Đinh Nhất nghe tôi hỏi về chú Lê và La Hải thì lắc đầu, nói: “Không biết, chắc hai người đó vẫn bị vây trong màn sương mù dày đặc này, cậu không cần lo lắng cho hai người họ đâu, định lực của ai cũng tốt hơn cậu nhiều, chỉ cần liếc mắt cũng có thể nhìn thấu2được ảo cảnh.”
Tôi khẽ gật đầu, lòng vẫn còn sợ hãi nhìn xung quanh, sợ trong bóng tối lại nhảy ra thứ quái vật nào đó!
Thấy đám sương mù trước mặt khó mà tản đi được, tôi lo lắng hỏi Đinh Nhất: “Vậy giờ phải làm gì? Tiếp tục ở yên tại chỗ? Hay là đi tìm họ?”
Đinh Nhất5trầm tư một lúc rồi nói: “Chắc họ không cách chúng ta quá xa, thứ sương mù này đơn giản chỉ là chút thủ thuật che mắt, chắc hẳn sư phụ tôi sẽ có cách.”
Đúng như anh ta nói, mười mấy phút sau, chúng tôi nghe thấy trong màn sương mù dày đặc vang lên chuỗi âm thanh thanh6thúy của chuông đồng. Đinh Nhất vui mừng nói: “Là sư phụ đấy! Ông ấy rung chuông để chúng ta đi tìm!”
Vừa rồi tôi còn ngơ ngơ ngác ngác, nhưng khi tiếng chuông này vang lên, trong lòng tôi lập tức có cảm giác sáng suốt. Tôi và Đinh Nhất cùng đi theo tiếng chuông, khi chúng tôi cách5tiếng chuông ngày càng gần, thì sương mù xung quanh cũng ngày càng mỏng đi.
Cuối cùng chúng tôi thấy chú Lê đang ngồi trên mặt đất, phía sau ông ấy là La Hải đang đứng như ông thần giữ cửa.
“Chú Lê! Anh Hải!” Tôi mừng rỡ gọi to.
Chú Lê nghe thấy tiếng của tôi thì lập tức mở mắt,3trên gương mặt chú thể hiện rõ sự nhẹ nhõm. La Hải thấy hai chúng tôi cũng vui mừng: “Hai tên nhóc các cậu cuối cùng cũng tới rồi, các cậu có biết chúng tôi ở ở đây rung chuông tỉnh hồn bao lâu rồi không?”
Tôi không trả lời La Hải mà hỏi lại anh ấy: “Anh Hải, anh có thể chứng minh mình thật sự là anh Hải không?”
La Hải bị tôi hỏi như vậy thì ngớ người ra, anh ấy nhìn sang Đinh Nhất và nói: “Thằng nhóc này uống nhầm thuốc à?”
Đinh Nhất đành phải kể cho anh ấy nghe chuyện tôi vừa gặp phải, La Hải nghe xong cũng rất ngạc nhiên: “Bên trong cái hầm mỏ cũ này đúng là kỳ quái thật đấy!”
Bây giờ chú Lê từ dưới đất đứng lên, chú phủi bụi bám trên người, sau đó ngẩng đầu nói với chúng tôi: “Không sao là tốt rồi, vừa rồi chỉ là một con quỷ nhỏ trong Bách đồng trận trêu chọc hai đứa chứ không ra tay tàn độc. Tục ngữ có câu, Diêm Vương dễ chọc, tiểu quỷ khó chơi, đặc biệt là những anh linh mới đầy tháng này, oán khí của chúng càng sâu, may mà vừa rồi nó không định đưa hai đứa vào chỗ chết, không thì phiền to!”
Tôi nghe mà trong lòng thấy sợ hãi, chỉ một con quỷ nhỏ mà đã lợi hại như vậy, nếu cả trăm con quỷ nhỏ cùng tấn công thì chẳng phải chúng tôi đi đời nhà ma hết à?
Chú Lê thấy tôi lo lắng thì vỗ vai và nói: “Cháu cũng đừng lo lắng quá, còn may kẻ mà đám quỷ nhỏ này hận nhất không phải là chúng ta, cho nên bọn chúng tạm thời sẽ không đối phó với chúng ta đâu phải không?”
Tôi thắc mắc, hỏi: “Ý chú là, kẻ bọn chúng hận nhất là người Nhật Bản?”
Chú Lê gật đầu: “Tất nhiên! Anh linh thù rất dai, bọn chúng biết rõ ai là người đã giết mình và mẹ mình, lúc trước chúng bị cao nhân trong đám người Nhật dùng bí thuật thao túng nên không thể không nghe theo sự chỉ huy của người Nhật, trấn giữ những oan hồn đám thợ mỏ ở nơi này. Nhưng những phương pháp mà đám người Nhật kia dùng trong năm đó giờ đã bị phá vỡ, những con quỷ nhỏ này không có ai quản thúc nữa nên đi lang thang xung quanh những con đường bên trong căn hầm mỏ vừa cũ vừa tối này. Một khi có người sống đi vào, những đứa trẻ này sẽ muốn đùa nghịch, chỉ cần người đi vào không nói tiếng Nhật thì chắc hẳn sẽ không khuấy động sự giận dữ của chúng.”
Nghe chú Lê nói xong, tôi quay ra nói to với bốn phía xung quanh: “Các bạn nhỏ, mấy anh và chú này đến đây là vì muốn tìm các chú thợ mỏ bị gặp nạn, các bạn ngoan ngoãn đừng quấy rối nhé, đợi sau khi chúng tôi làm việc xong sẽ mua cho các bạn đồ chơi và thức ăn ngon!”
Đinh Nhất vội ngăn cản tôi: “Đừng hứa hẹn lung tung với oán linh!”
Nhưng chú Lê lại xua tay và nói: “Không sao, xong việc cũng phải nghĩ cách siêu độ cho những anh linh này, nếu không thêm mấy năm nữa thì đừng nói đến chuyện chuyển thế đầu thai, chỉ sợ ngay cả hồn phách cũng tan thành mây khói!”
La Hải thở dài: “Có thể giúp siêu độ những anh linh này cũng là một việc tích công đức đấy, nghe nói sau vụ thảm sát ở Nam Kinh, có hơn trăm vị cao tăng cùng đến niệm kinh siêu độ bảy bảy bốn mươi chín ngày, mới xem như siêu độ hết cho những vong hồn chết oan kia…”
Chú Lê nhìn xung quanh một lúc rồi nói: “Được rồi, chuyện đấy để nói sau, giờ chúng ta phải tiếp tục đi về phía trước giải quyết cái thứ quái vật ăn người kia mới là việc khẩn cấp trước mắt!” Thế là mấy người chúng tôi lại vội vội vàng vàng tiếp tục đi sâu vào bên trong hầm mỏ cũ này.
Vì có chuyện vừa rồi nên tôi nói nhiều hơn, sợ sơ ý một cái là lại bị tách ra khỏi họ. Khi tôi nói đến đoạn vừa nãy suýt nữa đã nổ súng thì thấy La Hải chế giễu: “Cậu á? Còn nói nổ súng? Cậu có biết mở chốt an toàn như thế nào không?”
Tôi không phục: “Anh đang coi thường em đấy à? Em không bắn được kẻ địch thì cũng gây ra được tiếng động nhé!”
Đang nói tới đây, đột nhiên tôi có cảm giác mình vấp phải cái gì đó, cả cơ thể của tôi nhào về phía trước. May mà Đinh Nhất đi ngay phía trước nên kịp thời quay người lại dùng một tay đỡ lấy tôi, nhờ thế tôi mới không bị ngã dập mặt.
Sau khi anh ta đỡ được tôi, tôi cúi đầu xuống nhìn thì phát hiện thứ vừa rồi mình bị vấp chân vào là xác một đứa trẻ được bọc bằng vải trắng. Nhìn thi thể nho nhỏ bị ngâm dưới đất bùn đen, tôi có cảm giác không đành lòng nên đưa tay bế nó lên rồi đặt ở một chỗ khô thoáng cạnh đấy, sau đó tôi nói: “Người bạn nhỏ, xin lỗi vừa rồi anh không nhìn thấy em, em đợi ở đây đã nhé, chờ khi bọn anh làm xong việc sẽ nghĩ cách để cứu các em ra ngoài…”
Sau khi đặt xác đứa trẻ ngay ngắn rồi, tôi mới đột nhiên nhớ ra một chuyện nên xoay người lại hỏi chú Lê: “Vì sao cháu lại không cảm giác được ký ức của những đứa trẻ này khi còn sống?”
Chú Lê thở dài: “Bởi vì chúng chết khi còn quá nhỏ nên chưa thể có ký ức gì được, ngay cả hình dáng mẹ mình thế nào cũng không nhớ rõ…”
“Vậy tại sao chúng nó lại nhớ bản thân bị người Nhật Bản sát hại?” Tôi cảm thấy nghi ngờ về điểm này.
Chú Lê nói với vẻ bất đắc dĩ: “Những ký ức này là ký ức của hồn phách sau khi chết, cho nên cháu không thể cảm nhận được cái gì trên thi thể của chúng đâu.”
Tôi ồ lên một tiếng rồi không hỏi gì nữa, chỉ yên lặng quay lại nhìn thoáng qua, hi vọng những đứa trẻ này có thể phù hộ cho chúng tôi cuối cùng được bình an ra ngoài…
Sau đó trên đường đi tôi luôn cẩn thận quan sát dưới chân, nếu lại bắt gặp có xác trẻ con nằm trong bùn lầy, tôi sẽ đem bọn chúng chuyển tạm ra chỗ khô thoáng hơn, để chúng không bị ngâm trong thứ bẩn thỉu này nữa.
Không biết chúng tôi đi sâu vào bên trong được bao lâu, mãi cho đến khi tôi cảm giác nhiệt độ xung quanh ngày càng cao lên, thì trong đầu tôi bắt đầu vang lên những tiếng ong ong…