Sau khi tia sáng cuối cùng nơi đường chân trời bị bóng tối nuốt chửng, tâm trạng của Trần Du cũng rơi xuống vực sâu. Cô ta ngơ ngẩn sinh ra một loại ảo giác. Mùa này vốn dĩ trời phải tối muộn, sao hôm nay mặt trời lại lạnh sớm như vậy chứ?
Mây đen che khuất một khoảng lớn ánh trăng.
Hắt một cái bóng đèn đen xì, khổng lồ bao trùm cả phủ Thân vương.
Nổi gió rồi.
Cơn gió dữ như đạp đất xông lên, âm u nặng nề như đè thẳng lên đầu người ta. Gió thổi làm lá cờ gọi hồn bay lơ lửng khắp bốn phía. Trên linh đường vang lên những tiếng rít liên hồi, xen lẫn với những tiếng nức nở của gió, giống như tiếng khóc của oan hồn.
Chậu lửa có mấy bận suýt nữa thì lửa bắn tứ phía. Trần Du vội vàng giữ vững ngọn lửa, nhưng hương trên lò hương lại có nguy cơ bị tắt. Cô ta lại vội vàng chăm sóc lửa hương.
Lúc dứng dậy, cô ta va phải một trong số những người giấy bên cạnh. Người giấy mỏng manh lắc lư vài cái. Trần Du nhanh tay lẹ chân giữ chặt lại và dựng thẳng lên trước khi phần đầu kịp đổ xuống chậu lửa. Sau đó, cô ta nhìn vào bức di ảnh của Thương Xuyên, lẩm bẩm vẻ căng thẳng: “Tôi chỉ không cẩn thận thôi, đừng trách, đừng trách.”
Sau lưng lại có một cơn gió âm u xuyên qua linh đường. Trần Du cảm thấy như rắn lạnh quấn chặt lấy cô tay, sống lưng đột ngột lạnh toát. Hai ngọn nến hai bên bị kéo đung đưa sang hai bên trái phải, khiến cho gương mặt trên bức ảnh lúc sáng lúc tối, trên đỉnh đầu là lưới dây đỏ Hạ Trú đã bố trí xong xuôi, bên trên treo lơ lửng rất nhiều bùa số mệnh và những chiếc chuông cực nhỏ.
Loại chuông này giống như được đặt làm riêng. Khi gió thổi qua, chuông sẽ phát ra những âm thanh rất nhỏ, hòa trộn vào nhau không khác gì chuông gió.
Âm thanh này mà nghe vào ban ngày ắt sẽ cảm thấy lanh lảnh vui tai. Nhưng vào buổi tối, lại ở ngay tại một linh đường mà người ta dự định sẽ dùng để gọi hồn, những tiếng chuông vụn vặt này sẽ khiến cô ta cảm thấy như đang có người nào đó niệm thần chú. Nhưng linh hồn đã chết tại phủ Thân vương đều đang bị âm thanh này gọi tới, bay là đà trên đỉnh đầu cô ta.
Cô ta là người phàm, không nhìn thấy họ. Họ là những hồn ma, họ đang nhìn cô ta chằm chằm với những mưu mô chước quỷ.
Ngay cả người giấy đó dường như cũng đã thay đổi hình dáng, thật sự linh hoạt sống động y hệt như trong bài báo của Vương Truyền. Con ngươi dường như đang động đậy, tuy rằng Hạ Trú đã sớm nói rõ với cô ta rằng người giấy đó từng bị Hạ Trú động chân động tay.
Trần Du lí nhí gọi Hạ Trú, cho dù Hạ Trú đáp lại cô ta một tiếng thôi cũng được. Nhưng trời vừa nhá nhem tối, Hạ Trú đã vào ngồi rịt trong phòng nghỉ phía sau sân khấu, bất động cứ như bị đóng đinh vào đó vậy.
Quan tài được đặt trong phòng nghỉ. Hạ Trú cứ thế ngồi bên cạnh canh chừng. Trần Du tuy rằng không nhìn thấy thi thể, nhưng một mùi dược thảo từ trong quan tài tỏa ra thì vẫn có thể ngửi thấy rõ.
Là loại thuốc viên chống phân hủy theo phương pháp cổ xưa nhất, có thể bảo đảm thịt trên cơ thể người chết không bị thối rữa. Một viên chống phân hủy được chế tạo một cách tỉ mỉ nhất thậm chí có thể giữ có xác chết tươi suốt ngàn năm, đương nhiên, công thức và tay nghề điều chế là cực kỳ quan trọng. Còn phương pháp chống phân hủy xác của người hiện đại là trực tiếp dùng Formalin. Nhưng mùi đó rất nhức mũi. Hơn nữa trong mắt của những nhà phân tích mùi hương cực kỳ chuyên nghiệp, đó là hành động không tôn trọng người chết.
Cô ta nghĩ, Hạ Trú đảm bảo là cũng có suy nghĩ này, nên một người giỏi về mùi hương như Hạ Trú mới không thèm dùng Formalin.
Cô ta chỉ có thể loáng thoáng ngửi được trong loại dược thảo này có các mùi của mộc lan hoa, sơn chỉ, hương ma, rễ Phật thủ, đỗ hành, lan trạch… Trong số này còn xen lẫn những mùi hương phức tạp mà cô ta không thể phân biệt được, thế nên không thể phán đoán được công thức cụ thể tạo ra loại viên chống phân hủy này.
Nghĩ như vậy, cô ta cũng chân thành khâm phục Hạ Trú, tinh thông cổ pháp, các điển tích về mùi hương đều không có cái nào làm khó được cô.
Trên quan tài có quấn lụa trắng, trên lụa trắng có vẽ bùa. Hạ Trú ngồi trên chiếc đệm hương bồ, quần áo trên người chỉ độc một màu trắng, cổ tay rộng, trên cổ tay áo có vẽ hình con thằn lằn, đuôi của nó cứ thế men dần tới tận cổ vai áo. Bên dưới cổ áo lần lượt có sáu sợi dây đai lơ lửng, trên dây đai có thêu hình chim nhiều màu.
Xung quanh quan tài châm 12 cây nến đối nhau, màu trắng. Có đường rạch khía trên bìa, trong đường rạch có màu đỏ của chu sa, thoạt nhìn trông giống một lá bùa máu.
Khi nến cháy cũng có mùi thơm, cũng chẳng biết là vì trong nến được trộn lẫn dầu có dược thảo hay chỉ đơn thuần là mùi của quan tài.
Nghe thấy tiếng của Trần Du, mắt Hạ Trú không buồn chớp lấy một cái, hỏi ngay: “Cô sợ à?”
Trần Du cũng không muốn thừa nhận mình sợ hãi, nhưng đây cũng đích thực là sự thật. Cô ta hắng giọng: “Tôi không tin cô thật sự có thể gọi hồn ma về! Mấy trò mê tín dị đoan này mà cô cũng làm được!”
“Các cụ nói con người ta có ba hồn bảy vía. Linh hồn nằm trong cơ thể con người. Khi xác thịt chết đi, linh hồn sẽ đánh mất nơi nương tựa, phiêu diêu khắp nơi. Thứ cô cho là mê tín, từ đời nhà Chu đã tồn tại rồi. Có thể trường sinh chắc chắn có đạo lý sinh tồn của nó. Có thể gọi hồn người sống thì cũng có cách gọi hồn người chết.” Hạ Trú chậm rãi nói: “Phàm là những người chết oan âm hồn đều sẽ không tán. Tôi và Thương Xuyên quen biết nhau từ lâu, dĩ nhiên không thể để cậu ấy chết trong oan uổng.”
Trần Du hừ khinh bỉ.
Hạ Trú lại một lần nữa nhập tâm vào vai diễn của mình, chẳng biết miệng đang lẩm bẩm cái gì. Nhìn từ góc của Trần Du, cảm thấy hơi đáng sợ.
“Này, ở Thương Lăng cô cũng giả thần giả quỷ thế này sao?”
Lần này Hạ Trú không đáp lại cô ta.
Trần Du bị tảng lờ, nhưng cũng không muốn trở về phía trước, đối mặt với một bức di ảnh khiến người ta lo lắng hãi hùng, bèn hắng giọng nói: “Có thể dạy tôi làm viên chống phân hủy không? Nể tình tôi lần này không có công lao, cũng có khổ lao.”
“Cô không làm nổi đâu.” Hạ Trú buông một câu.
“Vì sao chứ?”
“Phàm là việc điều chế thuốc hay mùi hương theo cách cổ xưa, ngoài việc mất rất nhiều thời gian ra thì việc lựa chọn nguyên liệu cũng vô cùng tỉ mỉ. Trong đó có một loại nguyên liệu là máu của cá voi xanh. Máu bắt buộc phải được lấy trong vòng hai tiếng sau khi con cá voi đó tử mạng, nếu không sẽ không có tác dụng. Hơn nữa con cá voi đó còn không thể là chết tự nhiên hay bị con người săn bắt, nhất định phải chết sau khi tương tàn cùng đồng loại, máu của một con cá voi như vậy mới giữ được sự sục sôi. Cho dù cô may mắn gặp được đúng con cá voi xanh chết theo cách này cũng chưa chắc đã thuận lợi giành được máu của nó. Bởi vì cá voi xanh vừa chết, ngoài việc sẽ thu hút các con kên kên trên biển ra, thì những con cá mập khổng lồ trong vòng vài chục dặm quanh đó cũng sẽ ngửi mùi máu mà đến. Một khi cô đứng giữa vòng vây của cá mập thì khó mà thoát thân. Mười người đi, chín người chết. Cô nghĩ liệu cô có thể trở thành người sống sót duy nhất, lại có thể lấy được máu trong vòng hai tiếng đồng hồ sao?”
Nghe xong, đầu óc Trần Du tê dại từng cơn: “Cô cố tình chém phải không? Khó lấy như vậy làm sao cô còn có thể giành về được?”
Hạ Trú cười khẩy: “Thì cứ cho rằng tôi là người duy nhất đó đi, có lẽ lúc đó đám cá mập đã ăn no rồi chẳng buồn để ý tới tôi. Nhưng tôi may mắn không có nghĩa là cô cũng may mắn như vậy. Lỡ như cô gặp phải một con cá mập ăn tươi nuốt sống không kiểm soát thì sao? Hơn nữa, cô bị tôi kéo đến đây là để chuộc tội, trả ơn, khổ lao ở đâu ra? Chuyện cô ăn trộm sổ tay của tôi, tôi không muốn bỏ qua thì nó không bao giờ được xóa nhòa. Tối hôm đó ở quán bar, không có tôi thì cô toi đời rồi, đúng không? Cứ tạm gác việc tôi cứu cô một mạng qua một bên, chỉ nói riêng Thai Nghiệp Phàm thôi, không có tôi, cô cũng chẳng quen được anh ta.”
Trần Du chẳng buồn tiếp tục nghe cô giương oai diễu võ thêm nữa, quay ngoắt đầu bỏ đi, thà ra phía trước chịu chút sợ hãi còn hơn.
Khi trăng lên cao sáng vằng vặc là lúc Hạ Trú ra ngoài.
Cô đứng trên sân khấu, hướng thẳng lên bầu trời đêm, múa một kiểu động tác mà Trần Du nhìn không hiểu, nói là giống vũ đạo thì không giống mà giống một phù thủy đang nói chuyện với ma quỷ thì hơn.
Gió đêm lại nổi lên, nhất đời mây đen che khuất ánh trăng, sức gió mạnh toát ra nhiệt độ lạnh lẽo, có dấu hiệu của một cơn mưa sắp ập xuống. Trần Du ngồi bên cạnh chậu lửa, hai tay run rẩy, nhất thời không dám ngẩng đầu lên nhìn Hạ Trú, chỉ cúi gằm ra sức ném tiền giấy và vàng khối vào trong chậu, miệng lẩm bẩm: “Nếu anh thật sự quay lại cũng đừng tìm tôi nhé, tôi chẳng liên quan gì tới chuyện này cả…”
Bỗng nhiên, bầu trời vụt sáng, ngay sau đó một loạt những tiếng rền vang từ phía đường chân trời dội lại, một giây sau đột ngột nổ tung, gần như có thể làm rung chuyển cả phủ Thân vương.
Trần Du vốn dĩ đã căng thẳng, bị một tiếng nổ như vậy đe dọa lại càng sợ hãi hơn. Cô ta đứng bật dậy theo phản xạ, nhưng không ngờ vừa đứng lên, còn chưa vững đã có một bàn tay từ đâu giữ chặt bả vai, cất giọng trầm trầm: “Tiền còn chưa đốt hết cơ mà, chạy đi như vậy không hay lắm thì phải?”
Trần Du hết hồn hết vía, sợi dây căng chặt trong lòng cuối cùng đứt phứt. Cô ta lập tức ngã khuỵu xuống đất, hai tay bịt chặt hai tai gào lên hoảng hốt: “Tưởng Ly! Ma! Ma bị cô gọi hồn tới đây rồi!”
Cô ta vừa dứt lời thì một tia chớp lóe lên, giống như bầu trời bị bổ đôi tạo thành một cái hố vậy, mưa lớn ào ào trút xuống.
Hạ Trú dừng động tác lại, quay đầu nhìn. Là Nhiêu Tôn.
Anh ấy đứng bên cạnh Trần Du, biểu cảm câm nín. Có lẽ anh ấy vừa đi lên sân khấu kịch bằng đường cửa ngách. Nếu là bình thường, người đứng ở phía bên cạnh sân khấu sẽ có thể nhìn thấy, nhưng hôm nay hai bên sân khấu đều được che kín mít, nên việc anh cứ lẳng lặng xuất hiện như thế này quả thực rất dọa người.
Nhiêu Tôn được hời còn tỏ vẻ: “Em tìm một trợ thủ như thế này không ổn rồi, có thể giúp gì được cho em chứ?”
Đối với sự “ghé thăm” của anh ấy, Hạ Trú không sửng sốt cũng chẳng mừng rỡ, không bực bội cũng chẳng phẫn nộ. Cô tiến lên, thản nhiên nói một câu: “Đúng là phòng người, phòng ma, quên phòng anh.”
Sau đó cô giơ tay vỗ về Trần Du.
Trần Du như con đà điểu, vùi mặt vào cánh tay không hé một chút ánh sáng nào. Cảm thấy có người vỗ vai mình, cô ta lại réo rắt loạn cào cào một hồi. Hạ Trú kéo tay cô ta ra, ra hiệu cho cô ta nhìn lên: “Là người đó!”
Trần Du dè dặt ngước nhìn lên. Thấy vậy, Nhiêu Tôn cũng tỏ ra ngượng ngập vài phần. Anh ấy ho khẽ mấy tiếng: “Thật ngại quá, ban nãy tôi không cố ý đâu.”
Nhiêu Tôn không nói thì thôi, vừa nói xong câu ấy đã trở thành kíp nổ, lập tức chọc giận Trần Du. Cô ta đứng bật dậy, lao về phía anh ấy, gào ầm ĩ, mặc kệ việc hai người họ vẫn chỉ là người xa lạ: “Anh bị bệnh à? Tôi thân thuộc với anh lắm sao mà dọa tôi như vậy?”
Nhiêu Tôn bị sặc, sắc mặt càng gượng gạo hơn. Anh ấy nhìn về phía Hạ Trú: “Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.”
Trần Du làm mặt không thoải mái. Hạ Trú cũng chẳng buồn để ý tới thái độ nắng mưa thất thường đó. Cô hiểu anh ấy, kiêu ngạo thì kiêu ngạo đấy, nhưng trở mặt cãi nhau với con gái là việc Nhiêu Tôn không thèm làm. Thế nên cô vốn không lo sau khi Trần Du chỉ thẳng vào mũi anh ấy chửi mắng, anh ấy sẽ trả thù.
“Tôi biết đây là địa bàn của anh, nhưng cũng không đến mức nhìn như vậy chứ. Chuyện gọi hồn nói to thì to, nói nhỏ thì nhỏ. Đừng để đến lúc hại cậu chủ Tôn hao binh tổn tướng.” Hạ Trú nói.
Nhiêu Tôn cũng không tính toán thái độ của cô. Anh ấy tiến lên: “Anh tới vì lo lắng cho em thôi.”
Tiếc là Hạ Trú không nể tình, cô hỏi ngược lại: “Lo lắng gì cho tôi? Bị ma bóp chết à? Chẳng phải anh nói anh không tin tôi có thể gọi hồn sao?”
Nhiêu Tôn thật sự không chịu nổi cái miệng của cô, anh bực dọc quát: “Em nói xem, anh lo lắng gì cho em? Đúng là lòng tốt không được báo đáp.”
Hạ Trú không giận mà bật cười: “Ô, là tôi hiểu nhầm hay cậu chủ Tôn mang danh nghĩa không yên tâm về tôi tới đây với mục đích khác?”
Nhiêu Tôn không vui: “Em có ý gì?”
“Nữ quỷ đó.” Hạ Trú rướn môi, cười mờ ám: “Bất luận đối phương là người hay ma thì cậu chủ Tôn anh bị tính kế như vậy lại còn chịu thiệt, kiểu gì cũng phải điều tra rõ ràng mới được.” Dứt lời, cô giơ tay phát lên vai anh ấy.
Đau đến nỗi anh ấy toát mồ hôi lạnh, rồi lại gào lên với cô: “Nhẹ thôi!”
“Đừng trách tôi không nhắc nhở anh, đối phương không phải Bồ tát đâu, có thể khiến anh trúng chiêu hai lần liên tiếp như vậy. Dựa vào…” Hạ Trú đánh giá Nhiêu Tôn từ trên xuống dưới rồi cười khẩy: “… cơ thể nửa tàn phế này của anh lại còn định so cao thấp với người ta sao? Đùa gì vậy?”
Mặt Nhiêu Tôn hết đỏ bừng lại trắng bệch bèn nghiến răng: “Hạ Trú, em muốn chết phải không?”
“Muốn chết?” Hạ Trú hừ khẽ: “Tối nay chỉ cần có mặt trong phủ Thân vương này đều nên ngồi cầu phúc đi.”
Trần Du đứng bên cạnh khó khăn lắm mới định thần lại được, nghe xong câu này lại bùng nổ: “Cô nói rõ ràng đi.”
“Có gì phải nói rõ chứ, tôi…”
Bỗng dưng có một loạt những tiếng sột soạt.
Giống như có vật nặng gì đó đập thẳng lên cửa kính, sau đó là tiếng cửa kính vỡ rơi xuống đất, ngắt ngang lời Hạ Trú nói.
Trần Du giật mình, cả người cứng đờ lại: “Hai người… có nghe thấy tiếng gì không?”
Hạ Trú và Nhiêu Tôn đều giữ yên lặng, cẩn thận lắng nghe.
“Không lẽ… oan hồn tới thật?” Trần Du sợ sệt hỏi.
Gió đang nức nở, mưa rơi lộp bộp xuống mái tòa lầu hí kịch. Ngoài âm thanh đó ra, dường như còn có một âm thanh nào khác bị chìm giữa tiếng mưa.
Nhiêu Tôn nhíu mày: “Hình như có ai đó?”
Ánh mắt Hạ Trú quét lên phía đối diện, cô nói: “Lầu gác!”
Nói rồi, hai người họ định rời khỏi sân khấu, Trần Du lập tức giữ Hạ Trú lại: “Cô đi thì chỗ này phải làm sao?”
“Cô canh chừng.”
“Hả? Không được, tôi không làm được!” Trần Du sắp sợ đến phát điên rồi: “Tôi đi cùng hai người, tôi không muốn ở lại đây đâu!”
Nhiêu Tôn quyết định: “Dẫn cô ấy theo đi, ở lại lỡ có chuyện gì xảy ra thì sao?”
Hạ Trú ngẫm nghĩ rồi dặn dò: “Nhớ kỹ, bất luận nhìn thấy gì cũng không được hét ầm ĩ lên.”
Trần Du không biết có thể nhìn thấy gì, sợ đến run cầm cập, bấm bụng gật đầu. Dù có nhìn thấy gì, cũng còn tốt hơn ở lại đây một mình đối mặt.
***
Đêm mưa này khiến Cảnh Ninh tinh thần bất ổn.
Trở về xe, bả vai ướt rượt quá nửa, cô không buồn lau khổ nữa, mở chiếc phong bì da bò vừa nhận được ra. Bên trong là năm, sáu bức ảnh.
Những bức ảnh này khi vừa nhận được, cô đã vội vã nhìn lướt qua. Người đưa tài liệu cho cô nói: Ông chủ không có ý làm khó cô, chỉ cần tới lúc cần thiết, cô gọi một cuộc điện thoại, chuyền tay chuyển những bức ảnh này đi là được.
Ông chủ mà người đó nói cô biết, là Lục Khởi Bạch.
Bây giờ trở về xe rồi, cô mới lật giở từng bức một ra xem. Mỗi khi xem một bức, tâm trạng lại trầm xuống một nấc. Sau khi cất hết ảnh vào trong phong bì, Cảnh Ninh cảm thấy lòng dạ nặng nề như bị đá tảng đè xuống, khiến cô có một cảm giác ngột ngạt tưởng chết. Cô gọi một cuộc điện thoại.
Đầu kia bắt máy rất nhanh.
“Lục Khởi Bạch, lần này anh rốt cuộc định làm gì?” Cảnh Ninh nhìn chằm chằm tấm kính chắn gió, những giọt mưa to bằng hạt đậu nhanh chóng bị phá vỡ, sau đó làm nhòa đi cả tầm nhìn.
Giọng Lục Khởi Bạch như cánh tay của một linh hồn u ám, cho dù cách nhau một chiếc di động cũng có thể thông qua sóng điện thoại bóp chẹt cổ cô: “Em sẽ biết nhanh thôi.”
Cảnh Ninh siết chăgựt di động. Đối phương cúp máy rất lâu rồi cô vẫn chưa có phản ứng lại.
Trái tim cô đã sớm ngã khuỵu trong mưa gió, giống như một tấm bèo trôi dạt vô định, không nơi nương tựa…
***
Hạ Trú suy đoán chính xác. Sân khấu kịch sở dĩ được xây cao như vậy, mục đích là để những người ngồi trên căn lầu gác đối diện có thể xem kịch.
Trong lầu gác lúc này trống trải vắng vẻ, dưới đất rơi không ít tiền giấy, đã mờ nhạt màu theo năm tháng, trở thành những đồng tiền xu trắng nhợt nhạt, dính chặt trên mặt đất, rồi lại bị gió thổi bay lên.
Khi ba người đám Hạ Trú xông lên lầu gác, phải đến mấy chục tờ tiền giấy trắng nhợt đang bay lượn trên không trung. Một khung cửa sổ đối diện đã bị đập vỡ một mảng lớn, thủy tinh vỡ đầy đất. Một chiếc ghế gãy đang xiên xẹo đổ bên cạnh cửa sổ. Gió từ mảng vỡ đó ào ào thổi vào trong, kèm theo cả nước mưa.
Trần Du vừa kịp đứng vững thì lại giật mình vì những tờ tiền giấy bay lên. Sau khi nhìn rõ đó là gì, cô ta mới thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng thường thì các căn lầu gác đều xây mái hiên, không đủ ánh sáng, thế nên trong này bốc lên một mùi ẩm mốc rất mãnh liệt. Hạ Trú cảm thấy mùi gay nhức. Cô vội vàng bịt mũi lại, rồi thầm hỏi Trần Du: “Cô ngửi kỹ mùi ở đây đi, ngoài mùi ẩm mốc ra còn mùi gì không?”
Trần Du cũng là nhà điều chế hương, mũi đích thức nhạy bén hơn người thường, nhưng cũng chưa đạt đến mức thiên phú như Hạ Trú. Sau khi cẩn thận phân biệt, cô ta lắc đầu: “Chỉ có mùi ẩm mốc thôi.”
Khi hỏi Nhiêu Tôn, anh ấy cũng cho một đáp án tương tự.
Hạ Trú vừa che mũi vừa nói: “Âm thanh chúng ta vừa nghe thấy từ trong này vọng ra. Lối ra duy nhất của lầu gác khi đứng bên sân khấu chúng ta có thể nhìn thấy. Thế nên, có người chắc chắn vẫn đang ở trong căn lầu gác này.”
Đây cũng là suy nghĩ của Nhiêu Tôn.
Rõ ràng, tại nơi này đã xảy ra chuyện gì đó, nhưng sau khi họ tới nơi thì không thấy bóng một ai. Nếu đối phương đã bỏ trốn, cho dù tốc độ có nhanh cách mấy thì họ cũng có thể nhìn thấy kẻ đó thoát ra từ lối cửa duy nhất. Lầu gác có độ cao ba tầng nhà. Nhiêu Tôn vừa nhìn cửa sổ, bên dưới không có dây thừng, không thể có ai nhảy từ cửa sổ ra.
Trần Du quét mắt nhìn, lí nhí nói: “Chỗ này nhìn một cái là hết sạch, người có thể trốn vào đâu?”
Hạ Trú cũng nghĩ không ra.
Diện tích của lầu gác không lớn, phóng tầm mắt nhìn qua cũng chỉ khoảng ba, bốn mươi mét vuông, thi thoảng mới có chướng ngại vật, còn không che được tầm nhìn, lại không có đồ dùng gì để trốn tránh. Nếu có người, sao có thể vô duyên vô cớ biến mất?
Cô bỏ tay xuống, giải phóng cho cái mũi.
Gió đã xua tan bớt một chút mùi ẩm mốc trong phòng. Lúc hít thở, tuy cô có gặp chút khó khăn, nhưng cũng không đến nỗi bịt mũi suốt.
Ngoài mùi ẩm mốc còn có mùi nước mưa, lại cuốn theo cả mùi hoa nở trong phủ Thân vương, mùi mục ruỗng của xà nhà cũ nát và mùi oi nóng mùa hè trong đêm mưa… Trên đời này, có sự tồn tại của vật chất là sẽ có mùi hương. Cả một phủ Thân vương rộng lớn, vật chất tạo thành lại quá nhiều, mùi hương cũng thế mà trở nên phức tạp.
Ngoài phủ Thân vương này ra còn có cả thế giới mênh mông và mùi cơ thể của chính con người nữa.
Thế nên, khi người khác chỉ ngửi được vài mùi nổi lên bề mặt thì thứ mùi mà Hạ Trú ngửi được lại nằm ở những lớp vật chất tầng sâu hơn. Đủ các loại mùi giao thoa lẫn nhau, đủ các loại ôm trọn rồi lại tan rã.
Thế nên, lúc này đây, trong số những mùi hương này, cô còn ngửi thấy một loại mùi, rất nhẹ nhàng, đã bị gió xé tan tác thành nhiều mảnh.
Mùi nước khử trùng.
Loại mùi cô ghét nhất.
Bây giờ không ít bệnh viện đều nghĩ đủ mọi cách để tẩy đi mùi nước khử trùng, nhất là các bệnh viện cao cấp. Nhưng dù tẩy thế nào, người bình thường cũng có thể ngửi thấy. Hạ Trú lại càng có thể.
Từ sau khi bố mẹ nuôi qua đời, cô cực kỳ nhạy cảm với mùi này, cứ cảm thấy thứ mùi này như một lưỡi cưa dài vậy, khi rơi vào mũi sẽ làm mũi đau nhức. Thậm chí có một lần, Đàm Diệu Minh bị thương phải vào bệnh viện, cô ngồi bên giường suốt một đêm. Sáng sớm hôm sau, mũi cô đã chảy máu.
Tưởng Tiểu Thiên nói với cô: Gia, chị nóng trong rồi.
Cô cảm thấy thứ mùi đó đã kích thích niêm mạc mũi. Hơn nữa, xưa nay cô còn có tâm lý bài xích nước khử trùng. Tâm lý ảnh hưởng đến sinh lý, việc này quá bình thường.
Thế nên mỗi lần buộc phải tới bệnh viện, khi trở về nhà, cô luôn phải dùng nước mơ để rửa sạch mũi. Mùi thơm sáng khoái trong lành của lại có chút chua chua của nó là liều thuốc tốt nhất dành cho khoang mũi.
Bây giờ, trong một phủ Thân vương cũ kỹ còn chưa tiến hành tu sửa này lấy đâu ra mùi nước khử trùng?
Hạ Trú cố nhịn cảm giác kó chịu để tiếp tục tìm kiếm. Trần Du không biết cô đang tìm cái gì, đang định lên tiếng thì bị Nhiêu Tôn ngăn cản, ra hiệu cho cô ta đừng có làm phiền.
Trần Du đành bám gót theo sau, lần từng bước theo Hạ Trú đi đến tận cùng của lầu gác.
Ở một góc, Hạ Trú dừng bước.
Không gian tối đến khó tả.
Vốn dĩ là một ngày sấm chớp, không có ánh trắng, cộng thêm nguồn sáng trên lầu gác vốn không tốt, thế nên đi tới đâu cũng đen xì xì.
Thấy cô dừng bước, Nhiêu Tôn rút di động ra định soi sáng. Hạ Trú lập tức giữ chặt tay anh, lắc đầu. Cô ngồi sụp xuống, giơ tay vuốt nhẹ nền đất.
Nền của lầu gác vốn dĩ được lát gỗ. Nhưng vì thời gian đã quá lâu, rất nhiều chất gỗ đã hỏng hốc, khiến nền nhà trồi lên dập xuống không bằng phẳng. Hạ Trú chỉ cảm thấy dưới ngón tay có một khe rãnh. Khi tiếp tục sờ xung quanh, cô phát hiện ở rìa ngoài có một đường rãnh rất nhỏ, giống như tay nắm cửa.
Trái tim Hạ Trú lỡ một nhịp.
Đúng vào lúc này, một tia chớp lóe lên ngoài cửa, soi rọi sáng trắng cả căn phòng. Lúc này cả ba người đều nhìn rõ kết cấu dưới chân.
Bên trong thật sự có những tia sáng mỏng manh và những tiếng nức nở.
Hạ Trú phản ứng nhanh, chui vào trong rất nhanh nhẹn. Cô đi xuống dưới theo cầu thang, Nhiêu Tôn thấy vậy bám ngay theo sau. Trần Du không muốn đi xuống, nhưng quay đầu nhìn một khoảng trống vắng thê lương sau lưng, sợ hãi cực kỳ, vội vàng đi theo.
Là một tầng hầm.
Cầu thang vừa dốc vừa dài, hướng thẳng xuống dưới, giống như một lối đi xuống địa ngục. Hai bên trái phải rất hẹp, không thể dang rộng hai cánh tay. Trên tường đã mọc rêu mốc xanh, ẩm ướt.
Cánh cửa kín được mở ra, giống như có thêm một lỗ thông gió.
Gió trên đỉnh đầu xoay tròn trong căn lầu gác, rồi lại len lỏi vô số xuống dưới tầng hầm, khiến con đường nhỏ hẹp vang vọng những tiếng gió rít gào, cực kỳ nhức tai.
Mùi thuốc khử trùng từ trong này bốc ra, cũng khá nhạt nhòa.
Nếu Hạ Trú suy đoán không nhầm, có lẽ là mùi của ai đó mang theo khi vào đây.
Càng đi xuống dưới, ánh sáng càng đầy đủ hơn.
Động tĩnh bên dưới cũng càng lúc càng lớn, giống như tiếng giãy giụa, cào xé, sau đó…
Một tiếng “Cứu mạng!” khó khăn bật ra.
Hạ Trú khựng lại, ngay sau đó khẩn trương đi xuống dưới. Mấy lần Nhiêu Tôn đều không bắt kịp cô. Cho đến tận bậc cuối cùng, anh ấy mới giữ được cô lại, quát: “Em thể hiện gì chứ? Lỡ như…”
Không có lỡ như.
Bậc thềm cuối cùng nối với cả một tầng hầm rộng lớn.
Diện tích giống hệt như tòa lầu gác trên kia, chỉ có điều kết cấu hơi khác.
Có rất nhiều ngóc ngách che khuất tầm nhìn, để không ít đồ đạc. Nhưng nổi bật nhất chắc chắn là chiếc giường dựa trong góc. Ga giường, chăn và gối đều đầy đủ, bên cạnh giường có tủ, đặt không ít đồ dùng sinh hoạt.
Có người đã sống ở đây một thời gian dài!
Mà người này, lúc này đang ở ngay trước mặt họ.
Trên người mặc một chiếc áo dài trắng, mái tóc đen dài chấm tới eo. Dáng hình đó khiến cả ba người ngây ra. Trần Du lẩm bẩm: “Tưởng Ly…”
Phải, giống hệt Tưởng Ly.
Điều càng khiến ba người họ sửng sốt hơn là, trên chiếc xà ngang trên đỉnh đầu đang treo lơ lửng một người. Một dải lụa dài mấy mét, một đầu đang nằm trong tay cô gái kia, một đầu quấn vào cổ đối phương. Người đó bị siết đến trợn mắt, chiếc ghế dưới chân đã bị đá văng ra.