Ngược Về Thời Minh

Chương 206: Quyết theo đại soái



Dương Lăng trở về chỗ ngồi, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

- Hai điều kiện thế nào? Ha ha! Mời sứ giả Nặc Mộc Đồ nói rõ!

Nặc Mộc Đồ khẽ mỉm cười, ánh mắt lập loè:

- Đoá Nhan Tam Vệ đội ân sủng của Hoàng đế bệ hạ cho phép lập Hãn xưng vương. Đương nhiên, cho dù đại thủ lĩnh của chúng tôi được xưng là Hãn cũng không dám đứng ngang hàng ngang vế cùng Hoàng đế bệ hạ Đại Minh, mà vẫn giữ vai vế theo lệ là chư hầu phiên vương của Đại Minh.

Dương Lăng cười nói:

- Ấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên đến khi đó Hoa Đáng Khả Hãn nắm giữ thảo nguyên rộng lớn, cả đất đai lẫn dê bò, lại chỉ phải triều cống mà không phải nộp thuế, sưu dịch. Làm sao phiên vương Đại Minh ta có thể so bì?

Động lòng bởi viễn cảnh tươi đẹp do Dương Lăng vẽ ra, khoé mắt Nặc Mộc Đồ thoáng hiện vẻ mừng rỡ. Hắn cố trấn tĩnh lại rồi mới ra vẻ dè dặt nói tiếp:

- Chỉ có điều, Ngoã Lạt và Đại Hãn Thát Đát đều từng nhận được chỉ sắc phong của chính Hoàng đế bệ hạ, cho nên chúng tôi hy vọng cũng có thể nhận được sắc chỉ của Hoàng đế bệ hạ, cùng được ban kim ấn, phù tiết.

Dương Lăng sực tỉnh, thì ra vị đặc sứ này lo ngại Đại Minh chỉ chấp thuận ngoài miệng. Giữa ba bộ lạc Ngoã Lạt, Thát Đát và Ngột Lương Cáp của Mông Cổ thì bọn họ có sức ảnh hưởng bé nhất. Nếu như không được triều đình nhà Minh ủng hộ công khai, bọn họ sẽ không thể nào có được danh xưng Đại Hãn một cách danh chính ngôn thuận, ít nhất là trước khi bọn họ có đủ thế lực để áp chế hai bộ lạc kia.

Dương Lăng thoáng trầm ngâm, rồi gật đầu đồng ý:

- Lo nghĩ của ngài cũng có lý, ta sẽ tự bẩm báo chuyện này với Hoàng thượng. Chuyện thứ hai là gì?

Thấy Dương Lăng đồng ý, Nặc Mộc Đồ mừng rỡ ra mặt. Hắn trở về chỗ ngồi, suy nghĩ một chút rồi mới cẩn thận nói tiếp:

- Năm xưa do Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi theo phò dẹp loạn có công, hoàng đế Vĩnh Lạc đã ban thưởng cho chúng tôi Đại Ninh vệ (nay chính là Thừa Đức Thị, huyện Bình Tuyền, huyện Kiến Xương và lưu vực sông Lão Cáp).

Nhưng mà... chắc hẳn Dương đại nhân cũng biết, Tam Vệ chúng tôi sống bằng nghề du mục; dê bò là tất cả những gì chúng tôi có, song hoàng đế Vĩnh Lạc lại không cho phép chúng tôi nuôi thả ở địa khu Đại Ninh. Uổng cho mảng thảo nguyên rộng lớn mà lại không được chăn thả dê bò, cho nên hy vọng Hoàng thượng cho phép chúng tôi chăn thả ở khu vực Đại Ninh vệ.

Dương Lăng vừa nghe xong tim liền nhảy đánh thịch. Lúc suy đoán điều kiện mà Đoá Nhan Tam Vệ có khả năng sẽ đưa ra y liền nghĩ Đoá Nhan Tam Vệ có thể sẽ đưa điều kiện này ra, quả nhiên là vậy. Thật ra mấy chục năm trước Đoá Nhan Tam Vệ dưới sự hỗ trợ của bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm có quan hệ thông gia với bọn họ đã đem quân tiến vào thành Đại Ninh, còn vượt Hội Châu (nay là huyện Bình Tuyền tỉnh Hà Bắc) thẳng tiến Khoan Hà (nay là xã Bộc Hà tỉnh Hà Bắc), không ngừng lấn đẩy xuống phía nam.

Nay, Đoá Nhan Tam Vệ trải dài từ thành Đại Ninh thẳng đến Hỉ Phong khẩu, cách Tuyên Hoá Hà Bắc một ngọn núi; thế lực của Thái Ninh vệ từ Cẩm Châu, Nghĩa Châu qua Quảng Ninh vệ đến tận Liêu Hà, thế lực của Phúc Dư vệ từ Hoàng Nê Oa qua Thẩm Dương, Thiết Lĩnh thẳng đến Khai Nguyên vệ. Trên thực tế dải đất rộng lớn lấy nam và đông dòng Tây Lạp Mộc Luân và Liêu Hà làm nơi khởi nguồn, tây kề Tuyên Phủ, đã nằm trong tay Đoá Nhan Tam Vệ.

Để Đoá Nhan Tam Vệ cùng Đại Minh liên binh đối phó Thát Đát mà chỉ cần triều đình Đại Minh công khai sắc phong một chức vị và thừa nhận quyền sở hữu một khu vực mà trên thực tế đã nằm dưới sự khống chế của bọn họ! Thoạt trông dường như Đại Minh không hề chịu phải tổn thất nào, thế nhưng Dương Lăng lại không khỏi do dự.

Đại Minh không cách nào khống chế những nơi này, trên thực tế bảo chúng đã rơi vào tay Đoá Nhan Tam Vệ cũng không sai. Thế nhưng công khai thừa nhận quyền sở hữu của bọn họ lại là cắt nhường quốc thổ, điều này thật sự sẽ để lại mối nguy hại vô cùng cho đời sau.

Năm xưa đại đế Vĩnh Lạc ban thưởng đất đai cho Đoá Nhan Tam Vệ là đã phạm phải một sai lầm trí mạng. Vệ sở Đại Minh nằm ngoài quan ngoại gắn liền một thể, giữa các vệ sở đã có sự tương hỗ cho nhau, vừa mất một mảng vào tay Đoá Nhan Tam Vệ thì cả hệ thống chiến lược này lập tức sụp đổ, giữa các vệ sở đã mất đi sự gắn kết hữu hiệu. Thậm chí một mình vệ sở Liêu Đông sẽ không đủ sức ngăn chặn sự tiến công của một bộ lạc nhỏ.

Những địa khu này đều là những yếu địa chiến lược quan trọng. Dương Lăng đang mưu tính châm ngòi nội loạn Thát Đát, rồi kéo Đoá Nhan Tam Vệ vào trong vũng bùn, sau đó tăng quân cho Liêu Đông, củng cố sự khống chế địa khu này thì sao y sẽ chịu tạo danh chính ngôn thuận cho người ta?

Thế là y bèn lắc đầu quả quyết:

- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, ông phải biết rằng tuy các ông gặp phải nguy hiểm to lớn, nhưng lợi ích đạt được lại lớn hơn. Một khi khiến được Thát Đát thần phục các vị, các vị sẽ có thể chọn ra đồng cỏ và nguồn nước tươi đẹp nhất để chăn thả dê bò. Cho dù có thất bại, các vị lui về cố thủ Đoá Nhan Tam Vệ, có Đại Minh kiềm chế Thát Đát, bọn chúng cũng sẽ không làm gì được các vị. Liêu Đông là hàng rào chắn của kinh sư Đại Minh, chúng ta không thể bỏ nó.

Nặc Mộc Đồ vừa mới mở miệng định thuyết phục, Dương Lăng đã đưa tay lên ngăn:

- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, chuyện này ta không cần phải xin ý chỉ của Hoàng đế bệ hạ, tuyệt đối không cần phải thương lượng. Liêu Đông, không thể được dùng để mặc cả!

Nặc Mộc Đồ cầm chén trà sữa lên uống một ngụm, rồi vuốt chòm râu dày đen như sắt nghĩ ngợi, một chốc sau hắn mới nói:

- Nếu công khai quyết liệt với Thát Đát, chúng tôi phải đương đầu với nguy hiểm rất lớn. Nếu như không có gì bảo đảm, toàn thể bộ lạc làm sao có thể yên tâm đây? Nếu đại nhân đã nói như vậy..., không biêt có thể bẩm với Hoàng đế bệ hạ rằng, để tỏ thành ý, Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi muốn cùng triều đình hoà thân(1) được không?

Dương Lăng thoáng sững người, y không ngờ Nặc Mộc Đồ lại dám yêu cầu hoà thân, lẽ nào là thực! Hoa Đáng còn chưa làm Đại Hãn, Đoá Nhan Tam Vệ đã cho rằng mình là triều đình Bắc Nguyên năm xưa dưới trướng có tứ đại Hãn quốc (vương quốc của Khan - ND) ư? Lại dám đòi hoà hiếu kết giao với triều đình nhà Minh!

Nặc Mộc Đồ thấy sắc mặt y sầm xuống, liền vội đính chính:

- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng có một vị ái nữ tên Ngân Kỳ cô nương, là đoá hoa mỹ lệ nhất trên thảo nguyên Khoa Lâm Thấm,năm nay mới được 15 xuân xanh. Nếu như Hoàng đế bệ hạ không ghét bỏ, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý dâng cho Chính Đức hoàng đế bệ hạ làm phi...

Mặt Dương Lăng liền hết vẻ giận: thì ra là muốn tiến dâng mỹ nữ, hề hề, như vậy cũng tốt. Dù sao cũng là thông gia chính trị, xấu chút cũng không sao, dâng vào trong cung là được rồi. Dù sao thì ngay cả Hoàng hậu và hai vị quý phi hiện giờ đều là vật trang trí, Tử Cấm Thành còn ngại thêm một miệng cơm nữa sao? Hơn nữa... Khoa Lâm Thấm? Đệ nhất mỹ nữ Đại Ngọc Nhi của Mãn Châu hình như là một cô nương vùng thảo nguyên Khoa Lâm Thấm thì phải, tướng mạo vị tiểu thư Ngân Kỳ này chắc cũng không kém.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mỉm cười định đồng ý rồi quay về bẩm báo với Chính Đức, nào ngờ Nặc Mộc Đồ lại thay đổi ngữ điệu, nói tiếp:

- Được biết Hoàng đế bệ hạ có hai vị ngự muội là Vĩnh Phúc công chúa và Vĩnh Thuần công chúa, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý nghênh cưới một vị trong đó, cũng đưa lên làm chánh thất phu nhân, cùng Đại Minh kết làm Tần Tấn, nhất định hợp tác khắng khít với nhau.

Dương Lăng vừa nghe xong liền thoáng chau mày, liền đó thầm rủa: "Ngươi gả con thì cứ gả con đi, sao còn đòi chúng ta bù thêm một người nữa?... Không đúng à, con gái Hoa Đáng gả cho Chính Đức, vậy Chính Đức là con rể hắn, hắn lại muốn cưới em gái của con rể mình... vậy sẽ loạn thành một đống gì đây?”

“Nghe nói Hoa Đáng đã có năm trai ba gái, chắc là một lão già râu xồm gần năm chục rồi thì phải? Bảo tiểu công chúa Vĩnh Phúc thùy mị đáng yêu gả cho lão già Hoa Đáng đó?” Vừa nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng chợt cảm thấy không thoải mái.

Bằng không thì đổi thành tiểu nha đầu Vĩnh Thuần đó vậy? Ý nghĩ này vừa mới nhen nhóm trong đầu, Dương Lăng liền đã rùng mình, cả người rét lạnh. Y mà dám đồng ý, khi trở về bảo đảm Chính Đức sẽ xách bảo kiếm truy sát y khắp Đại Đồng giống như năm đó hắn truy sát cậu em vợ của ông già hắn vậy.

Dương Lăng hít vào một hơi, rồi thầm cảnh tỉnh mình: "Mình đến là để hoà đàm, là đàm phán về việc ký kết đồng minh, cho dù không đồng ý cũng có thể từ chối khéo một chút, như thế mới có thể đạt được mục đích. Vạn lần đừng học ông Quan Công mà phán câu ‘Con gái ta anh thư lỗi lạc há có thể gả cho thằng con yếu hèn nhà ngươi sao?’”

Thế là y bèn dằn lửa giận trong lòng, làm ra vẻ phản đối mà bật cười to. Nạc Mộc Đồ ngạc nhiên hỏi:

- Cớ sao Dương đại nhân lại cười?

Dương Lăng phất tay áo, cả cười bảo:

- Sứ giả Nặc Mộc Đồ tin là đại sự liên can đến vận mệnh mấy chục vạn người, liên can đến sự sống còn của một bộ tộc lại thật sự có thể gắn liền với một người con gái ư? Đại Minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ liên kết đồng minh, giao dịch thông thương, cùng liên minh chống ngoại xâm mới là thành tâm cao nhất.

Tự lâu đã nghe đại thủ lĩnh Hoa Đáng là một trong ba đại anh hùng tái ngoại, hùng tài đại lược, tầm mắt cao xa, không thua kém Bá Nhan, Hỏa Sư, sao có thể ký thác việc liên minh vào việc hoà thân? Chẳng lẽ là sứ giả Nặc Mộc Đồ tự ý làm chủ? Ha ha... khi về đến nơi sứ giả Nặc Mộc Đồ chớ mà nhắc tới việc này với thủ lĩnh Hoa Đáng, nếu không sẽ khiến thủ lĩnh Hoa Đáng hổ thẹn đó.

Khuôn mặt Nặc Mộc Đồ đỏ bừng, trông thành ra hơi sẫm hơn. Hắn hậm hực bảo:

- Hoà thân là chuyện từ xưa đã có. Đời Hán, Đường đều có công chúa gả ra tái ngoại, trở thành câu chuyện được mọi người ca tụng nghìn đời. Nếu như việc hoà thân còn không thể biểu

thị được sự thành tâm, vậy Dương đại nhân sẽ lấy gì để chứng minh lòng thành hợp tác đây?

Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:

- Lợi ích! Chỉ có lợi ích chung mới có thể khiến đôi bên hợp tác khắng khít cùng nhau.

Đoạn y vung tay áo đứng lên, bước đến trước mặt sứ giả của Hải Tây Nữ Chân là Hồ Xích nói:

- Mấy năm gần đây Đại Minh cùng Nữ Chân giao dịch ngày càng phồn thịnh. Bản quan lấy một ví dụ, chỉ với một món là nhân sâm. Do nhân sâm ngâm nước không giữ được lâu nên thương nhân người Hán mặc sức ép giá, mỗi năm các người tổn thất phải đến mấy chục vạn lạng bạc đúng không?

Vừa nhắc đến chuyện này, bụng Hồ Xích liền đầy lửa giận. Bọn họ tuyệt không sản xuất thứ gì, hoàn toàn dựa vào việc lên núi đào sâm và săn bắn để đổi lấy muối, lấy trà, lấy vải vóc nồi sắt với người Hán. Mà chỉ có người Hán mới biết dùng thứ nhân sâm này, đem đến những chỗ khác bán không được giá và cũng không có mấy ai mua. Nhưng thương nhân người Hán ép giá quá đáng quả thật đã hại bọn họ đến khổ. Hồ Xích vội đứng dậy cung kính đáp:

- Đại nhân minh giám, tệ bộ lạc lần này đến đây nguyện ý gia nhập đồng minh, chỉ hy vọng triều đình có thể đối xử công bằng với người Nữ Chân.

Dương Lăng gật đầu bảo:

- Bản quan đã biết! Chỉ với một thứ là nhân sâm của một bộ lạc Hải Tây Nữ Chân các vị, mỗi năm đã phải thông qua chợ buôn ngựa(2) mà chuyển vận hơn năm vạn cân nhân sâm. Mấy năm trước đôi bên xích mích, triều đình ta từng ra lệnh cấm, không cho giao dịch suốt hai năm; số nhân sâm bị vữa nát của các vị hẳn phải hơn mười vạn cân, đúng không? Do đó dân lành Nữ Chân nghèo khốn mà chết nhiều vô số kể. Nếu cùng bản triều liên minh, chúng ta sẽ không cấm chợ, hơn nữa còn tình nguyện định giá chính thức, giảm bớt thuế khoá hỗ trợ thương nhân người Hán. Đây có thể xem là điều biểu lộ thành tâm lớn nhất chưa?

Hồ Xích mừng như bắt được vàng, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, luôn miệng đáp:

- Đương nhiên, đương nhiên! Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ Hoàng thượng! Chúng tôi bằng lòng... bằng lòng cùng Đại Minh kết minh trọn đời.

Dương Lăng gật đầu, mỉm cười bước đến trước mặt sứ giả Kiến Châu Nữ Chân là Lý Đậu Lý, nói:

- Kiến Châu Nữ Chân vốn lấy chuyên nghề chăn nuôi súc vật, lấy thịt ăn lấy da mặc, còn Đại Minh ta thì chuyên cày ruộng ăn gạo mà sống.

Nhưng mấy năm gần đây, các vị dần dần khai thác đất ruộng, thu mua trâu cày, lưỡi cày từ Đại Minh, mời người Hán dạy cách cày bừa trồng trọt. Các vị ăn mặc giống như người Hán, giàu có sung túc nhất trong Nữ Chân Tam Bộ. Trong hai năm cấm chợ, bộ lạc các vị nam thì không xẻng liềm, nữ thì không kim kéo, nấu thì không có nồi, ăn thì không có muối. Thiết nghĩ Lý Đậu Lý sứ giả là người nhận thức rõ sự việc đó nhất đúng không?

Giả như chúng ta mở thêm chợ buôn ngựa, đổi chợ phiên chỉ giao dịch buôn bán vào mồng một và mười lăm mỗi tháng thành giao dịch buôn bán hằng ngày, mở rộng phạm vi vật phẩm buôn bán thì ngài cho rằng đây mới tỏ rõ lòng thành của Đại Minh, hay đưa một vị công chúa đi hoà thân mang theo mười vạn lạng bạc trắng mới là có lòng thành?

Lý Đậu Lý nghe vậy liền sáng rỡ hai mắt. Chỉ cần Đại Minh chịu đổi từ chợ phiên mỗi tháng hai lần thành chợ thường xuyên, mở rộng vật phẩm giao dịch đối với ba khu chợ lúc trước thì đã đủ khiến bọn họ có đang nằm mơ cũng phải bật cười tỉnh dậy rồi, chứ đừng nói gì đến mở thêm chợ? Chuyện này thật nằm ngoài dự liệu của bọn họ, Lý Đậu Lý không hề nghĩ ngợi gì lập tức "trở giáo" đáp ngay:

- Đương nhiên là mở chợ buôn bán là tỏ rõ lòng thành rồi! Chúng tôi không cần gì nhiều, chỉ cần triều đình Đại Minh chịu buôn bán cùng chúng tôi, Kiến Châu Nữ Chân sẽ là phiên thuộc và bằng hữu vĩnh viễn của Đại Minh!

Bọn sứ giả của các bộ lạc Đoá Nhan kích động vô cùng, đã có mấy kẻ đứng ngồi không yên. Nhưng rất có lẽ vì Nặc Mộc Đồ của Đoá Nhan Vệ là thủ lĩnh sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ đều hướng ánh mắt về phía Nặc Mộc Đồ. Trông thấy tình hình như vậy, Nặc Mộc Đồ không khỏi trầm ngâm nói:

- Lời ấy của Đại Nhân rất phải. Nhưng nếu như vậy, chúng tôi làm thế nào để tin vào thành tâm của triều đình Đại Minh đây?

Dương Lăng giơ từng ngón tay lên đếm:

- Thứ nhất cũng là công khai giao dịch, tin rằng quý bộ sẽ được lợi không ít từ trong đó.

Thứ nhì là hợp tác quân sự; một khi dụng binh, Đại Minh sẽ xuất binh từ hai lộ là Tuyên Hoá Đại Đồng và Liêu Đông, tạo thành thế tam giác, giữa là trung lộ. Nếu như không thành tâm hợp tác, trọng binh của chúng ta ở Liêu Đông sẽ nguy khốn trùng trùng, như vậy hẳn đã có thể bày tỏ lòng thành của chúng ta rồi chứ?

Thứ ba, tựa như năm đó Dã Tiên thái sư của Ngõa Lạt tiến đánh Yến Kinh bị ngăn trở, lần này Bá Nhan tấn công bị đánh bại; sau khi hắn trở về ắt Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Chúng ta không cần các vị xuất binh ngay bây giờ, song phương có thể khai trương chợ, buôn bán trước, chờ khi quân giỏi lương đủ, Thát Đát đại loạn rồi mới thừa thế tóm gọn bọn chúng. Các vị có thể lựa xem tình thế mà hành động, nắm quyền chủ động. Tất cả những thứ vừa nêu trên đã đủ để tỏ rõ lòng thành của chúng ta chưa, thưa sứ giả Nặc Mộc Đồ?

Nặc Mộc Đồ nghe nói đến đây thì lông mày nhướng cao, bèn đứng dậy nắm tay đặt lên ngực, trịnh trọng đáp:

- Chúng tôi tin vào thành tâm của Hoàng đế bệ hạ, tin lời của Dương đại nhân. Tôi sẽ mau chóng bẩm báo cho đại thủ lĩnh Hoa Đáng được hay.

Dương Lăng mỉm cười vui vẻ, đáp:

- Tốt, vậy ta sẽ ở trong thành Đại Đồng chờ tin tốt của các vị.

Đoạn y bước trở về bàn mình bưng bát trà sữa lên uống cạn một hơi, rồi cười sang sảng nói:

- Lần tới sẽ do bản quan chiêu đãi các vị sứ giả ở Đại Đồng, hy vọng đến lúc đó các vị sẽ có thể mang đến tin tốt từ đại thủ lĩnh Hoa Đáng. Các vị, xin cáo từ!

Sứ thần của các bộ vẫn đứng ngoài khe núi mà dõi mắt trông theo hơn trăm khinh kỵ khuất dần trong khe núi. Sứ giả của bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Cách Nhật Lặc Đài bước tới bên cạnh Nặc Mộc Đồ đang trầm tư suy nghĩ cung kính thưa:

- Hoa Đáng đại nhân, ngài thấy lời của vị sứ thần nhà Minh này có đáng tin không?

Cặp mắt mang hơi hướm con buôn của Hoa Đáng đang giả danh là Nặc Mộc Đồ nhoáng cái đã biến thành cặp mắt sắc bén lanh lợi như chim ưng. Hắn vuốt râu cười nhẹ rồi bảo:

- Nếu như bọn họ chỉ muốn lợi dụng chúng ta, ắt sẽ không quan tâm đến việc hứa hẹn. Do đó chúng ta có hét giá trên trời, bọn họ cũng sẽ đáp ứng hoàn toàn. Nếu như ký kết liên minh là giả, vậy thì còn để ý đến việc giả kết thân và giả cắt đất sao? Vị sứ thần Đại Minh này thận trọng như vậy, xem ra đích thực là bọn họ thành tâm rồi.

Các Nhật Lặc Đài thở phào nhẹ nhõm, rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Thành tâm là tốt rồi. Nói thật, khi đối địch với Thát Đát bộ lạc chúng ta sẽ chết rất nhiều, nhưng đối địch với nhà Minh không những chết chóc mà còn bần cùng; so với cái chết càng đáng sợ hơn nhiều.

Nếu như Hoàng đế nhà Minh thật sự không phải là một ông vua nhu nhược mà cũng vĩ đại như Hồng Vũ Thiên Khả Hãn hay Vĩnh Lạc Thiên Khả Hãn năm xưa, thì đối với chúng ta, có lẽ thuận theo ý chí của vị Chính Đức Thiên Khả Hãn này cũng sẽ là một sự lựa chọn hết sức chính xác.

Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:

- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng liếm lành vết thương thôi.

Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa, trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?

Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...

Một cặp mắt sáng như sao Mai trừng hắn, đó là của một "đứa con trai" anh tuấn khôi ngô. Nhưng lạ là con trai trên thảo nguyên, cho dù tuổi có nhỏ đi nữa, mà hắn vẫn trông có vẻ hơi yếu đuối quá, ngũ quan cũng xinh xắn và tao nhã qúa.

Một chiếc áo da gấu ngắn lưng, đôi giày da cổ cao, cặp mày đen như mực dưới chiếc mũ da màu nâu nhạt, cánh môi xinh xắn mà đầy đặn dưới cánh mũi hếch cao, khuôn mặt trái xoan sáng sủa không tì vết. "Hắn" hừ một tiếng, nói với vẻ không vui:

- Nếu đã vậy, cớ sao phụ thân còn muốn gả con cho Hoàng đế nhà Minh? Ngộ nhỡ lúc nãy cái tên đại thần nhà Minh đó đồng ý thì làm sao?

Đó là một trong số tám tay thị vệ ở trong lều, khi nãy “hắn” đứng trong bóng khuất nên không ai để ý đến, lúc này nghe “hắn” mở miệng nói chuyện mới nhận ra là con gái. Hoa Đáng hơi ngẩn người, rồi bật cười ha hả ôm lấy vai cô nàng nói:

- Ngân Kỳ, gả con cho triều đình nhà Minh không tốt hay sao? Căn nhà của một tên Bách phu trưởng của bọn bọn còn hoa lệ và rộng rãi hơn đại trướng của chúng ta, tiền bạc của một tên tài chủ bình thường cũng có thể mua hết toàn bộ dê bò của chúng ta. Nếu là Hoàng phi, con thật sự sẽ có một cuộc sống như trên chốn thiên đường đó!

Thiếu nữ hừ một tiếng ra vẻ xem thường rồi đáp:

- Con vẫn không thèm! Chồng của con phải cưỡi được khoái mã, bắn được lợi tiễn, phải là anh hùng tài ba nhất trên thảo nguyên; cho dù phải theo hắn đến tận chân trời góc biển, cực khổ bao nhiêu con cũng không sợ.Nghe nói Hoàng đế nhà Minh muốn đi từ một căn phòng này sang căn phòng khác cũng cần phải có một đám người khiêng đi. Trời ạ, mới chỉ tưởng tượng một chút mà con đã muốn phát điên rồi!

Hoa Đáng và đám người Cách Nhật Lặc Đài, A Khất Mãi nghe thế thì đều cùng cười phá lên...

*****

- Lúc nãy nghe thấy đại nhân phát ra tiếng cười lớn mạt tướng mới yên tâm. Bằng không thì phải chờ lâu như vậy mà không có động tĩnh gì, mạt tướng đã nhịn không được định mang người xông vào rồi.

Hứa Thái vừa vụt roi lên mông ngựa vừa cười ha hả nói.

- Đại nhân, có phải là đã đạt được hiệp nghị với sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ không?

Liễu Bưu cũng phi ngựa lại gần, hào hứng hỏi.

Chiến mã mới vừa vượt qua một triền núi nhỏ. Dương Lăng ghìm ngựa dừng cương, đưa mắt nhìn núi tuyết chói lòa bạc trắng dưới ánh mặt trời sáng rực ở xa xa, rồi đáp:

- Vẫn khó nói! Những kẻ này đều mang tâm lý đầu cơ rất nặng. Mặc dù chúng đã động lòng với những điều kiện do chúng ta hứa hẹn, nhưng nếu muốn bọn chúng dốc lòng làm việc cho chúng ta, e rằng sẽ không dễ dàng như vậy.

Chợt y bật cười nói tiếp:

- Cũng may, mục đích của chúng ta chỉ là muốn bọn chúng trói chân Ngoã Lạt, lại lấy giao dịch buôn bán mà trói chân chúng. Quyết định thắng thua trên chiến trường không thể đặt vào mấy kẻ trở cờ theo gió này, ha ha ha... Khi nãy bản quan bật cười, là bởi vì sứ giả của Hoa Đáng đề nghị hoán thân(3) cùng Đại Minh ta, muốn gả con gái của Hoa Đáng cho Hoàng thượng, sau đó đòi gả ngự muội của đương kim hoàng đế cho Hoa Đáng. Hừ! Đoá Nhan Tam Vệ càng lúc càng không coi ai ra gì rồi!

Đoạn y quay đầu lại, dõi mắt nhìn dãy núi trùng trùng điệp điệp xa xa, ánh mắt loé lên, nghĩ bụng: "Đoá Nhan Tam Vệ sớm đã ôm lòng bất kính, xem ra dụ bọn chúng dính vào vũng nước đục này với Thát Đát là việc làm chính xác. Theo thái độ của Nữ Chân Tam Bộ, xem chừng ra vẫn có thể lợi dụng bọn họ một chút. Nếu mà trận đấu quyền anh không cân sức thì phải giúp bên yếu thế hơn một tay, lúc đó trận đấu mới đặc sắc.”

Hứa Thái nghe xong cũng không nén được giận mà mắng to:

- Hừ! Hoa Đáng là thứ gì mà cũng đòi cưới công chúa Đại Minh ta. Nếu là cung nữ như Vương Chiêu Quân hoặc một người con gái hoàng tộc tầm thường thì còn được. Đại nhân ắt hẳn đã cự tuyệt rồi phải không?

Dương Lăng quay đầu lại, nghiêm mặt răn:

- Hứa Thái, ngươi sai rồi! Đừng nói là công chúa dòng dõi hoàng tộc, cho dù là một dân nữ người Hán hèn mọn nhất, thậm chí là nha hoàn, hầu gái, chúng ta cũng không thể lấy bọn họ ra để mà hoà thân, làm chuyện xỉ nhục quốc thể như vậy được.

Y thúc ngựa, đi tới mấy bước trên triền núi, đón lấy cơn gió núi rít gào cuốn theo bông tuyết lùa tới, hét lớn:

- Hòa thân! Hòa thân! Đó là chuyện xấu hổ nhất trên đời! Cho dù từ xưa đến nay dị tộc có hòa thân, có giao hảo cùng dân Hán ta, thật ra cũng bởi vì thực lực người Hán ta không thể khinh nhờn. Bọn chúng há sẽ vì một nữ nhân mà từ bỏ lòng tham của chính mình?

Tự lừa mình dối người mà đem sự an nguy của giang sơn xã tắc đặt lên trên sự hy sinh hạnh phúc của một người con gái, mặc cho người ta bị phiên bang dị tộc chà đạp, thậm chí làm những việc trái với phong tục Trung Nguyên ta, để cha con anh em luân phiên chà đạp, anh em con cái khác giống đối đãi như súc sinh, còn khéo gọi bằng cái tên mỹ miều là "hoà thân", ăn thì không bằng heo chó, quả thực là nhu nhược đớn hèn chỉ biết nhịn nhục!

Đoạn y quay người, nghiêm mặt lẫm liệt nói với bọn Hứa Thái, Kinh Phật Nhi, Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu rằng:

- Nam nhân nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của người phụ nữ của mình là kẻ không có tiền đồ, dân tộc nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của phụ nữ mình đó là dân tộc không có tương lai.

Chúng ta không chỉ không chấp thuận hoà thân, mà có một ngày sẽ còn đánh vào đại mạc, cướp lại những người phụ nữ người Hán đã bị chúng cướp đi, khiến cho những kẻ rợ tác oai tác quái ức hiếp người Hán đó phải thần phục dưới chân chúng ta! Các ngươi đều là nam nhi anh hùng của người Hán ta, phải biết bảo vệ tôn nghiêm của đàn ông người Hán chúng ta. Các người có làm được không?

Bọn Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì sắc mặt tức thì trở nên nghiêm nghị. Hứa Thái nghiêm mặt ngồi thẳng lưng lên, vừa định mở miệng đáp lời ai dè Lưu Đại Bổng Chùy ở bên cạnh nghe xong máu nóng dâng trào, lập tức vung tay rống lên bằng giọng Lai Dương:

- Đại soại, chụng tôi làm được! Chúng tôi sẹ theo đại soại đạnh giắc Thát, cượp đàn bà, chợi mụ nội nọ! Cạc anh em, cạc người nọi có phại không?

Hơn trăm viên hiệu úy nghe vậy nhất tề vung tay soàn soạt, sát khí đằng đằng hô lớn:

- Đúng! Theo đại soái, đánh giặc Thát, cướp đàn bà, chơi mụ nội nó!

Rặng núi rú gào, tiếng vang ầm ầm vọng lại, tuyết đọng đang tan trên đỉnh đổ xuống ào ào, đập vào trong sơn cốc ùn ùn như tuyết lở.

Dương Lăng nghe xong thiếu chút nữa thì thổ huyết ngã ngựa: "Mụ nội nó, câu này từ miệng Lưu Đại Bổng Chùy thốt ra sao nghe khác quá vậy?"

*****

Hai vạn đại quân của Thái Nguyên trung vệ và Thái Nguyên tả vệ cờ quạt tung bay, chiến mã hí vang, đang cuồn cuộn tiến vào ranh giới huyện Sơn Âm. Lúc này sắc trời đã tối, đương lúc đại quân đang chọn nơi trú đóng, chôn nồi nấu cơm, thì hai viên tiểu hiệu lưng đeo cờ hiệu tín sứ (lính đưa tin - ND) của quân dịch chạy vội chạy vàng vào trong đại trướng (lều lớn) trong quân.

Chỉ huy sứ vệ Thái Nguyên là Trương Dần mỉm cười ôn tồn bảo:

- Hai vị tín sứ đi đường cực khổ, hãy uống tạm chén trà nóng trước đã.

Hai viên tiểu hiệu cung kính thưa:

- Quân vụ trên người, ti chức không dám trì hoãn! Đây là thư hàm về quân tình của Tam quan tổng chế Dương đại nhân, xin chỉ huy sứ đại nhân ký nhận.

Trương Dần liền vội tiếp lấy thư hàm, kiểm tra thấy dấu xi còn nguyên, bèn lấy tướng ấn đóng nhận vào sổ của hai người. Hai người tiểu hiệu cũng không hề uống đến một hớp trà mà lập tức vội vã cáo từ, rời khỏi lều soái rồi lên ngựa đi luôn.

Trương Dần trở về trong lều, bóc thư hàm ra xem dưới ánh đèn. Chính là Dương Nhất Thanh muốn đại quân của hắn dời trại đến đóng ở Quảng Vũ bảo cũ, ở đó đợi lệnh. Trương Dần búng ngón tay lên thư mấy cái, rồi khẽ mỉm cười, căn dặn quan thư ký ghi chép sắp xếp thư hàm lại, sau đó gọi quan trung quân lại bảo:

- Truyền lệnh đêm nay đóng trại ở đây, sáng sớm ngày mai khởi hành đến Quảng Vũ bảo cũ.

Quảng Vũ bảo trong huyện Sơn Âm chia làm hai thành mới và cũ. Thành mới được xây vào năm Hồng Vũ thứ bảy, nằm sát Trường Thành, do một vệ binh mã trú đóng. Quảng Vũ bảo cũ nằm về mé tây thành mới, nằm bên trong Trường Thành, vốn là nơi đóng quân. Quan trung quân nghe xong liền vội lui xuống truyền lệnh, Trương Dần khoát tay cho thân binh lui ra hết, rồi nhón lấy chén trà nhíu mày trầm tư.

Màn sau của lều được vén lên, một viên quan trung quân lặng lẽ bước vào. Trương Dần không hề quay đầu lại, chỉ trầm ngâm thật lâu rồi mới khẽ thở dài nói:

- Bao năm khổ tâm tổ chức, thành bại ở ngay trước mắt, trong lòng ta lại bồn chồn.

Gã quan trung quân nọ ngước đầu lên, không ngờ hắn chính là người áo xanh từng ngồi đối diện uống rượu với Du hộ pháp trên "Thái Bạch cư" ngày đó. Hắn cung kính thưa:

- Giáo chủ! Bản giáo hồng phúc ngang trời, nay Chính Đức thân rơi vào tuyệt cảnh mà không tự biết. Đệ tử thấy lần này hắn có lắp cánh cũng khó mà thoát được.

Trương Dần khẽ lắc đầu, đáp:

- Nghe nói hắn muốn dời đến Báo phòng, lão phu mới kêu người dụ đại đạo Dương Hổ vào kinh, ai ngờ lại uổng mạng Lưu hộ pháp, hai trăm tên đạo tặc cũng bị Dương Lăng hốt trọn một mẻ, Chính Đức lại chẳng hao tổn cọng lông sợi tóc nào. Lúc đến Đại Đồng, Vương Long lại bị y tra ra, hại cho Vương Hổ cùng bị chém đầu...

Hắn mệt mỏi nằm nửa người ra ghế, cười khẽ nói:

- Ngay cả bản giáo chủ cũng đã hơi tin mấy lời hoang đường nọ rồi, chẳng lẽ Dương Lăng này là khắc tinh của bản giáo hay sao? Trong kế hoạch lần này, Vương Hổ có tác dụng cực kỳ quan trọng, hắn mà chết thì sẽ không xong việc. Không có hắn, sợ rằng Chính Đức sẽ an toàn hồi kinh thôi. Ôi!

Ta đã phải trải qua bao trắc trở, tốn biết bao tiền bạc mới đưa hắn lên vị trí tham tướng thủ thành của thành tây, nhằm trông mong có ngày có thể trọng dụng. Nếu như có hắn làm nội ứng ở thành tây, chúng ta dẫn Bá Nhan bất ngờ tập kích nơi hội họp kết minh là núi Bạch Đăng, lại dụ Hỏa Sư đánh vào Đại Đồng, hai bút cùng vẽ, khiến Dương Nhất Thanh giữ chỗ này thì mất chỗ kia, không thể cứu viện kịp thời, ít nhất sẽ có bảy thành thắng lợi. Nay Đại Đồng vững như thành đồng, vậy chỉ có...

Đoạn hắn cười giảo quyệt nói tiếp:

- Cho dù thất bại đi nữa thì hao binh tổn tướng cũng không phải là nhân mã của bản giáo. Chỉ có điều cơ hội tốt đến như vậy mà cứ lãng phí thì thật là đáng tiếc.

Hắn chợt ngước mắt lên, ánh mắt như điện xẹt, bắn thẳng về phía gã quan trung quân nọ, hỏi:

- Con cờ bí mật đó vẫn chưa hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng chứ?

Quan trung quân sợ hãi đáp:

- Dạ chưa! Giáo chủ yên tâm, vì để giữ bí mật, ngoài thuộc hạ ra, người của bản giáo ở Đại Đồng không ai biết được thân phận của hắn cả.

Đan mười ngón tay vào nhau, Trương Dần hài lòng nói:

- Ừ! Dương Nhất Thanh ra lệnh cho ta đóng quân tại chỗ, hẳn là vì Chính Đức đã liên hệ được với Hoa Đáng. Theo kế hôm nay, chỉ có thể lặng lẽ mà quan sát tình hình. Khi nào hai bên gặp mặt ký kết minh ước, vị Dương tổng chế này nhất định sẽ lập tức đưa tin đến cho ta ngay. Trăm sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông mà thôi(4)...

Chú thích:

(1) lệ xưa quân chủ phong kiến Trung Quốc muốn tránh chiến tranh xung đột nên gả con gái cho kẻ cầm đầu các bộ tộc ngoài biên giới để thông hôn hoà hiếu, gọi là "hoà thân".

(2) gọi chung nơi giao dịch với của dân Hán với dân các bộ lạc khác ở biên giới

(3) hai họ cưới con gái nhau làm dâu gọi là "hoán thân".

(4) nguyên văn là “mười tám cái lạy cũng đã lạy cả rồi, giờ chỉ còn thiếu mỗi cái vái sau cùng này thôi”. Đây là ngạn ngữ dân gian Trung Quốc.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.