A Mộc Cổ Lãng sai một vài người già sức yếu đi chăn cừu ở chân núi, còn ông ta thì dẫn theo mười người trong tộc leo lên núi đốn cây, chuẩn bị dựng lại cầu. Lưỡi rìu sắc bén, những tiếng “phập phập” vang lên liên tục, vụn gỗ trắng như tuyết bay tứ tung, ngay đầu mũi là thoang thoảng mùi gỗ tươi mát dịu.
Nhát rìu cuối cùng, một cây tùng xanh cao và thẳng lắc lư vài cái rồi dưới sức đẩy của mấy mục dân, cây gỗ từ từ đổ về phía chân núi. Làn nước trong xanh dưới sông phản chiếu nhìn ảnh cây tùng lắc lư, khi cái bóng biến mất khỏi mặt nước, âm thanh cây bị đổ vang lên, thân cây đã rơi xuống đất, rồi nó lại nẩy mạnh lên một cái. A Mộc Cổ Lãng toét miệng cười rộng, dùng cây rùi ước chừng, chuẩn bị kêu người tới chặt tỉa rồi lôi về phía bờ sông.
Đúng lúc này, ông ta mơ hồ nghe thấy một vài tiếng động, A Mộc Cổ Lãng lập tức ra hiệu cho đám mục dân không được nói cười nữa, nheo mắt nhìn về phía xa. Con sông này rất uốn lượn, dọc theo bờ sông không có những thung lũng thảo nguyên, cũng có những ngọn nũi nhấp nhô nhưng không cao, nhưng ở nơi đây lại hình thành nên một kiểu địa hình nhấp nhô, không có cách nào để có cái nhìn bao quát về phía xa.
Nhưng đợi được một lúc thì ông ta nhìn thấy từ phía miệng núi bay qua một đám mây trắng, chiến mã phi nhanh, áo choàng phấp phới, cả đội quân tinh nhuệ giống như những mũi đao sắc bén, mở những bụi cao xanh lục, hung hăng lao về phía mục dân và bầy cừu.
- Trời ơi! Là Bạch Y Quân! Bọn chúng dám xông đến đây!
A Mộc Cổ Lãng kinh sợ hét lên, giơ cao cây rìu trong tay, sợ hãi hét lên:
- Nhanh! Bạch Y Quân đến rồi, xuống núi, mau đi cứu người trong bộ tộc của chúng ta!
Sau những giây phút bị kinh ngạc, những mục dân đã phản ứng lại, nhanh chóng rút đao và thương, kêu gào và xông thẳng xuống núi.
Bầy cừu bị hoảng sợ chạy toán loạn giống như những đám mây trắng bị gió thổi đi khắp nơi. Những mục dân chính là những người lính trời sinh, họ đã cầm đao và giương thương sẵn sàng nghênh đón Bạch Y Quân đang xông tới đây. Những con cừu kia chính là lương thực mùa đông năm nay của họ, là toàn bộ tài sản của họ, nếu như chúng bị cướp đi vậy thì kết cục cuối cùng của họ vẫn sẽ là thảm cảnh chết đói chết lạnh hoặc là đời đời kiếp kiếp phải làm nô lệ, cho nên đây chính là cuộc chiến sinh tồn của họ.
Nhưng mà, mặc dù họ đã có sự chuẩn bị từ trước thì cũng không thể chống lại một đội quan hùng mạnh và tàn ác như Bạch Y Quân, chứ đừng nói là nhất thời ứng chiến, bởi binh lính quá ít. Chiến mã của Bạch Y Quân không dừng vó, một khắc cũng không do dự, chúng giống như một con mãnh hổ xông vào bầy dê, điên cuồng chém giết mục dân.
Con chó chăn cừu sủa ầm ĩ, dưới sự điều khiển của chủ nhân, nó hướng về những con quái vật to lớn ngồi trên lưng ngựa sủa inh ỏi. Số lượng khoái mã xông về phía trước quá đông, một thanh trường thương hướng về phía con chó, “phập” một tiếng, không chút do dự thanh trường thương đã đâm xuyên qua bụng con chó, sau đó kéo dài cây thương trên mặt đất, móc thương lôi con chó đi khoảng mấy trượng. Khi một mục dân giơ thanh loan đao lên, thúc ngựa điên cuồng đến, thì cây thương đó đã được giương lên, mang theo những giọt máu tươi, và người này cũng giống như con chó vừa rồi, bị kéo lê trên mặt đất.
Bạch Y mã tặc danh chấn quan ngoại quả là danh bất hư truyền. Tất cả những nơi mà chúng đi qua thì người ngã ngựa đổ, không ngớt tiếng người kêu la, tru tréo thảm thiết rồi ngã đè lên ngựa. Bọn mã tặc đối phó với đám mục dân bị phân tán này thì quá dễ dàng, thế tấn công như nước chảy mây trôi, không chút khó khăn gì.
Một đứa bé hai mắt đỏ lên giơ cao cây thương có dây tua, phải ba năm nữa, mà cũng có thể là chỉ hai năm thôi là thằng bé có thể trở thành một người lính nhưng hiện tại hai cánh tay của nó vẫn chưa đủ cứng chắc, lực vẫn còn yếu, còn tên thủ lĩnh Bạch Y Quân, mặt mày dữ tợn râu ria xồm xoàm, mắt báo trợn ngược giơ cây thương lên đạp mạnh vào cây trường mâu trong tay nó và hất tung ra xa, thuận thế đâm mạnh cây thương xuyên qua vai nó khiến máu bắn tung tóe. Thằng bé ngã luôn xuống đất, đứa trẻ Ngõa Lạt đó chết mà không kịp kêu lên một tiếng, cả người bị chém thành hai mảnh rồi rơi xuống đất, máu đỏ phun vào không trung.
A Mộc Cổ Lãng phẫn nộ chửi mắng, hai mắt đỏ ngầu lên. Đứa bé đó chính là cháu của ông ta, là nam đinh duy nhất trong gia tộc của ông ta. Ông ta vội vàng bước nanh, khoảng cách vẫn còn rất xa nhưng ông ta đã ném bay cây rìu trong tay. Cây rìu bay trong không trung vẽ lên một đường con mang theo những tiếng vèo vèo hung hăng bổ trúng vào đầu một binh lính Bạch Y Quân.
Thi thể rơi ầm xuống đất, A Mộc Cổ Lang chạy về trước vài bước định nhặt thanh mã đao của ông, cướp lại con ngựa của ông nhưng một tên lính Bạch Y Quân liền xông tới, khuôn mặt bị che kín chỉ để lộ ra đôi mắt đằng đằng sát khí, một thanh trường thương sắc nhọn giống như một con rắn độc đang thè lưỡi, đâm mạnh vào bụng của A Mộc Cổ Lãng, ông ta kêu lên một tiếng thảm thiết rồi ngã xuống đất.
Mấy mục dân theo sau ông vừa mới từ trên núi xuống liền xông lên cứu viện. Đám kỵ sĩ trên ngựa cầm chắc cương thúc ngựa xông lên, trường thương vừa phóng ra thì ngực của hai người mục dân liền xuất hiện hai lỗ thủng, máu tươi bắn tung tóe, hai người họ lảo đảo vài cái rồi ngã xuống, đè lên người của A Mộc Cổ Lãng. Thủ lĩnh Bạch Y Quân che mặt kia cúi người xuống, rồi nhấc chiến sĩ Bạch Y Quân sắp bị đánh chết lên lưng ngựa, quất ngựa rời đi.
Một mục dân người Ngõa Lạt ôm ngực thảm thiết gào lên leo lên lưng ngựa, máu chảy ròng ròng qua những ngón tay. Bạch Y Quân tấn công quá hoàn mỹ, đám mục dân ở dưới núi cơ bản đã bị giải quyết xong, chiến mã của bọn chúng vẽ thành một đường cong hoàn mỹ rồi quay trở lại. Nhìn thấy thảm cảnh đang xảy ra trước mắt, những người mục dân liền đứt ruột từ bỏ tài sản duy nhất của họ - đàn cừu, hai mắt rưng rưng chạy lên trên núi.
Bạch Y Quân ở phía sau không hề thúc ngựa đuổi theo lên núi, mà chuyển sang bắn tên, coi những mục dân kia là những mục tiêu sống, tiễn pháp chuẩn xác, hạ gục từng người từng người một cho đến khi số người chạy trốn được vào trong rừng sâu chưa đến mười người.
Bạch Y Quân bắt đầu hạ lệnh thu hồi đội ngũ, thương thế của bọn chúng chẳng đáng nói. Dưới sự chứng kiến của của mục dân Ngõa Lạt, bọn chúng nghiêm túc điều chỉnh lại đội hình sau đó lùa đàn dê cừu hướng về phía miệng núi. Những người mục dân nấp trong rừng tùng chỉ biết cắn răng nghiến lợi, dùng hai con mắt nảy lửa nhìn đám cường đạo đáng chết, chúng còn độc ác hơn cả họ.
Đi được mười mấy dặm, một người kéo tấm khăn che mặt xuống. Đó là một người Hán, trên mặt gã còn vương một nụ cười nhạt và nói:
- Tháp Lạp đại nhân, người của ngài quá dũng mãnh, người của bộ tộc Ngõa Lạt quả thực là không đỡ được một đòn!
- Ha ha
Người đàn ông mắt báo kia cười lớn, cũng kéo chiếc khăn che mặt xuống. Y chính là một thiên phu trường thuộc hạ của Bá Nhan Mãnh Khả. Tháp Lạp cười nói:
- Cũng là nhờ vào ngươi cả! Nếu như không phải mấy người đã cho tôi những thông tin này, chúng tôi còn không biết nơi đây còn có một bộ tộc Ngõa Lạt bị nước sông ngăn cách, không hể quay về doanh địa.
- Đúng vậy, đúng vậy, Bản Thăng của chúng tôi may mà có được sự bảo vệ, che chở của những vị anh hùng dũng cảm của Khả Hãn giống như ngài đây, về lý chúng tôi nên cống hiến sức lực vì Khả Hãn. Nhưng …. Không biết đám dê cừu này, chúng tôi sẽ được chia bao nhiêu đây?
Tháp Lạp cười đáp lại:
- Chúng ta vẫn nên nhanh chóng đi đến thượng du sông lớn, xem xem còn phát hiện được bộ tộc Ngõa Lạt nào nữa không. Đám dê cừu này không thể nào đem về được, nếu như ngài muốn, tôi có thể cho ngài tất cả.
Người nọ mừng rỡ, nhưng ngay lập tức trên mặt hiện lên sự khó khăn:
- Đa tạ sự khẳng khái của Tháp Lạp đại nhân, nhưng …. Chúng tôi đến đây cũng chỉ có hơn mười người, phải chăm sóc một đàn dê cừu lớn như vậy, khi di chuyển đúng là có nhiều bất tiện.
Y nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi khuôn mặt dịu đi, cười nói:
- Không sao, nước sông đột nhiên dâng cao, người ở bên đó không thể nào nhanh như vậy mà qua đây tìm người trong bộ lạc của chúng. Tướng quân Tháp Lạp nếu như đã muốn đi ngược lên thượng nguồn, đi tìm đám người Ngõa Lạt đáng chết, vậy thì càng không có ai đuổi về phía này nữa. Cảm ơn Tháp Lạp đại nhân, chủ thành của chúng tôi nhất định sẽ cảm thấy mừng rỡ vì sự khẳng khái của ngài.
- Đại Lương Ca, tướng quân Tháp Lạp muốn tặng hết số dê cừu này cho chúng ta hay sao?
Một người đứng bên cạnh y kéo tấm khăn che mặt xuống, vui mừng quay sang hỏi y.
- Đúng vậy, để ý đến bầy dê cừu, không được làm lỡ hành trình của Tháp Lạp đại nhân!
Đại Lương Ca hạ lệnh xong, lại quay sang cười nói với Tháp Lạp:
- Vậy thì …. Chúng tôi quay về đây. Sau khi Tháp Lạp tướng quân chiến thắng trở về, nhất định phải đến hành Bản Thăng của chúng tôi làm khách đó, chủ thành của chúng tôi vừa mới kiếm được vài cô em xinh tươi, có cả mỹ nhân của Tây Vực, cô nương của Giang Nam, còn có cả nữ nhân Đông Doanh dịu dàng, biết cách chăm sóc….
Tháp Lạp cười cười:
- Ừ! Ta nhất định sẽ đến đó tận hưởng những cảm giác mới mẻ đỏ! Mọi người cũng nên lên đường đi thôi!
- Được! Được! Đa tạ Tháp Lạp đại nhân! Các huynh đệ, lùa đàn dê cừu, chúng ta …
Phâp! Một lưỡi đao sắc nhọn đâm mạn vào cơ thể, Đại Lương Ca kinh ngạc quay đầu lại nhìn Tháp Lạp nhưng Tháp Lạp lại không để ý thản nhiên rút mã đao máu chảy đầm đìa ra khỏi người y rồi cười cười với y, nụ cười thân thiết như đang cười với người huynh đệ của mình, nhưng lại lạnh lẽo đầy sát ý:
- Giết!
Đầu của Đại Lương Ca cùng với máu me be bét bay vào không trung. Người Thát Đát đột nhiên động thủ, dường như bọn họ sớm đã nhận được mệnh lệnh, mấy tên người Hán Bản Thăng ở bên cạnh chưa kịp chuẩn bị, gần như là không kịp phản kháng lại, sau đó thì từng người từng người ngã xuống đất.
- Mau! Chôn sống bọn chúng, chôn nông một chút, để chó săn của người Ngõa Lạt ngửi thấy mùi của chúng!
Tháp Lạp cười lạnh, bí mật ra lệnh:
- Nhân chứng, vật chứng đều có đủ, khi người Ngõa Lạt phát hiện ra những người Hán mặc áo bào trắng, chúng ta sẽ có thể uống rượu sữa, thoải mái thưởng thức vở kịch mang tên “lưỡng hổ tương tranh”, mà bọn chúng chuẩn bị và diễn cho chúng ta xem, ha ha!