Trận này, may mắn gặp được quang cảnh trai giới của người Đại Lý, cả ngày đi theo ăn chay. Trong miệng của mấy vị đều nhạt ra, thật sự không thể chịu nổi, Vương Thiều sai người tại một góc tránh gió chỗ tường thành, đặt một cái nồi lớn, đặt lên một miếng than làm bếp. Mặt trên đặt lên một giá đỡ bằng sắt cách nhau, gọi mấy người anh tới ăn đồ nướng.
Với địa vị của bọn họ, hiển nhiên nên có người hầu hạ, nhưng cái ngon của đồ nướng, vốn dĩ phải ở chỗ khói hun lửa cháy, cho nên Vương Thiều đều đuổi mấy người hầu hạ xuống, tự mình động tay làm đầu bếp…Y mang nguyên liệu nấu ăn ướp trước, sau đó gác trên giá, lấy đũa dài đảo đi đảo lại, rắc lên hương liệu Nam Dương được đưa từ Thục Thân Độc đạo (*) vào Trung Nguyên, mùi hương rất nhanh lan tỏa, khiến mấy người đang nói chuyện, tất cả đều đứng ngồi không yên. (*): Là một cửa ngõ giao thông thông thương bắt đầu từ Thành Đô Tứ Xuyên Trung Quốc, qua Vân Nam, đến Ấn Độ, còn gọi là con đường tơ lụa phương nam.
Bởi vì có người thích miệng lớn ăn thịt, có người lại giữ gìn tư tưởng của văn nhân, thích sự thanh đạm, còn có Hòa thượng ăn chay, cho nên nguyên liệu đồ nướng của bọn họ rất phức tạp. Trên giá đỡ bằng sắt ngoài miếng thịt bò, cánh gà đã ướp, còn có miếng táo, tôm cá rau quả thậm chí là mì phở… Đừng tưởng rằng chỉ có Huyền Ngọc mới ăn, loại mì phở Đại Lý này gọi là “món ăn nhanh”, là món tất cả mọi người yêu thích.
Nó dùng bột gạo làm thành hình bánh tròn dàn mỏng, nướng trên lửa tới khi hơi khô vàng, mặt ngoài rắc vừng, kẹp dưa chuột vào, miếng củ cải hoặc là miếng thịt bò dê nướng vàng xung quanh rồi ăn. Vừa có thể đỡ đói, lại rất ngon, hơn nữa khi đánh giặc, vì như thế nên có thể làm cho người ta ăn nhanh no mà lại ngon, mấy người của Vương Thiều vô cùng thích thú.
Tuy nhiên trong thời khắc Thao Thiết (một con quái vật tham ăn tàn ác trong truyền thuyết) mà thời gian dư giả như lúc này, nhận được hoan nghênh nhất vẫn là cá nướng của Đại Lý… Đem mổ cá trước, ghì chặt trên cây thăm bằng trúc làm theo hình chữ thập giao nhau, con cá nước mặn hồ Nhị Hải giống con diều giấy dính trên giá, nướng đi nướng lại hai mặt trên lửa, cho tới khi mùi tanh trở thành mùi thơm, tiếng dầu xèo xèo rớt xuống, mỗi người liền cầm lấy một con, một tay kia cầm theo vò rượu… Tay trái giương cung, tay phải cài tên, nhanh chóng cắn nhanh không quan tâm tới hình tượng của mình.
- Ta nói với các ngươi, Đoàn vương gia mời khách ăn cơm không đi. Đang ăn rất vui vẻ, liền nghe thấy giọng trêu tức nói: - Lại trốn ở đây nướng cá ăn, ngược lại làm ta một mình gánh trách nhiệm. Người nói là Lã Huệ Khanh, hôm qua Đoàn Tư Liêm ở hoàng cung của Đại Lý, mở một bữa tiệc tiếp đãi Tống Sứ. Ngoài Vương Khuê ở lại thành Đại Lý ra, phía bên Long Thủ quan cũng chỉ có mình Lã Huệ Khanh đi làm đại biểu.
- Ăn quốc yến trở về rồi à. Vương Thiều liếc y một cái nói: - Thế nào, ăn vui vẻ chứ?
- Thơm quá, nói nhảm ít thôi, cho một con trước giải quyết cơn thèm cái đã. Lã Huệ Khanh xoa tay nói.
- Quốc yến sơn hào hải vị vẫn chưa ăn đủ à. Tống Đoan Bình cười đùa nói: - Còn thích một miếng cá nát.
- Nói đúng rồi, rất hiếm mà. Lã Huệ Khanh nhận một miếng cá nướng, nhã nhặn cắn một miếng nhỏ, vẻ mặt say sưa nói: - Đây mới chính là mùi vị của cái kia. Ngày hôm qua cái đã ăn ở hoàng cung của Đại Lý, đó là một món vô vị nhạt nhẽo.
- Sao vậy, trình độ điều khiển bếp của Đại Lý quá kém sao? Mọi người cười hỏi.
- Trình độ ngược lại không kém, chính là bữa cơm đó ăn quá cực khổ. Lã Huệ Khanh cười nói: - Con người của Đại Lý cũng tốt, chúng ta người Tống cũng thế, trong lòng đều suy ra ý nghĩ của mình. Mỗi người đều có mục đích riêng phải đạt được, ngươi nói làm sao có thể ăn ngon được chứ?
- Đoàn Tư Liêm có ý gì? Vương Thiều nhấp một ngụm rượu ngon, tiếp tục đảo thịt nướng hỏi.
- Vẫn hy vọng quân đội Đại Tống của ta có thể tiến vào chiếm giữ thành Đại Lý. Lã Huệ Khanh cười nói: - Đoàn Tư Liêm vẫn chưa từ bỏ ý định sao…
- Lão quan này! Vương Thiều xì nói: - Cũng quá hy vọng hão huyền rồi, Đại Tống chúng ta có thực lực đó sao?
- Càu nhàu ít thôi. Lã Huệ Khanh lắc đầu nói: - Cẩn thận để người ta nghe thấy.
- Không nghe thấy đâu. Vương Thiều lắc đầu, vẫn hạ thấp giọng nói: - Nghe nói lần này, Trọng Phương có thể tạo ra cục diện này, đã là bản lĩnh rất lớn rồi. Nhưng thái độ của triều đình, đều khiến mọi người cảm thấy ngột ngạt… Chỉ xuất ba vạn binh, còn không cấp lương bổng, còn không cho đánh giặc! Quan gia và đám tướng công, vừa muốn để ngựa chạy nhanh, lại muốn để ngựa không ăn cỏ, thực sự coi Trọng Phương thành thần tiên rồi!
- Nếu không có những điều kiện này, nếu không phải là Đại Lý có thể giải quyết thiếu tiền trong nước, một binh lính triều đình cũng sẽ không cho Trọng Phương. Tăng Bố thản nhiên nói: - Mà Trọng Phương vì để có thể nhanh chóng xuất binh, chỉ có bịt mũi chấp nhận những điều kiện này thôi.
- Ta tính rõ rồi, cho triều Đại Tống đánh giặc, đó là sự việc của thần tiên làm. Tức giận vô cùng lại phải cười nói: - Ngươi không có tiên khí như vậy của Trần Tam Lang, thì đừng có kiểu không hiểu mà bày đặt như thế.
- Được rồi được rồi, đừng nói gở nữa. Lã Huệ Khanh không muốn nghe y càu nhàu, gặp phải phiền toái không cần thiết. Năm đó đám người Vương Ích Nhu, Tô Thuấn Khâm, không phải vì say rượu nói ngông cuồng, lần đầu leo lên giới chính trị, liền phá hoại hết tiền đồ đã cố gắng sao? Bài học tàn khốc, nhất định phải rút ra: - Lần đi sứ này, chúng ta có thể nói kế hoạch lớn thành công, cho dù không thể sáng rọi sử sách, cũng nổi danh một thời, các vị cứ vui vẻ đi.
- Điều này có cái gì đáng vui mừng vậy? Dựa vào duy trì thế cân bằng ở ba hướng để gắn bó địa vị ở Đại Lý, rất không vững chắc. Một lúc nào đó thế cân bằng của ba hướng bị phá vỡ, tất cả sẽ đi đâu không biết. Dường như Vương Thiều lại khăng khăng làm trái lại y: - Khi nào mang Đại Lý đổi thành châu quận của Đại Tống, lúc đó mới thực sự vui vẻ đó.
- Rèn sắt còn cần tự bản thân cứng rắn mà. Tống Đoan Bình biết, Vương Thiều và Lã Huệ Khanh, trong ngày thường vì bất đồng quan điểm, có nhiều tranh cãi. Nếu để bọn họ tranh cãi, bữa cơm này thì không thể ăn được, liền giảng hòa nói: - Khi nào Đại Tống trên dưới một lòng được, ngân khố quốc gia đầy đủ rồi, quân đội hùng mạnh rồi, khi đó Đại Lý hoàn toàn thuộc về chúng ta.
- Lời này của ngươi chẳng khác gì không nói. Vương Thiều trừng mắt một cái nói: - Tuy nhiên đúng là đạo lý này.
- Đúng vậy! Tăng Bố cũng gật đầu nói: - Triều Đại Tống trăm thói xấu không thể thoát ra, bước đi gian nan, đủ loại quan lại ăn không ngồi rồi, đáng khinh không chịu được. Triều đình như vậy, duy trì còn không dễ, nói gì tới phát triển nghiệp lớn chứ?
- Nhất định phải làm cuộc cải cách chính trị, thay đổi phong tục, từ trong ra ngoài cải cách đổi mới, mới có thể có hy vọng. Vương Thiều gật đầu nói: - Nhưng theo ta, đương kim quan gia là không hy vọng được, vẻ già nua nặng nề, hy vọng ông trời phù hộ, có thể ban cho chúng ta một vị Hoàng đế đầy hứa hẹn!
- Ngươi thử xem, sắp tới rồi… Lã Huệ Khanh buồn bực nói: - Tấm gương nhà Ân của người Khánh Lịch đảng không xa, làm sao lại không thể tiếp thu bài học này chứ?
- Lỗ mãng! Ở nơi trời cao Hoàng đế xa này, lời nói ra không thể bay tới lỗ tai quan phủ sao? Vương Thiều liếc mắt xem thường nói: - Hơn nữa, những lời này, lại không phải là ý kiến của một mình ta, trong triều đình có người nhận thức vậy, đều có quan điểm này.
- Nói chuyện giật gân vậy thôi, tuổi xuân của quan gia đang độ, có cái gì mà ngươi nói tới dáng vẻ già nua? Lã Huệ Khanh lắc đầu nói: - Làm sao mà không hy vọng được chứ?
- Ta tự nhiên không thể bịa đặt! Ý định của Vương Thiều để bác bỏ y, vạch trần ra tin tức bí mật nói: - Các ngươi có thể không biết, Vương Giới Phủ công năm nay chủ trì kỳ thi xuân, nhưng thật ra là đường thúc năm đời của ta.
- Thật sao? Mọi người thật sự không nghe thấy y đề cập tới. Nhưng cũng bình thường, thằng nhãi này hằng ngày thần long thấy đầu không thấy đuôi, bí mật trên người quá nhiều rồi.
- Ừ, cái loại thân thích nghèo khó có gì tốt đâu. Vương Thiều cười cười nói: - Mùa xuân năn nay, ông ấy đặc cách chủ trì kỳ thi Xuân, người trong thiên hạ nghĩ tới, đây là dấu hiệu quan gia muốn dùng ông ấy. Ai biết được ông ấy lại chợt bị giáng chức xuất kinh, khiến cho người ta không ngờ, các ngươi biết điều này vì cái gì không?
- Không phải nói, là ở bữa tiệc ngắm hoa câu cá, quan gia thấy ông ấy đã ăn sạch sẽ mồi câu, cho rằng Vương Công có dụng ý bất lương, lấy lòng mọi người sao? Tống Đoan Bình nói.
- Ha ha… Vương Thiều cười cười nói: - Đây chỉ là hiện tượng biểu hiện bên ngoài, trên thực tế chuyện Vương Công bình thường mơ hồ, ăn nhầm cơm, mặc sai áo nhìn mãi quen mắt, ăn một ít mồi câu coi là cái gì chứ? Quan gia chỉ là mượn cớ giáng chức ông ấy mà thôi.
- Vậy nguyên nhân thực sự là gì?
- Trước khi y gặp chuyện không may, đã gửi lên bức “Vạn ngôn thư” khuyên người cải chính, đó thật sự là lý luận nhận thức cao xa, khí phách như cầu vồng, ý chí cải cách, nồng cháy như lửa! Vương Thiều nói: - Sau khi gửi lên lại bị giữ lại không phát, như đá ném ra biển rộng không tin tức, nhưng không lâu sau liền bị giáng chức xuất kinh rồi… - Ngươi đã xem qua “vạn ngôn thư” của ông ấy chưa? Mọi người nhất thời bị nổi lên hứng thú, ngay cả Lã Huệ Khanh đều bị hấp dẫn lỗ tai.
- Ngày đó thăm hỏi Vương Công, vừa khéo xem qua bản thảo.
- Còn có thể nhớ bao nhiêu? - Một chữ không lọt!
- Còn không đọc ra để nhắm rượu nào? Mọi người đều hết sức vui mừng.
- Rửa sạch lỗ tai nghe cho kỹ! Vương Thiều Thanh hắng giọng, cao giọng thở dài nói: - … Quân tử không phải không được tiếp nhận, nhưng tiểu nhân cũng có thể trà trộn vào. Nhận định chính xác cũng không phải không được tiếp thu, nhưng mà quái luận không chính xác cũng có lúc được áp dụng. Dựa vào viết thơ làm phú tiếng tăm lẫy lừng để lựa chọn kẻ sĩ trong thiên hạ, mà không có phương pháp để trường học bồi dưỡng đào tạo nhân tài; lấy lý lịch nông sâu trong khoa cử để xếp hạng quan vị trong triều, mà không có chế độ quan lại khảo hạch thành tích thực tế. Bên Giám Ti không thiết lập người kiểm tra, Thủ tướng không phải là hiền thần được tuyển chọn lên, nhiều lần điều động dời quan, vừa khó ở chỗ khảo hạch thành tích thực tế, mà người ba hoa chích chòe bởi thế có thể làm giả. Người kết bè kết đảng giành giật danh vọng, phần lớn đều có được chức vụ hiển hách, người dựa vào bản thân mới có thể phụng công thủ chức, cũng vô pháp thể hiện ra chỗ khác với người thường... Thần nghĩ bệ hạ thân có tư chất sáng suốt như thánh, kế tục Đế nghiệp vô cùng vô tận, biết không thể dựa vào sự giúp đỡ lâu dài của ông trời, biết nhân sự trước sau không thể chậm trễ, vậy thì thời khắc mặc sức vùng vẫy ấy, chính là hôm nay.
- Đúng là chân lý a! Một đám quan viên trẻ tuổi đã phát ra sự kích động từ nội tâm, bỗng chốc không còn mê man nữa.
Đây là một niên đại hết sức đặc thù, sau khi đã trải qua sự thống trị mấy trăm năm của tư tưởng, Thích gia và Đạo gia, Nho gia lại một lần nữa trở thành tư tưởng của chính phủ Hoa Hạ. Nhưng Nho học đã suy thoái mấy trăm năm, không phải một sớm một chiều có thể khôi phục lại. Sai lầm và hoang đường của học thuyết Hán Nho có quá nhiều, trên cơ bản đã bị xóa bỏ, nhưng học thuyết mới vẫn chưa có sự thành thục, các giá các phái mọc lên như rừng, dân chúng xôn xao, nhưng không có một giáo nào đạt được sự tán thành rộng rãi. Tư tưởng của mọi người, nằm trong giai đoạn hỗn loạn chưa từng thấy.
Kiểu hỗn loạn này, thể hiện trong cuộc sống chính trị của quan viên, chính là mờ mịt. Khổng Phu Tử truyền bá những điều này cho những thanh niên tài đức mới ra đời. Lý tưởng nồng cháy của “Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ”, nhưng không có biện pháp giáo huấn “Tu tề trị bình” cho bọn họ. Bọn họ có thể cảm nhận thấy yêu cầu cải cách cấp bách của quốc gia này, nhưng không có cách nào để nhìn rõ ra vấn đề nằm ở đâu, càng không biết nên thay đổi ra sao, tất cả những buồn khổ mê hoặc bởi vậy mà sinh ra.
Nhưng bài “ Vạn ngôn thư” của Vương An Thạch, tựa như lời cảnh tỉnh, mang khiếm khuyết của triều Đại Tống, từng cái từng cái, từng chút từng chút, hiện ra rất rõ trước mắt những người thanh niên trẻ này. Càng khó có được chính là, bảo cho bọn họ, nên giải quyết thế nào đi! Hơn nữa nhìn thấy rất hợp tình hợp lý, khiến người ta tin phục.
Nhiệt huyết của bọn họ, vì những tình cảm mãnh liệt trị nước của Vương An Thạch làm bùng cháy. Bọn họ vây quanh đống lửa, hát vang với rượu, giọng vượt qua cả tường thành, quanh quẩn ở trên Long Thủ quan, cũng truyền đến trong doanh trại quân đội của Dương thị ở ngoài thành.
Trong quân doanh của Dương thị, lại là một tình cảnh bi thảm, các binh sĩ tâm trạng chán nản. Đương nhiên không có điều kiện tốt như đội quân của Vương Thiều bọn họ, chỉ có thể ngồi trong doanh địa bắt rận phơi nắng, thỉnh thoảng ngửi được mùi thịt nướng từ trên thành bay tới. Bọn lính liền nuốt nước miếng liên tục, sau đó nhỏ giọng mắng chửi cha con Dương gia kích động bọn họ tạo phản…
Lúc cha con Dương gia đề xướng sự việc, tuyên bố trong nửa tháng đánh vào thành Đại Lý, mở quốc khố của Đoàn thị, mỗi binh lính cân lớn chia bạc, cân nhỏ chia vàng, ăn miếng thịt lớn, uống chén rượu lớn… Nhưng mà ba tháng đã trôi qua rồi, bọn họ vẫn đang bị chặn ở dưới Long Thủ quan, lương thực dự bị trước đã sớm tiêu hao hầu như không còn, trong phạm vi trăm dặm cũng đã thổi sạch sành sanh. Đừng nói ăn thịt uống rượu nữa, mà ngay cả nhai trầu nuốt rơm cũng đã thành vấn đề.
Nếu là lúc sớm, nghe thấy mấy lời oán hận như vậy, các quan quân nghiêm khắc trừng phạt, nhưng hiện tại, tất cả đều mặc kệ nó, vì bọn họ cũng đều biết, người Thổ Phiên đã bỏ chạy, quân Tống cũng tiến vào Đại Lý. Cao Gia đang uy hiếp bọn họ đầu hàng. Quân Nam Chiếu vây quanh bốn bề, thất bại đã thành đương nhiên…Thời điểm này, tất cả mọi người đang lo lắng vận mệnh của mình, không người nào bằng lòng bị chôn vùi cùng con thuyền hỏng sẽ bị đắm theo lẽ đương nhiên.
Không chỉ là quan quân cấp thấp, những sĩ quan cao cấp chủ yếu của Dương thị, cũng làm như nghĩ. Mặc dù bọn họ cái gì cũng không nói, nhưng sự trầm mặc vừa rồi trong hội nghị cao cấp, cũng đã biểu đạt rõ ràng kiểu cảm xúc này.
Lúc này, các tướng đã lui ra, trong trướng soái chỉ còn lại có cha con Dương Doãn Hiền và Thủ tịch mưu sĩ Dương Thế Đạc của bọn họ. Dương Doãn Hiền đã sắp điên rồi, lão và quân đội của lão, bị nhốt trước Long Thủ quan không được tiến vào. Đồng minh của lão Đức vua Thổ Phiên Tắc Lợi Trình, nói bị lệnh cưỡng chế rút quân của Tán Phổ… Thật sự là gặp quỷ, trong ngày qua, Tắc Lợi Trình nhắc tới vị ở Hà Hoàng kia, đều xưng bằng con hoang. Điều này có thể lại trở thành Tán Phổ mà lão không thể chống lại được.
Mà Cao Trí Thăng thề son sắt cùng sống chết với lão, người hầu trung thực của lão, lại thành rùa đen rụt đầu. Không chỉ không khởi binh giúp đỡ lẫn nhau, ngược lại khuyên lão đàm phán ngưng chiến. Trong lời nói thậm chí ám chỉ, nếu không đáp ứng, thì sẽ xuất binh ủng hộ Đoàn thị…Xem như kiên quyết chơi lão một đao.
Bất luận như thế nào, người Thổ Phiên đã rút lui, Cao gia thì lật lọng, chỉ giữ lại mình lão, Long Thủ quan càng ngày càng khó phá được, còn có quân Tống đã chạy đến phủ Thiện Xiển, thế cục làm cho lão không có lựa chọn, dường như chỉ còn lại một con đường đàm phán ngưng chiến.
Nhưng theo tất cả mọi người, một con đường trong tình thế bắt buộc không thể không làm, đối với Dương Doãn Hiền mà nói, cũng là muôn vạn khó khăn. Bởi vì năm đó, tổ tiên của lão Dương Can Trinh, chính là bị Đoàn thị làm cho cùng đường, chỉ có thể chấp nhận đàm phán, nhường ngôi vị Hoàng đế.
Cho nên trong tự điển của Dương gia, cái gọi là đàm phán hòa bình, chính là đầu hàng. Hơn nữa đối tượng đầu hàng lại chính là Đoàn thị. Đây là sự áp bức và lăng nhục đến cỡ nào?
- Chẳng lẽ Lão phu nhiều năm trù tính, một khi khởi binh, chính là vì một lần nữa thưởng thức sự sỉ nhục sao? Dương Doãn Hiền vẻ mặt tiều tụy, hai mắt đỏ, lại như một con hổ bị bệnh, thấp giọng gầm gừ nói: - Các ngươi nói, lão phu có thể chấp nhận không?
- Chủ công, Cao Tướng quốc cũng là có ý tốt… Dương Thế Đạc nhẹ giọng khuyên nhủ: - Có câu là kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt.
- Cái rắm ấy! Dương Nghĩa Trinh phun một cục đờm vào mặt y nói: - Cao Trí Thăng đã quen làm rùa đen rụt đầu, thì cho rằng tất cả mọi người là rùa đen rụt đầu! Con mẹ nó! Con mẹ nó! Con mẹ nó! Cha con chúng ta cho dù chết, cũng không làm con rùa đen rụt đầu.
Dương Thế Đạc đã sớm quen đạo đức này của y, chỉ là chạm mặt, không nói gì. Nhưng Dương Doãn Hiền lại tức giận nói: - Khốn khiếp, dám như vậy với Thế Đại thúc của ngươi sao! Nhìn thấy vẻ mặt vô lễ của người con trai, Dương Doãn Hiền thở dài một tiếng nói: - Thế Đạc, lão đại phu thay tên nghiệt súc này xin lỗi ngươi, cũng không biết nó đến khi nào mới có thể hiểu chuyện.
Dương Thế Đạc tự nhủ trong lòng, không phải là để cho y quen rồi sao? Nhưng nét mặt vẫn là sợ hãi nói: - Chủ công nói lời gì vậy, Thiếu chủ tư thế oai hùng ngút trời…
- Không cần nói nhiều lời như vậy nữa. Dương Doãn Hiền xua tay, xen lời y: - Thế Đạc, ngươi thử nói xem, chúng ta rốt cuộc nên làm thế nào đây?
- Cái này phải xem điểm mâu chốt của chủ công ở đâu? Dương Thế Đạc chậm rãi nói.
- … Dương Doãn Hiền đứng dậy dạo bước một lúc lâu, sắc mặt u ám, cuối cùng dừng chân lại nói: - Không xưng thần với Đoàn, tất cả cái khác đều có thể đàm phán.
- Việc này… Dương Thế Đạc trầm ngâm một lúc nói: - Cũng không phải là không thể.
- Ồ! Nói nhanh! Dương Doãn Hiền bỗng nhiên ngẩng đầu lên nói.
- Trận đánh này, Dương gia thắng được là dựa vào người của triều Tống, nhưng nói bọn họ uống rượu độc giải khát cũng không quá đáng. Dương Thế Đạc nói: - Người Hán có câu cách ngôn, mời thần dễ tiễn thần khó, tương lai Đại Lý có phải là họ Đoàn hay không, còn rất khó nói.
- Ngươi nói là, người của triều Tống sẽ không đi sao? Dương Doãn Hiền trầm giọng nói.
- Khẳng định không đi… Dương Thế Đạc thản nhiên nói: - Người triều Tống xuất binh, chính là để đến được Đại Lý của chúng ta, làm sao có thể tới rồi lại đi? Trừ phi Hoàng đế của triều Tống thật sự là Bồ Tát cứu thế. Dừng một lúc nói: - Hơn nữa Đoàn Tư Liêm cũng chỉ có thể bịt lỗ mũi mà nhận, ai bảo y đã quy phục triều Tống.
- Phụ thân, chúng ta cũng có thể quy phục triều Tống. Dương Nghĩa Trinh chợt nói: - Dù sao Đoàn gia đã mang danh hiệu là chủ của Đại Lý hiến tặng cho Hoàng đế Trung Nguyên. Chúng ta quy phục bọn họ, cũng hợp tình hợp lý. Nói xong cười nói một cách thoải mái: - Vốn dĩ, Dương gia chúng ta chính là thua bởi Đại Tống, mà không phải bởi Đoàn gia. Thua bởi Trung Nguyên Thiên triều, hợp tình hợp lý, có cái gì mất mặt không?
- A… Đây ngược lại là một suy nghĩ mới. Cứ như vậy, Dương gia và Đoàn gia cùng trở thành Tống thần, không còn quân thần. Dương Doãn Hiền cũng có thể thuận theo ý tứ này, suy nghĩ một chút nói: - Triều Tống sẽ đáp ứng sao?
- Nhất định sẽ đáp ứng. Dương Thế Đạc vuốt cằm nói: - Trận này, ty chức đã sưu tầm các phương lược thống trị với khu vực nguy hiểm của triều Tống, biết phương pháp bọn họ áp dụng chính là ràng buộc.
- Phương pháp gà gạo sao? Hai con mắt của Dương Nghĩa Trinh đăm đăm nói: - Mẹ của y ngươi đừng có ba hoa chính chòe chứ?
- Chính là ý lôi kéo khống chế. Dương Thế Đạc cười khổ nói: - Bọn họ có khi sẽ dụ dỗ, có khi sẽ dùng vũ lực đàn áp, nhưng đều là một mục đích, khiến bộ phận Phiên nằm trong trạng thái khống chế. Nói trắng ra là, chính là hy vọng nhìn thấy nội bộ của chúng ta chia năm sẻ bảy, mà không muốn thấy giang sơn thống nhất một nhà.
- Sớm nói như vậy thì xong rồi. Dương Nghĩa Trinh nói một câu vào mặt y nói: - Chiêu này không mới mẻ, bọn ta cũng đã dùng.
- Đúng là như vậy, chiến thuật tùy cơ ứng biến, lớn tới Quân vương, nhỏ tới chư hầu, đều có thể dùng đến. Dương Thế Đạc gật đầu nói: - Người triều Tống rất cần chúng ta, đến cân bằng lại cục diện của Đại Lý…không phải là vì Đoàn thị, mà là vì Cao gia.
- Cao gia?
- Vâng! Dương Thế Đạc gật đầu nói: - Thuộc hạ vẫn khuyên chủ công, Cao gia thống nhất ba mươi bảy bộ Ô tộc, sức mạnh đã vượt qua toàn bộ Bạch tộc. Bọn họ cho dù ủng hộ chúng ta tiêu diệt Đoàn gia, cũng chỉ là mượn đao giết người, sớm muộn gì cũng có thể hạ thủ với chúng ta.
- Chuyện quá khứ thì không cần nhắc tới nữa. Dương Doãn Hiền bực bội xua tay một cái nói: - Ta cũng hối hận tới xanh ruột rồi.
- Người triều Tống đã ở Đại Lý mấy tháng, khẳng định vô cùng hiểu rõ điều này. Dương Thế Đạc bình tĩnh nói: - Lần này, nội chiến của Bạch tộc ta, tổn thất thê thảm và nghiêm trọng. Hơn nữa không thể đối kháng với Ô tộc. Nếu triều Tống muốn nắm giữ vững chắc Đại Lý trong tay, nhất định sẽ giúp đỡ lực lượng Bạch tộc của ta. Nếu chúng ta biểu hiện lời nói thành ý, bọn họ không thể lại làm khó chúng ta, ngược lại sẽ giúp chúng ta khôi phục sức mạnh. Ngừng một lát nói: - Tương lai, ngầm đồng ý chúng ta thâu tóm Đoàn gia, cũng không phải là không được.
Lời này khiến Dương Doãn Hiền có chút động lòng, suy nghĩ một lúc lâu, cuối cùng gật đầu sâu nói: - Thế Đạc, phiền ngươi đi thành Đại Lý một chuyến.
- Chỉ sợ thành Đại Lý vô dụng, phải đi Phủ Thiện Xiển. Dương Thế Đạc nói.
- Ồ! Cũng đúng! Dương Doãn Hiền gật đầu nói: - Đi thôi, tương lai của Dương gia ta, toàn bộ trông cậy vào ngươi rồi.
- Chủ công nói quá rồi. Dương Thế Đạc vội nói: - Thuộc hạ cũng là người Dương gia, hiển nhiên dù tan xương nát thịt, sẽ không tiếc.
- Thấy chưa? Dương Doãn Hiền nói với con trai: - Đây chính là chỗ dựa vững chắc cho tương lai của con. Nếu muốn làm gia chủ tốt, việc đầu tiên, chính là tôn trọng Thế Đạt thúc của con.
- Phụ thân. Dương Nghĩa Trinh lại không hiểu nói: - Con làm gia chủ, cha làm cái gì?
- Ha ha ha! Xuất quân chưa thắng thân chết trước, chiến trường khiến nước mắt anh hùng đầy áo. Dương Doãn Hiền cười ha hả, trong tiếng cười lại tràn đầy vẻ thê lương nói: - Đứa con ngốc, con cảm thấy, ta vẫn còn sống được sao?
- Vì sao không thể sống? Dương Nghĩa Trinh phát hiện trên mặt của Dương Thế Đạc, đang chảy xuống hai hàng nước mắt, mới biết phụ thân không phải là đang nói đùa, giật mình nói: - Không phải nói, đầu hàng triều Tống thì không sao ư?
- Triều Tống không truy cứu chúng ta, chúng ta sẽ không sao ư? Dương Doãn Hiền cười khổ nói: - Khởi binh từ trước tới nay, người trong gia tộc chết thê thảm, sự tích góp nhiều năm trong gia tộc sẽ không còn lại gì. Vậy gia đình của những binh sĩ đã chết không hận Dương gia chúng ta sao? Vì sự nghèo khổ đó mà người ta ăn đói mặc rét, không hận Dương gia chúng ta sao? Nói xong thở dài một tiếng nói: - Nếu ta không lấy cái chết tạ tội, Dương gia sẽ mất lòng người, mà đã mất đi lòng người rồi, thì sẽ cách thất bại không xa đó!
Ngày thứ hai, Dương Thế Đạc mang theo cờ trắng, xuất hiện ở trước Long Thủ quan.
Sau khi nói rõ ý đồ, y được đưa vào trong quan bằng giỏ treo, cũng lần đầu tiên nhìn thấy, quan viên Đại Tống chặn Dương gia ở bên ngoài quan một trăm ngày.
Nhìn thấy những người đó chỉ là những chàng trai hơn hai mươi tuổi, Dương Thế Đạc dường như không dám tin vào mắt của mình, nhưng sau khi nói chuyện với nhau, y liền không có ý khinh thường, không khỏi ngầm cảm thán. Đại Tống quả nhiên là Thiên triều thượng quốc địa linh nhân kiệt, giống như người thanh niên xuất sắc này, ở Đại Lý một người cũng không thể tìm ra.
Sau khi hiểu được ý đồ của y, đám người của Vương Thiều hiển nhiên phải xin chỉ thi của Vương Khuê ở thành Đại Lý… Vương Khuê và Phạm Trấn là cùng cấp bậc, vả lại đều là Khâm sai, thật đúng là khó mà nói ai tốt. Tuy nhiên Vương Khuê có phong thái điềm tĩnh, để cho bọn họ phái thị vệ mang Dương Thế Đạc tới phủ Thiện Xiển, do Phạm phụ tử quyết định.
Biết sự việc quan trọng, vừa sợ nửa đường có người hãm hại, đám người của Vương Thiều để Dương Thế Đạc cạo râu, thay đổi trang phục của cấm vệ Đại Tống. Sau đó hộ tống Tống đại nhân Tống Đoan Bình, đi tới đại doanh của quân Tống của Đông Xuyên báo cáo công việc.
Trên đường không nói chuyện, sau năm ngày tới quân doanh của Đông Xuyên, chỉ thấy nơi này đã biến thành một khu đất rộng khí thế ngất trời.
Từ xa nhìn lại, quân doanh dựa vào núi, cạnh nước. Dưới sườn núi, vô số quân sĩ cởi trần đang đào đất, Những khu đất được đào men theo triền núi uốn lượn lên, không ngờ một cái nhìn không thể thấy bờ.
- Trời ơi! Cái này là Vạn Lý Trường Thành sao? Nhìn cảnh tượng này ngay cả Tống Đoan Bình đều hết sức kinh ngạc.
- Đây đâu phải là sửa binh doanh, đây rõ ràng là xây thành. Dương Thế Đạc lại ngấm ngầm líu lưỡi nói: - Công trình lớn như vậy, xem ra người Tống là muốn ở lại không đi rồi…
Đội quân đến gần rồi, liền thấy một hàng rào gỗ, chướng ngại vật, hàng rào ngăn chặn to lớn của doanh trại truyền thống chắn ngang trước mắt, phòng giữ nghiêm ngặt.
Sau khi thanh minh thân phận, vệ sĩ đi vào bẩm báo. Qua một lúc lâu, mới có một người lính ra chào đón.
- Tống Tuyên Tán, đại soái cho mời. Người lính chắp tay lên nói.
Sau khi từng tốp một vào, Tống Đoan Bình dẫn theo Dương Thế Đạc, tới đại doanh trại tham kiến Phạm Trấn.
Phạm Trấn thấy bọn họ thân mật tiếp đón, tỏ ra khen ngợi với thái độ của Dương gia. Nhưng tới cuối cùng không đáp ứng được, lại nói phải chờ mọi người tới đông đủ đã, rồi thảo luận. Liền đã sắp xếp buổi tiệc chiêu đãi hai người, Tống Đoan Bình đã nhìn một đám văn võ ngồi cùng nhau, nhưng không thấy bóng dáng của Trần Khác, không khỏi ngầm thấy kỳ quái, lại sợ có cái gì kiêng kị, đành nhịn không hỏi.
- Nhất định là muốn hỏi Trọng Phương đi đâu rồi. Phạm Trấn cười nói: - Tên này mấy hôm nay, cùng mấy quan viên được điều tới từ nội địa của hắn, đều ăn ở trong công trường, nói là muốn quy hoạch thành Đông Xuyên trong tương lai. Nói xong ông cười gượng: - Lão phu cũng đã đi tham gia náo nhiệt, nhưng thực sự không hiểu bọn họ đang nói cái gì.
Ăn cơm xong, Tống Đoan Bình liền đi tới công trường phía sau trại tìm Trần Khác. Dương Thế Đạc muốn tận dụng khả năng tìm hiểu người Tống, mặt dày mày dạn muốn đi theo. Tống Đoan Bình vốn không muốn để y đi, nhưng quan viên trước đó tới đón lại nói không sao.
Dương Thế Đạc liền vội vàng đi theo, đi tới một công trường bận rộn, y nhìn thấy, công trường bị mấy con đường cứng chắc đen sẫm đan chéo vào nhau, phân chia thành nhiều khu vực. Có khu vực là lò vôi sống đã thành phiến, đang cuồn cuộn cột khói đen ngút trời. Có khu vực, thì bày biện hơn một nghìn cái khuôn đúc, có thợ thủ công mang vật màu xám sền sệt gánh đổ nghiêng vào. Có chỗ, thì bày những tấm đá phiến hình chữ nhật đã được đúc xong, đang chờ sử dụng …Đúng vậ không hoa mắt, những đá phiến rắn chắc này, chính xác là được tạo thành từ khuôn đúc đổ bê tông, giống như làm đậu hũ.
Y còn chứng kiến vô số ròng rọc, đòn bẩy, tạo thành dụng cụ tinh xảo, dễ dàng mang những tấm đá nặng đó, vận chuyển tới các nơi ở công trường . Sau đó đám thợ thủ công, giống như xếp gỗ, lắp ráp lại với nhau. Một hình mẫu cơ bản của ngôi nhà rất nhanh liền được hình thành.
Trên đường đi tới, Dương Thế Đạc đều than phục đến chết lặng, đến cuối cùng trong lòng chỉ có một ý niệm trong đầu. Đó chính là Thiên triều thật sự quá vĩ đại rồi. Sinh thời, nhất định phải đi triều Biện Kinh cúng lễ một phen.
Vô tình, đã đi tới gần một khu đất bằng phẳng gần đỉnh núi, chỉ thấy chòi nghỉ mát dùng chiếu phủ lên, có mấy quan viên triều Tống đang đứng. Người trẻ tuổi cầm đầu mặc áo bào màu thẫm, đúng là Trần Trọng Phương trạng nguyên Đại Tống mà y đã từng gặp.
Vừa nhìn thấy Tống Đoan Bình, Trần Khác liền cười lớn chào đón, hai người vỗ bả vai của nhau thân mật. Tống Đoan Bình giới thiệu Dương Thế Đạc ở bên cạnh cho hắn. Nghĩa là, dù thế nào cũng đừng nói lỡ miệng.
Trần Khác lại vô tư cười vang nói: - Sớm nghe nói Dương quân sư có danh xưng là Đại Lý đệ nhất trí giả, tới rất đúng lúc a. Đây là bản vẽ sửa chữa ngày hôm nay của thành Đông Xuyên, mau thử góp ý giúp chúng ta.
Dương Thế Đạc tuy trên miệng ngay cả gọi cũng không dám, nhưng đôi mắt lại trừng lên.
Trần Khác lại giới thiệu quan viên bên cạnh mình cho bọn họ. Người tầm ba bốn mươi tuổi kia, thân hình cao lớn gọi là Tô Tụng, tự Tử Dung, đảm nhiệm Quán Các Giáo Khám. Một vị khác mặt trắng thấp bé gọi là Thẩm Khát tự là Tồn Trung, mới đảm nhiệm Tri huyện Thuật Dương Hải Châu, đều được Trần Khác điểm tướng, không hiểu sao đi theo hắn xuống phía Nam.
Lúc đầu hai người còn có chút mâu thuẫn, dù sao thì một người là Thiên đường trần gian, một người làm quan ở kinh thành. Ngày trôi qua đều rất dễ chịu, lại không hiểu sao phải nhập ngũ nam chinh, đổi là người khác đều có thể có cảm xúc. Nhưng sau khi gặp mặt, Trần Khác đã tuyên bố nhiệm vụ của bọn họ - nối liền đường thủy của sông Bắc Bàn Giang và sông Hồng Thủy, đồng thời bảo bọn họ khi công trình vô cùng khó khăn, hai người đều phải đến với tinh thần hăng hái.
Điều này làm cho quan viên bên cạnh Trần Khác không hiểu, làm sao còn có người, càng nghe thấy việc kỳ lạ khó xử thì vui vậy? Đối với cái này, Trần Khác chỉ có thể mỉm cười trả lời: - Các ngươi không hiểu sự khó chịu của quan liêu kỹ thuật …
Triều Đại Tống, thậm chí hai nhà khoa học thông minh vĩ đại nhất của lịch sử cổ đại Trung Quốc, làm sao người bình thường có thể giải thích được?
Hai người Tô Tụng và Thẩm Quát tòng quân xuất chinh, dọc đường thăm dò đường thủy, nghiên cứu thảo luận phương án thi công, chờ đến khi tới Đông Xuyên, đã đề ra một kế hoạch kỹ càng. Nhưng Trần Khác lập tức đưa cho bọn y nhiệm vụ mới, thiết kế quy hoạch cho thành Đông Xuyên tương lai.
- Đông Xuyên không chỉ là quân doanh của Đại Tống ta, cũng không chỉ là trung tâm khai thác mỏ, trung tâm sản xuất tiền trong tương lai, mà hơn thế nữa là biểu thị sức lực hùng mạnh của Đại Tống ta tới Đại Lý, vũ đài của nền văn minh vĩ đại. Đối với sự mong đợi của thành phố này, Trần Khác nói thế này: - Muốn cho thành phố này, có sức hút giống như một cục nam châm, thu hút người Đại Lý, người Đại Tống, thậm chí người Xiêm La, Myanma tới đây sinh sống. Không chỉ là vì mỏ đồng, mỏ bạc, mà là vì chính thành phố này.
Trên thế giới có hai loại người thành công vĩ đại nhất, một là chính khách kiêu ngạo, ngông cuồng, một là nhà khoa học điên cuồng. Sau khi hai loại người này tề tựu được với nhau, chính là cảnh tượng này ngay trước mắt.
Đầu tiên là lựa chọn địa điểm thành phố, Trần Khác yêu cầu hết sức hà khắc. Hắn cho rằng lựa chọn địa điểm thành phố, đầu tiên phải lấy sức khỏe của cư dân làm trọng.
Thẩm Quát và Tô Tụng liền dựa theo yêu cầu của hắn, đưa ra điều kiện lựa chọn cụ thể: nơi nên làm là bãi đất, không khói không sương, khí hậu ôn hòa, không lạnh cũng không nóng, hơn nữa còn phải tránh gần chỗ đất đầm lầy. Bởi vì sáng sớm lúc mặt trời mọc gió nhẹ thổi qua thành phố, nếu sương mù mà gió nhẹ mang tới hòa với sương mù của đầm lầy, khí độc của sinh vật ở đầm lầy sẽ bay tới trên người của cư dân. Thời gian dài tất nhiên sẽ dẫn tới phát sinh dịch bệnh. Điểm này, ở Đại Lý có thể nói rất quan trọng, vì vậy tỉnh Vân Nam thời kỳ này, khắp nơi tràn ngập khí độc, nơi ẩm ướt phát sinh muỗi A- nô- phen.
Ngoài cái đó ra, còn phải suy xét tính an toàn, giao thông tiện lợi, không gian thành phố và các nhân tố khác.
Đây là nguyên nhân lúc người Tống tuyên bố, đã khiến Cao Thăng Thái phát điên – điều kiện thật sự rất hà khắc.
Sau nhiều chọn lựa, cuối cùng đã chọn vị trí nằm ở phía trên đập Lâm Giang của phía bắc phủ Thiện Xiển, xây dựng thành Đông Xuyên tương lai.
Sau khi tuyên chỉ, là quy hoạch với thành phố cụ thể. Dựa vào sự hiểu rõ về Tô Tụng và Thẩm Quát, đơn giản chính là thiết kế tường thành, sắp xếp đường đi và phân chia trong khu vực thành. Nhưng Trần Khác đề xuất, điều kiện vệ sinh bên trong thành cũng rất quan trọng, vì thế hắn đưa ra ba yêu cầu: không làm ô nhiễm hệ thống dẫn nước, đường thoát nước thông suốt và nhà tắm công cộng và nhà vệ sinh đầy đủ.
Vì để thành Đông Xuyên phù hợp với yêu cầu của tương lai, Trần Khác cũng tự mình gia nhập hàng ngũ người thiết kế. Trải qua hơn mười ngày thảo luận kịch liệt, hôm nay cuối cùng đã sửa bản thảo rồi.
Hiện giờ hiện ra trước mắt Tống Đoan Bình và Dương Thế Đạc, là một thiết kế thành phố khối lập thể. Ngoài đường phố, quảng trường, đường sông, thiết kế quảng trường trong khái niệm thông thường của bọn họ ra ra, còn có kênh dẫn nước cạn cao nối trên không trung… Đây là thiết kế của thành phố ở bãi đất cao, nhất định phí tổn phải trả cao. Mà thành thị trong Đại Tống, để dẫn nước thuận tiện, phần lớn xây ở chỗ thấp, các loại tệ nạn vì vậy mà phát sinh.
Nước của sông Bắc Bàn Giang, thông qua kênh dẫn nước trên cao, sau khi dẫn nước vào thành phố, mang tích ở tháp chứa nước. Sau khi lắng đọng, thông qua mương máng của đường dẫn phân phối tới các nhà vệ sinh công cộng, nhà tắm và trong hộ gia đình của thành phố.
Thoát nước lại ở trong lòng đất, giống như mạch mước bình thường. Đường thoát nước nhất định cao tới mười thước, ngoại trừ thải chất ô nhiễm ra ngoài còn có hiệu quả trong việc chắn lũ.
Được thiết kế trên cơ sở khiến mọi người vô cùng chấn động, đó là thiết kế con đường, đường phố, kênh đào, nha phủ, chợ, doanh trại binh lính, trường học…tất cả những thứ quen thuộc với bọn họ.
- Thế nào, có ý kiến gì cứ việc nói. truyện copy từ tunghoanh.com Sau khi đợi hai người xem xong bản vẽ, Trần Khác cười hỏi.
- Rất rất… rất chấn động. Dương Thế Đạc chấn động đến mức lời nói không lưu loát, bút tích của triều Đại Tống đã vượt qua sự tưởng tượng của y: - Ta rất rất…rất hi vọng nhìn thấy dáng vẻ của thành phố này xây dựng lên rồi.
- Phí tổn, ngươi suy nghĩ tới phí tổn chưa? Tống Đoan Bình lại bình tĩnh nói: - Muốn xây dựng thành phố như vậy, cần bao nhiêu gỗ, bao nhiêu đá, bao nhiêu nhân lực, bao nhiêu thời gian? Hàm ý, có phần thích đao to búa lớn rồi.
- Chi phí không quá nhiều. Trần Khác cười nói: - Chính là bốn mươi nghìn binh lính trong tay ta. Một mùa đông, đầu xuân sang năm có thể nhìn thấy mô hình của thành phố này.
- Làm sao có thể nhanh như vậy? Tống Đoan Bình không tin liền nói.
- Không tin vậy thì đánh cuộc. Trần Khác cười nhìn bạn đồng hành nối khố với mình nói.
- Đánh cuộc thì đánh cuộc! Tống Đoan Bình cười nói: - Ta lại muốn chờ xem xem, cuối cùng là thành Kỳ Tích, hay là thành Ngưu Bì (khoác lác).
Đại Tống năm Gia Hựu thứ hai, Đại Lý mùng hai tháng chín năm Chính An thứ năm …..
Vừa sáng sớm, thủ quân Long Thủ quan bắt đầu nhóm lửa nấu cơm. Mặc dù đồ dự trữ của thành Đại Lý đầy đủ, quan viên cấp lại có thói quen cắt xén quân lương. Thế cho nên các chiến sĩ hăng hái chiến đấu đẫm máu thường ở vào trạng thái đói khát. Tình hình này, mãi cho tới khi Tăng Bố tiếp nhận tiếp tế hậu cần, mới đạt được chuyển biến tốt đẹp.
Lương thực lấy được trong tay đã thiếu, Tăng Bố liền trực tiếp tới thành Đại Lý tìm Đoàn Tư Liêm, yêu cầu y bổ sung đầy đủ mức yêu cầu. Trên mặt Đoàn Tư Liêm tối sầm lại, hiển nhiên phải sắp xếp quan viên đi xử lý. Thường xuyên qua lại, mới không còn ai dám cắt xén quân lương của tiền tuyến, các tướng sĩ mới có thể ăn cơm no.
Đương nhiên, thức ăn vẫn có chút khác biệt. Ví dụ như sáng sớm, binh lính Đại Lý ăn nước canh cùng với bánh ngô đen. Nhưng binh lính triều Tống và quan quân Đại Lý, lại có trứng gà và cơm ăn, thỉnh thoảng còn có thịt muối gà sấy khô. Sau khi thân quen, binh lính Đại Lý thường trong lúc này, tới đây hạch tiền.
Đúng lúc binh lính hai tộc đang ngồi cùng một chỗ ăn cơm đánh rắm, kheo khoang các cô gái của bộ tộc mình, thì binh lính canh gác đột nhiên kích động nhảy dựng lên, hét lớn: - Mau nhìn trong doanh trại quân phản loạn.
Bọn lính nghe vậy, không hẹn mà cùng vọt tới bên tường thành nhìn xung quanh. Quân Tống nhìn mà không hiểu ra sao, quân Đại Lý lại kích động quát to lên: - Phản quân đầu hàng đi, phản quân đầu hàng đi!
Quân Tống mở to hai mắt nhìn, cũng chỉ phát hiện lá cờ to đó có viết chữ “Dương” trong doanh trại phản quân, hôm nay đổi thành một cờ hàng. Bọn họ không biết tục lệ của người Đại Lý, một bên treo cờ như vậy, chính là tuyên bố bỏ qua chống cự, chuẩn bị đầu hàng rồi.
Tiếng hoan hô của đại quân trên thành như sấm động. Dương thị đầu hàng, điều này đối với quan viên trên tiền tuyến mà nói, mang ý nghĩa giải thoát và tái sinh! Binh lính Bạch tộc cuối cùng không cần phải huynh đệ tương tàn. Cấm quân của Đại Tống cũng có thể trở về Biện Kinh rồi!
Trên Long Thủ quan tiếng hoan hô rung trời, bọn quan binh không phân biệt được chủng tộc, nhảy nhót kêu la sung sướng, ôm nhau chúc mừng.
Quan quân Đại Lý mang tình hình bẩm báo với Vương Thiều. Vương Thiều lo lắng có lừa dối, lệnh cưỡng chế binh lính tăng đề phòng nghiêm ngặt, không được lơ là sơ suất, ví dụ giả hàng đã gặp nhiều ở binh thư rồi, y không thể không đề phòng.
Tuy nhiên sự phát triển tiếp theo của sự việc, cũng không có những điều không bình thường xuất hiện, Dương gia trình thư xin hàng, biểu thị nguyện ý lập tức giải trừ tình trạng chiến tranh, chấp nhận có điều kiện ngưng chiến. Quân phòng thủ không dám lạm dụng chức quyền, ra roi thúc ngựa mang tin tức này thông báo tới thành Đại Lý.
Ngày hôm sau, ý chỉ mới nhất đã tới. Quân đội Dương gia bất động tại chỗ, cha con Dương Doãn Hiền đến thành Đại Lý đầu hàng.
Mang ý chỉ truyền tới đại doanh của Dương gia không lâu sau, Dương Nghĩa Trinh và Dương Thế Đạc liền suất lĩnh hơn mười quan văn võ cấp cao của Dương gia, chỉ mang hơn một trăm người cưỡi ngựa bảo vệ, đã tới dưới Quan Thành.