhân dành cho nàng hay cho Halston Skeff? Họ ghét nhau từ ngày vị mục sư làm phép cưới cho họ, và bất cứ lúc nào bà già Skeff cũng có thể tưởng tượng ra một cái gì đó để làm bẽ mặt con dâu. Có lúc bà ta chỉ nói: “Người gì mà lúc nào cũng nghĩ giống như đứa bé lên hai.” Và khi nói về một đứa bé bảy tháng tuổi: “Chỉ có bây lớn thôi sao?” North Dormer không những có kho tàng đam mê và sôi nổi mà còn có cả sự chế nhạo dành cho những người bị vồ lấy từ sự cháy bỏng đó, và Charity luôn luôn hiểu vì sao mà Julia Hawes không để bị vồ lấy.
Không còn sự lựa chọn nào khác nhưng theo cách của Julia thì sao? Tâm tưởng nàng trở lại khung cảnh gương mặt trắng toát của người đàn bà giữa những chiếc ghế dài phủ nhung lông đỏ và những khung hình mạ vàng. Trong sự sắp xếp đồ đạc ngăn nắp đó cho nàng biết không có chỗ nào cho chuyến phiêu lưu cá nhân của mình.
Nàng ngồi trong ghế mà không thay quần áo cho đến khi những vệt nắng yếu ớt bắt đầu chia đều trên những thanh gỗ đen của các cửa chớp. Rồi nàng đứng lên và đẩy chúng mở ra, để cho ánh sáng tràn vào. Ngày mới vừa đến, mang theo một nhận thức tỉnh táo sắc nét hơn về sự thật không thể tránh khỏi, và theo sau nó là một nhu cầu hành động. Nàng tự nhìn mình trong gương, thấy gương mặt mình trắng bệch trong buổi bình minh mùa thu, đôi má hóp và mắt có quầng thâm. Tất cả những dấu hiệu về tình trạng của mình thì tự nàng sẽ chẳng bao giờ biết được, nhưng sự chẩn đoán của bác sĩ Merkle đã nói rõ điều đó. Nàng không thể hy vọng rằng những dấu hiệu đó sẽ thoát khỏi sự dòm ngó của dân làng, hình dáng của nàng cũng mất vẻ cân đối ngày trước, ngay cả vẻ mặt cũng phản bội nàng.
Tựa vào cửa sổ, nàng nhìn ra quang cảnh tối tăm và vắng vẻ, những ngôi nhà màu tro với những cửa sổ chớp, con đường xám xịt chạy lên dốc có những cây độc cần bao quanh nghĩa trang và khối Núi đen nặng nề tương phản trên nền trời có mưa. về hướng đông, không trung tỏa sáng trên khu rừng, nhưng trên đó cũng có những cụm mây bay. Chầm chậm, cái nhìn của nàng băng ngang những cánh đồng đến chỗ quanh gồ ghề của những ngọn đồi. Nàng đã thường nhìn vòng tròn không sinh động đó, và tự hỏi nếu có điều gì xảy ra cho những người bị vây hãm trên đó thì sao?
Hầu như không có ý tưởng tỉnh táo nào trong quyết định của nàng. Khỉ đôi mắt nàng theo dõi đường tròn của những ngọn đồi thì đầu óc nàng cũng trở về ý định cũ. Nàng cho rằng có một cái gì đó trong huyết quản nàng cho biết Núi sẽ đáp lại yêu cầu của nàng, sự ra đi khỏi tất cả những gì đã vây hãm và ngáng lối đi của nàng là điều sẽ xảy ra. Nó bắt đầu hiện ra lờ mờ trong bình minh mưa rơi. Càng nhìn lâu thì nàng càng hiểu rõ hơn, Núi là nơi nàng sẽ thật sự phải đến với bất cứ giá nào.