Cùng chung kẻ thù thì đều đứng vào một trận tuyến, một đám nghiến răng nghiến lợi, hận không thể đem tên khởi xướng ra sự việc băm thây thành vạn đoạn. Bọn họ đều kêu la phải truy xét đến cùng, không cho tên kia có khả năng tiếp tục làm ác!
Trần Khác chọn đúng thời điểm chỉ dẫn cho bọn họ, một là phải cẩn thận kiểm chứng, truy rõ ngọn nguồn lời đồn, hai là có thể đoán xem ai không vừa mắt với công trình sông Hồng Thủy, xem ai có khả năng làm nhất.
Hắn vừa nói, trong lòng các thủ lĩnh lập tức hiện ra một thân ảnh. Mấy tháng này sứ giả Cao gia lui tới các trại, yêu cầu bọn họ gây rắc rối cho công trình sông Hồng Thủy, nhưng mọi người không đáp ứng. Được, đây có phải là muốn trừng phạt chúng ta? Đúng là nhất tiễn hạ song điêu! Cao gia thật độc ác!
Các thủ lĩnh trên danh nghĩa là một phần của Cao gia, không tiện nói rõ, nhưng trong lòng cũng ân cần hỏi thăm qua phụ tử Cao Trí Thăng hết lần này đến lần khác!
Hoàng A Phúc lại thổi phồng lên việc Trần Khác có tiên pháp giúp miễn dịch lại loại ôn dịch này, vì thế các thủ lĩnh đều thỉnh cầu Trần Khác thi pháp giúp cho tộc nhân của mình, phù hộ cho bọn họ tránh thoát khỏi ôn dịch.
Trần Khác rất sung sướng đáp ứng, cũng tỏ vẻ sẽ làm miễn phí, không thu tiền, làm cho các thủ lĩnh đều rất cảm kích, rồi lại xấu hổ không chịu nổi… Đại nhân vẫn giữ nguyên tính tình chất phác như vậy, lúc trước chúng ta còn tin tưởng lời đồn, uy hiếp đình công mà cảm thấy rất ngượng ngùng.
Trần Khác tỏ vẻ rộng lượng hiểu cho tâm tình của bọn họ, cũng không nhìn bọn họ với ánh mắt khác, lại lưu bọn họ ở trong doanh mở tiệc vui vẻ mấy ngày, khi trở về đều có quà lớn quà nhỏ cho mỗi người đến vài xe. Cách xử lý như vậy thì cho dù là thép cứng bách luyện cũng trở thành mềm dẻo, huống chi bọn họ vốn đã vô cùng tin phục Trần Khác?
Từ nay về sau, hơn trăm bộ tộc ven sông Hồng Thủy khăng khăng một mực quy thuận triều đình, không nghe theo sự chỉ huy của Cao gia nữa. Cao Thăng Thái tự mình đến nhà thăm hỏi, muốn xoay chuyển lại lòng của bọn họ đều không công mà về. Thậm chí có bộ tộc tính tình nóng nảy còn trực tiếp lấy dao ra chém người, làm cho thế tử gia hoảng sợ chạy bừa, trốn xuống núi.
Hắn không thể hiểu được, vì sao mình chỉ rải chút lời đồn thôi mà những bộ tộc đã phục tùng nhiều thế hệ như vậy lại hoàn toàn trở mặt với Cao gia? Chẳng lẽ bọn họ thực sự tin lời Trần Khác, tưởng Cao gia phóng thích ôn dịch?
Thực sự thì tin hay không căn bản cũng không quan hệ, mấu chốt ở chỗ các bộ tộc này lấy cớ đó để phản bội lại Cao gia.
Mà bọn họ vì sao lại phải phản bội? Đạo lý cũng rất đơn giản, Cao gia thống trị bọn họ hơn trăm năm, chỉ biết bóc lột, chưa cho bọn họ ưu đãi nào bao giờ. Mà triều Tống, nhất là Trần đại nhân lại liên tục cho bọn họ ưu đãi không ngừng, lại không bắt bọn họ phải trả giá thứ gì.
Khi bọn họ nhìn thấy một loạt hành động của triều Tống, xác định quân Tống sẽ thường trú ở Đại Lý, phản bội Cao gia quay sang đầu phục triều đình, chẳng qua chỉ cần một cái cớ mà thôi…
Tháng tư năm Gia Hựu thứ ba, công trình sông Hồng Thủy được hoàn thành. Năm chiếc thuyền đáy bằng có trọng tải hai trăm liệu (khoảng 65 tấn) đi theo đường thuỷ từ bến tàu Đông Xuyên xuôi dòng xuống, năm ngày sau cập bến Ngô Công tháo dỡ hàng hóa trên thuyền lên xe. Do vận chuyển bằng đường bộ nên chẳng mấy chốc đã đi được ngoài trăm dặm, đến nơi đã có sẵn hai chiếc thuyền trọng tải năm trăm liệu (162,5 tấn) nằm chờ ở đó đã mấy ngày. Hàng hoá được chuyển lên thuyền, từ đó thuận buồm xuôi gió chỉ mất bốn ngày đã đến được Ngô Châu - Quảng Tây.
Bởi vì từ Ngô Châu đến Khâm Châu còn có một đoạn kênh đào sáu dặm đang tiến hành mở rộng, đào sâu để cho thuyền lớn có thể di chuyển, cho nên tạm thời cần vận chuyển trên lục địa dọc theo đường núi thông qua Thiên Môn quan đến thành Khâm Châu. Ở cảng Khâm Châu đã có sẵn thuyền biển trọng tải lên đến vạn liệu, có thể vận chuyển đi khắp cả nước.
Trước mắt còn cần vận chuyển qua hai lần thuỷ bộ nữa, nhưng cả hành trình cũng chỉ cần hai mươi bảy ngày. Khi trở về điểm xuất phát thì không cần lo lắng vì phải đi ngược dòng, cũng chỉ mất bốn mươi tám ngày mà thôi, như vậy cũng đã khiến thời gian tiêu tốn rút ngắn được mấy lần.
Hơn nữa công trình còn vẫn chưa hoàn thành, theo kế hoạch, sang năm thứ hai thì tuyến đường hàng hải mới được thông suốt. Hàng năm cứ đến mùa khô hạn sẽ tiến hành gia tăng tu sửa, gìn giữ vận tải đường thuỷ, đồng thời nghiên cứu gia tăng khả năng thông suốt cho đường thủy, giúp cho nhiều tàu thuyền lớn hơn nữa vẫn có thể an toàn đi qua.
Tất nhiên, dù cho sang đến năm thứ hai, số lượng dân phu cần thiết cũng sẽ không quá hai mươi ngàn người, những năm sau chỉ cần không đến mười ngàn người, không cần nhiều người giống năm đầu tiên như vậy… Công trình sông Hồng Thủy này là một dự án to lớn, tốn thời gian ngắn, khi xây dựng thành công mang lại tác dụng vô cùng to lớn, được đời sau ca tụng mãi. Nhưng lịch sử thường thường sẽ quên đi, vì hoàng kim thủy đạo ở giữa núi non trùng điệp này, mà có bảy trăm ba mươi dân phu cùng với bảy quan viên hy sinh tính mạng của mình, hoặc là bị trọng thương mất đi khả năng lao động.
Có lẽ hoàng thượng và triều đình nhìn nhận, ở Đại Lý chướng khí dày đặc, xây dựng cải tạo công trình to lớn như vậy là vô cùng nguy hiểm, chết gần một ngàn người chỉ là chuyện bình thường. Tuy vậy Trần Khác lại cảm thấy tự trách rất nhiều, nếu không phải do mình thúc giục hoàn thành nhanh thì số lượng người chết sẽ giảm đi nhiều.
Để an ủi người chết, cũng là để làm cho mình an tâm, hắn đề nghị ba việc. Thứ nhất, đưa tất cả di hài dân phu gặp nạn trở về quê hương. Thứ hai, người gặp nạn hoặc tàn tật đều nhận được tiền an ủi, chăm sóc. Hắn lấy tuổi sáu mươi trừ đi tuổi lúc gặp nạn, nhân với thu nhập một năm của nam nhân Quảng Tây – Hồ Nam – trả năm mươi quan tiền. Thứ ba, tại vị trí khởi điểm bắt đầu thực hiện công trình sông Hồng Thủy, hắn lập một tấm bia đá to, kỷ niệm những người đã hi sinh tính mệnh và tất cả dân phu.
Điều làm cho hắn không thể dự đoán được, ba đạo mệnh lệnh của hắn đều bị phản đối. Đạo thứ nhất thì quan viên cho rằng lượng công việc quá lớn, theo lẽ thường thì đưa thi thể vùi lấp ngay tại chỗ, chỉ đưa văn bản cho quan phủ địa phương thông báo một tiếng là được. Đạo thứ hai thì bọn họ cho rằng như vậy sẽ tiêu hao đi hàng triệu quan. Đạo thứ ba thì lập bia cho bảy tên quan viên, bọn họ không có ý kiến, nhưng lập bia cho dân phu thì không được, chẳng những việc đó trái với lẽ thường mà còn là ngại tới việc mua lòng người.
Cùng với bọn quan viên làm việc, cùng nhau đi tới hôm nay không dễ dàng, Trần Khác cũng không muốn cùng bọn hắn náo sự, tuy vậy hắn cũng ý thức được chính mình không ổn… Cấp cho bọn dân phu tiền công đã gây ra một trận ồn ào huyên náo, cả Tô Thức và Âu Dương Tu đều viết thư đến trách cứ hắn không cho người khác mặt mũi. Lúc ấy còn có lý do “Trọng thưởng cao thì mới có dũng phu”, hiện tại công trình chấm dứt, nếu như làm như vậy, tuyệt đối sẽ làm cho đủ loại quan lại trong thiên hạ chán ghét cùng cực.
Hắn đành không tiếp tục kiên trì tự mình làm, mà bí mật thượng tấu, mời hoàng thượng ban xuống ý chỉ gia ân, cũng là lời ám chỉ, gợi ý rằng các phương diện Đông Xuyên còn dư thừa, tất cả đều lấy ban cho người dưới, không cần triều đình hao tâm tổn sức…
Hắn lại đánh giá thấp sự nhân từ của Triệu Trinh, rất nhanh liền có ý chỉ ban xuống, không chỉ ba việc như hắn đề xuất mà còn cho bọn quan viên hy sinh được truy phong, con cái cũng được phong quan, tất cả số tiền để ban thưởng tồn trong phiếu gửi tiền ở tiền trang Biện Kinh đều được khâm sai tuyên chỉ mang đến luôn. Qua đó có thể thấy được triều đình tiếp thu ý kiến mới rất tốt.
Nếu hoàng thượng đã hạ chỉ, bọn quan viên tất nhiên không còn lời nào để nói, nhưng trong lòng vẫn đối với Trần Khác không thể giải thích vì sao… Ôi, làm gì mà phải làm những việc thừa như vậy… Vào tháng sáu, ở Đông Xuyên diễn ra nghi lễ khánh thành “Bia kỷ niệm công nhân kênh đào”, ngoại trừ quan viên thành Đông Xuyên, vương công Đại Lý cũng tham gia vào nghi lễ.
Ngày đó trên quảng trường phần lớn là quân dân đến xem lễ, ngước nhìn trụ đá cẩm thạch màu trắng cao ba trượng. Tất cả mọi người bị khí thế trang trọng bao phủ, bọn dân phu từng tham dự tu sửa dòng sông thậm chí nước mắt lưng tròng, đời này lần đầu tiên cảm nhận được cái gì gọi là được tôn trọng...
Nghi thức là do triều đình cử khâm sai tới chủ trì, Trần Khắc cáo ốm vẫn chưa xuất hiện, hắn ở chỗ tháp cao nhất dùng kính viễn vọng theo dõi cảnh tượng này.
Bên cạnh hắn, Diệu Hương Công chúa xinh xắn đứng thẳng, chiếc ngọc bội kêu leng keng. Nàng đáp ứng lời mời tham gia nghi thức, nhưng khi biết Trần Khắc vắng mặt liền trực tiếp đi tìm đến chỗ của hắn.
- Ta thật không hiểu đại nhân, Nàng không hiểu sao Trần Khắc bỏ ra nhiều công sức như vậy nhưng đến thời khắc mấu chốt lại trốn sang một bên: - Tại sao phải vì dân phu mà làm nhiều việc đến như vậy?
- Rất nhiều sao? Trần khắc hỏi ngược lại: - Triều đình mỗi lần ban thưởng cho quan lại đủ loại phần thưởng, lẽ nào bọn họ lao động vất vả nửa năm, thậm chí bỏ ra máu tươi và sinh mạng, thế mà tính ra vẫn kém hơn một lần quan lại ra ngoại thành dạo chơi? Đây có còn là đạo lý ko?
- Quan viên là chỗ dựa của đất nước. Diệu Hương Công chúa nói.
- Dựa vào bọn họ chỉ có thể mất nước... Trần Khác cười lạnh một tiếng, đột nhiên ý thức được thân phận của đối phương không thích hợp thảo luận vấn đề này nên thản nhiên nói: - Kỳ thật ta chỉ là làm cho mình an tâm thôi...
- Phàm là cưỡng bức lao động, chẳng lẽ không có người chết hay sao? Diệu Hương Công chúa ánh mắt phức tạp nhìn lên mặt hắn, trước đây luôn nghĩ hắn là một nam nhân hống hách, hiện tại mới phát hiện hắn có một mặt tình cảm như vậy. Nàng dịu dàng an ủi: - Bao nhiêu năm rồi đều như vậy, đã trở thành thói quen rồi.
- Ở trong lòng các người, đám dân phu chỉ như trâu ngựa, chết mất một đám này còn có một đám khác, một chút đau lòng cũng không có. Trần Khác liếc nàng một cái buồn bã nói: - Nhưng ta không có cách nào thoải mái như vậy, ta chỉ vừa nghĩ tới, sau lưng từng người chết đều có những người vô cùng thương tâm, cha mẹ, vợ con họ mất đi chỗ dựa, khi đó ta liền không thể nhắm mắt lại.
- Đại nhân có hảo tâm như vậy sao? Diệu Hương Công chúa thật lòng muốn an ủi, lại bị hắn hiểu thành lòng lang dạ thú, tự nhiên cảm thấy uất nghẹn. Vả lại nàng đối với Trần Khác lúc trước bội bạc, bỏ qua Dương gia, đến giờ vẫn còn canh cánh trong lòng, tự nhiên không muốn buông tha cơ hội làm nguôi cơn giận: - Như vậy đại nhân cũng sẽ không để cho dân chúng Đại Lý sống trong bóng ma chiến tranh như cũ chứ? Nàng và Trần Khác vẫn duy trì mối quan hệ hữu nghị, hiển nhiên biết Trần Khác là người thế nào, nên cũng không sợ đắc tội với hắn.
- Ha ha ha... Trần Khác lên tiếng cười nói: - Đánh tới đánh lui người chết đều là Bạch tộc, sớm chấm dứt thì không tốt sao? Với lại đại quân triều đình ở đây, Dương gia dám xằng bậy sao? Có cho bọn họ cũng không dám!
- Khi đại nhân đang ở đây thì ta còn yên tâm, nhưng đại nhân cũng không có khả năng ở lại Đại Lý cả đời. Đoàn Minh Nguyệt buồn bã nói.
- Nếu ta rời khỏi Đại Lý, Trần Khác suy nghĩ một chút, trầm giọng nói: - Hiển nhiên sẽ vẫn vì Đoàn gia nói chuyện.
Tuy rằng hắn nói lời này không đầu không đuôi, Đoàn Minh Nguyệt lại cảm thấy vui mừng, nhưng trên mặt nàng cũng không có biểu hiện gì. Nàng nói: - Không biết lời này của đại nhân có thể tin tưởng được bao nhiêu phần?
- Tin tưởng tuyệt đối. Trần Khác cười lớn, tay đặt lên vòng eo mảnh khảnh của Đoàn Minh Nguyệt nhẹ nhàng vuốt ve: - Ta cũng được coi như là một nửa con rể của Đoàn gia, sao có thể nhìn đại cữu ca bị người ta bắt nạt?
- Hứ, cái gì nửa con rể… Đoàn Minh Nguyệt phỉ nhổ, nhưng không có giãy ra, thân thể tựa vào đầu vai hắn, đôi mắt quyến rũ như tơ nói: - Ngươi là đồ quỉ biết nói không biết làm.
- Là ai biết nói không biết làm? Trần Khác cười to nói: - Tới thời điểm, chạy trốn còn nhanh hơn so với thỏ. Kỳ thật, hắn muốn nàng cũng không phải việc gì khó, nhưng Đoàn Minh Nguyệt thân phận rất đặc thù, hơn nữa còn có dã tâm lớn. Hắn không định đưa ra “mạng người” để người khác khống chế, phá huỷ tình thế cân bằng mà hắn bỏ ra bao nhiêu tâm huyết mới làm được.
- Mẫu phi ta khi còn tại thế có nói qua, có được dễ dàng, nam nhân cũng sẽ không quý trọng. Đoàn Minh Nguyệt cười khanh khách nói: - Dù sao cũng là người của ngươi rồi, Đại Lý còn ai dám đụng vào ta, đại nhân gấp làm gì?
- Yêu nữ này, Trần Khác bị nàng trêu chọc tức giận trong lòng, nếu không có hộ vệ phía sau đã sớm động tay động chân: - Nói đi, nàng muốn gì?
- Đừng nói như vậy, nói như vậy ta tổn thương. Đoàn Minh Nguyệt lại không cố kỵ, một bàn tay nhỏ bé ở trước ngực hắn vuốt ve, dịu dàng nói: - Ta nghe nói ở Đông Xuyên phát hiện một mỏ đồng rất lớn, cái này chắc là không phải chuyện ngẫu nhiên?
- Ha hả... Sờ nữa liền xảy ra chuyện thật rồi, Trần Khác đè tay nàng lại, nói : - Đúng là chuyện ngẫu nhiên, tại thời điểm luyện binh ta đốt mấy quả pháo lại nổ ra được mỏ đồng lớn.
Đoàn Minh Nguyệt cũng không phải kẻ ngu, nàng không tin sẽ có sự trùng hợp như vậy. Triều Tống cũng vừa thành lập xong phạm vi thế lực, nói tu sửa cũng vừa sửa xong, làm sao mà ngay lập tức đã phát hiện ra một mỏ đồng?
Hiển nhiên, triều Tống có một loạt hành động, đều là trăm phương ngàn kế, mục đích chính là mỏ đồng ở Đông Xuyên!
Chỉ cần suy nghĩ một chút, nàng liền hận đến ngứa răng... Lúc trước chính mình còn van cầu triều Tống xuất binh, không ngờ người ta đã sớm nhìn chằm chằm khối thịt béo này rồi. Hoá ra tất cả mọi người đều bị tên khốn khiếp này tính kế!
Nghĩ đến chính mình không tiếc hy sinh nhan sắc, giống như một kĩ nữ cầu xin lòng thương xót, trong mắt đối phương thì mình lại không khác gì kẻ ngu, Đoàn Minh Nguyệt liền hận không thể đem Trần Khác bằm thây vạn đoạn.
Đương nhiên, cũng chỉ có thể suy nghĩ một chút mà thôi, nàng vẫn còn phải tiếp tục lấy lòng hắn...
- Đại nhân, Đông Xuyên là lãnh địa của Đoàn gia chúng ta, trên đó phát hiện ra mỏ đồng, dường như cũng thuộc Đoàn gia ta? Nàng như con chim nhỏ, nép vào lòng ngực Trần Khác nói: - Triều đình không thể cứ trắng trợn khai thác như vậy.
- Hình như Đông Xuyên là lãnh địa của Cao gia? Trần Khác giả bộ hồ đồ nói: - Ban đầu là Cao gia hoạch định cho ta.
- Đó là của người phúc ta, Đoàn Minh Nguyệt lại lơ đễnh nói: - Đông Xuyên đúng là của Đoàn gia ta, có công văn do nhiều thế hệ của hai nhà xác nhận.
Thật sự Trần Khác chưa từng nghĩ tới sẽ độc chiếm mỏ đồng Đông Xuyên, đây là địa bàn trên lãnh thổ Đại Lý, Đoàn gia và Cao gia là hai đại địa đầu xà trong khe hẹp, nếu như làm cho bọn họ tức giận thì khẳng định sẽ xảy ra đại sự.
Huống chi sản lượng đồng của mỏ Đông Xuyên không phải là ít, cộng thêm giới hạn về kĩ thuật và nhân sự, trong thời gian mấy trăm năm khai thác không thể hết được, để cho bọn họ vì Đại Tống hỗ trợ khai thác đồng thì cũng tốt.
Với lại hắn cũng không lo lắng việc bọn họ sẽ uy hiếp đến sự an toàn của tiền tệ triều Tống. Bởi vì triều Tống có “Đại Tống Thông Bảo” là loại tiền tệ duy nhất lưu thông ở Đại Lý!
Đây không phải là triều Tống áp đặt cho Đại Lý, mà do vấn đề này tất nhiên phải tạo thành như vậy. Trước đây đã từng nói qua, Đại Lý có hàng hoá hết sức phong phú, đao kiếm, áo giáp, ngựa đều rất được hoan nghênh, tiêu thụ hàng hoá nội bộ cũng rất phát đạt. Hàng hoá lưu thông không tách rời tiền tệ, tuy rằng nước Đại Lý vẫn còn tồn tại mỏ đồng nhưng bọn họ vẫn bị lâm vào cảnh thiếu thốn tiền bạc.
Do Đại Lý là xã hội phong kiến, nên trên lãnh địa của lĩnh chủ thì lĩnh chủ có quyền lực tuyệt đối. Ngoại trừ Đoàn gia tạo thành ‘Thông Bảo’, Cao gia và Dương gia cũng từng chế tạo tiền đúc, nhưng ba nhà vẫn không chịu thừa nhận đồng tiền của đối phương. Hơn nữa kỹ thuật của bọn họ không giống nhau, cùng một loại giá trị tiền thì khối lượng cũng không đồng nhất, cho nên tiền đồng đúc ra không thể làm tiền lưu thông, chỉ có thể dùng phân lượng đồng để định giá sử dụng.
Kết quả duy nhất ba nhà chịu thừa nhận, đồng tiền duy nhất có thể lưu thông ở Đại Lý là Đại Tống Thông Bảo, nhờ thông qua mậu dịch mua bán xuất siêu mà chảy vào Đại Lý... Khiến cho tiền tệ của Đại Tống trở thành đồng tiền mạnh nhất, Đại Lý cũng không phải là cái lệ. Xung quanh Đại Tống như Nhật Bản, Triều Tiên, Ấp La, Bồ Cam và một loạt quốc gia khác đều có tình huống như vậy. Thậm chí có vẻ hùng mạnh như Liêu và Tây Hạ cũng không thoát khỏi hiện tượng tiền tệ nước mình thua kém tiền tệ Đại Tống.
Trần Khác rất hiểu loại tình huống này, bởi vì sau này đôla Mỹ cũng như thế. Chẳng những vậy người ta còn nói đôla Mỹ là “hệ thống rừng rậm Bretton sụp đổ trước”. Bởi vì kinh tế triều Tống mạnh mẽ, địa vị vững chắc, các quốc gia trong lúc mậu dịch kết toán không hẹn mà đều sử dụng tiền tệ Đại Tống. Tất nhiên tiền tệ Đại Tống quả thật cũng có chỗ hơn người, ví dụ như tạo hình tuyệt đẹp, không dễ phỏng chế… Tất nhiên là không dễ phỏng chế cũng chỉ là tương đối mà thôi, nếu chủ thể phỏng chế chính là quốc gia thì bị phỏng chế cũng là điều khó tránh khỏi.
Tuy nhiên điều đó không quan trọng, bởi vì kim loại làm ra tiền rất quý hiếm, không sợ giả tạo. Chỉ cần nó đủ phân lượng, dân gian liền chấp nhận, phân lượng không đủ dân gian sẽ không chấp nhận, cũng sẽ không ảnh hưởng tới thanh danh của tiền tệ Đại Tống. Bởi vì danh vọng của triều Tống thật sự rất cao, các đại gia đương nhiên cho rằng tiền tệ Đại Tống là tốt nhất, không tốt đều là hàng nhái.
Điều này làm xuất hiện một cảnh tượng kì dị. Liêu và Tây Hạ là hai nước lớn như vậy, về quân sự luôn khinh thường triều Tống, nhưng khi chính phủ đúc tiền lại đúc một lượng lớn Đại Tống Thông Bảo, tiền tệ của bổn quốc thì chỉ đúc một số ít để giữ thể diện mà thôi. Những quốc gia như Đại Lý, Nhật Bản lại hoàn toàn không sử dụng loại tiền của quốc gia mình, mang tiền tệ Đại Tống trở thành tiền lưu hành nội địa.
Xét cho cùng, bởi vì thời đại này con người không có ý thức về “Quyền đúc tiền”. Tiền tệ Đại Tống lúc bấy giờ gần như là kết toán quốc tế duy nhất, giống như đem “Quyền đúc tiền” của quốc gia hai tay dâng lên. Nếu người triều Tống đủ thông minh hoàn hoàn có thể nắm giữ toàn bộ nền kinh tế Châu Á, thông qua tiền đúc của quốc gia mình đủ khả năng làm cho cả Châu Á xảy ra lạm phát....
Đáng tiếc, triều Tống lại là một nhóm nho sinh, họ căn bản không có được phần trí tuệ này, ngược lại bọn họ cho rằng giao lưu buôn bán hàng hoá sẽ dẫn đến chảy máu đồng tiền. Hàng ngàn hàng vạn đồng tiền tệ Đại Tống sẽ trở thành tiền hoang, bởi vậy họ ra lệnh cấm xuất cảnh đồng tiền. Ví dụ như văn bản ‘Tống hình thống’ quy định rõ ràng: “Đồng tiền nhập vào biển người, mười quan chảy hai nghìn dặm, theo người đủ ba năm!”
Tuy nhiên quy định này cũng chỉ là thùng rỗng kêu to. Làm sao có thể trông cậy vào bọn họ đi đầu trong việc lợi dụng tiền đúc trong tay khiến các quốc gia Châu Á trở thành người làm thuê cho Đại Tống?
May mà hiện tại có Trần Khác, hắn đương nhiên muốn cho tiền tệ Đại Tống phát huy hết tác dụng... Trần Khác sớm đã vì hai nhà chuẩn bị tốt khu vực khai thác mỏ. Hắn đưa hai khu vực khai thác mỏ xa nhất Đông Xuyên phân cho Đoàn gia và Cao gia. Đây là hai nơi khai thác trữ lượng đồng không thấp, chỉ có điều vận chuyển hơi khó khăn một chút, nhưng đây cũng không phải là điều Trần Khác quan tâm đến...
Đối với hai nhà mà nói, lấy được khu vực khai thác đồng láng giềng gần lãnh địa nhà mình đã là không tệ, cho nên họ cũng không có ý kiến gì... Chỉ có điều khi nghĩ đến việc nó từ đầu thuộc vào lãnh địa của mình, vậy mà giờ đây phải dựa vào người khác bố thí, hai nhà không tránh khỏi có chút thê lương. Bất quá họ không có sự lựa chọn nào khác, bởi vì để khai khác được mỏ đồng cần thông qua sông Hồng Thuỷ vận chuyển, sản xuất tiền đúc ở Ngô Châu thuộc Quảng Nam tây lộ mới có thể biến thành “Đại Tống Thông Bảo”.
Nếu từ mỏ đồng vận chuyển ra mà không đúc thì cũng chỉ như một đống đồng nát sắt vụn không có giá trị.
Sông Hồng Thuỷ nằm trong tay Trần Khác, không khác gì hắn nắm điểm yếu của bọn họ, làm cho bọn họ không thể không ngoan ngoãn hợp tác với triều đình.
Cuối cùng, hai nhà và nha môn đường sông Hồng Thuỷ, Ngô Châu - Quảng Tây ký kết hợp đồng năm năm, hàng năm vận chuyển năm triệu cân thỏi đồng đúc thành Đại Tống Thông Bảo, một nửa thuộc về hai nhà một nửa thuộc về triều đình.
Nhưng thực tế bên trong khi sản xuất thì lại khác, bọn họ phát hiện mình căn bản không thể đem đồng thô rèn luyện thành thỏi đồng đúng như tiêu chuẩn, chỉ có thể đem đồng thô vận chuyển đến lò luyện đồng ở Đông Xuyên, xin người Hán hỗ trợ luyện đồng thô thành tiền đồng. Nhưng riêng luyện đồng của nhà mình đã bận túi bụi rồi, lấy đâu ra sức mà phục vụ cho bọn họ?
Cho nên hai nhà chỉ có cách bỏ thêm tiền cầu giúp đỡ thôi. Kết quả bị chèn ép từ đầu tới cuối chỉ có thể thu lợi về hai phần, không thể không đem phần lớn cung cấp cho triều đình. Cũng coi như trở thành quốc gia đầu tiên chịu nỗi khổ của nước thuộc về thế giới thứ ba trong một nghìn năm tiếp theo…
Tuy rằng như vậy nhưng hai nhà vẫn phải cam chịu, dù sao lợi ích cũng quá lớn, phần lấy được vẫn hết sức khả quan. Dương gia cũng không ngồi yên, Dương Nghĩa Trinh tự mình chạy đến thành Đông Xuyên, xin Trần Khác cho nhà mình một cơ hội được “chịu bóc lột”, Trần đại nhân thực hành ‘Cân đối chính sách’ tất nhiên đáp ứng.
Đến năm Gia Hựu thứ tư, không ngờ hơn phân nửa đồng thô đều do ba nhà cung cấp, bọn họ triệu tập thợ mỏ có khi vượt qua một trăm năm mươi ngàn người... Đương nhiên Đoàn gia chỉ có mười ngàn người thôi.
Mà Trần Khác chiêu mộ người Hán đến Đông Xuyên chủ yếu chỉ để vận chuyển và tinh luyện kim loại. Lúc trước mở sông Hồng Thuỷ có một trăm ngàn dân phu, sau khi tham quan đơn giản quy mô thành Đông Xuyên, họ được biết đến một loạt chính sách đãi ngộ nên có hơn bốn mươi ngàn người lưu lại, hoặc sau khi trở về nhà đã quay lại.
Đến năm Gia Hựu thứ ba, trong thành Đông Xuyên đã có một trăm ngàn người Hán, một nửa là thợ thủ công, một nửa là đóng quân. Hơn nữa số người Bạch Man và Ô Man đạt tới hai trăm ngàn, trở thành một trong năm thành thị lớn nhất Đại Lý. Tuy nhiên trong thành dương thịch âm suy, nam nữ tỉ lệ không cân đối, điều này làm cho thành chủ Phạm phu tử vô cùng buồn bực.
- Trọng Phương à, trong thành lúc này xuất hiện toàn lưu manh không phải là cách... Phạm Trấn mặc dù ở trong quân sự chỉ là một người bình thường, nhưng trong quản lý dân lại là một cao thủ. Một năm nay Trần Khác chủ yếu tập trung tại mỏ khai thác và luyện đồng, chuyện lớn, chuyện nhỏ tại thành Đông Xuyên đều do một tay y xử lý.
Phạm phu tử gặp phải vấn đề lớn nhất chính là trị an, trong thành mỗi ngày đều có hơn mười vụ nảy sinh đánh nhau ẩu đả, mà vụ nào cũng có người chết. Có người nói trong tay ngươi nhiều quân đội như vậy còn không quản lý được một ít điêu dân? Đáng tiếc chính là binh lính của mình còn đánh nhau... ngươi bảo Phạm phu tử làm sao quản lý?
Hắn tìm Dương Văn Quảng, hi vọng lão tướng quân có thể nghiêm túc thực hiện quân kỷ một chút, nhưng lão ở trong tây quân đi ra, không tại thời điểm đánh giặc căn bản không biết cái gì là quân kỷ. Ông chẳng hề để ý đến Phạm Trấn nói: - Các huynh đệ đang ở địa phương khỉ ho cò gáy này, có nhà nhưng không thể về, cái gì cũng không thể làm, không cho bọn họ đánh nhau làm sao có thể nguôi được cơn giận?
Phạm Trấn húc phải lão mũi trâu, mất đi sự ủng hộ của Dương Văn Quảng, y phải tìm một người khác. Cho nên khi y tìm được Trần Khác bèn nói: - Nam nhân không thành gia thật sự quá nguy hiểm, huống chi là một trăm ngàn tên lưu manh, vấn đề này không giải quyết sẽ xảy ra đại sự.
- Giải quyết, giải quyết. Trần Khác cười tủm tỉm: - Đàn ông Đại Tống cưới vợ không được, chuyện này truyền đi mọi người đều sẽ cười đến rụng răng đấy.
- Biết đi nơi nào tìm nhiều con gái như vậy?
- Đại Lý là nơi nổi tiếng về mỹ nữ! Trần Khác cười nói: - Còn có gần Ấp La và Bồ Cam, tuy đàn ông vóc người không ra gì, nhưng con gái đều dịu dàng vô cùng, có thể lấy làm vợ. Bản thân sống tại “quốc gia ngát hương”, nam nhân mà lại lo không có vợ sao?
- Cái này... Phạm Trấn thấy Trần Khác làm bậy sớm đã chết khiếp, cười khổ nói: - Thật không nghĩ ra, ngươi tìm vợ cho mỗi một tên trong đám nam nhân này, có phải là muốn tự rước lấy phiền phức.
- Vẫn thuộc người Hán là được! Trần Khác không hề để ý nói: - Pháp luật Đại Tống chỉ quy định, con gái Hán không được gả cho ngoại bang, lại không quy định, đàn ông Hán không đươc lấy vợ ngoại bang. Hắn rót trà cho Phạm phu tử nói: - Người Hán đàn ông làm chủ, sinh con ra thì vẫn là người Hán. Nếu bắt buộc vợ phải là người Hán thì cùng lắm là nạp thiếp trước, nạp một người thiếp không đến mức uỷ khuất cho bọn họ chứ?
- Nạp thiếp sao..? Phạm Trấn có chút động tâm, thật ra trong thành Đông Xuyên có một bộ phận lớn người Hán có vợ, nhưng đều ở tại quê hương chăm sóc bố mẹ con cái, nên gần như không thể ở bên cạnh. Nếu ở đây cho bọn họ cưới thêm một người thiếp, cũng là vẹn cả đôi đường.
- Cứ như vậy đi, cổ vũ bọn họ, coi như trút được gánh nặng. Trần Khác cười nói: - Đại nhân nếu không ngại thì cho người trong quan phủ thực hiện trước, hạn cho mỗi người trong một tháng đều phải nạp thiếp.
- Thật không nghĩ ra. Phạm Trấn cười nói: - Ký phán đại nhân, có phải ngươi nên lãnh trách nhiệm tiên phong?
- Hắc... Trần Khác cười khan nói: - Con người ta khi nói đến tình cảm, không có cảm tình thì không thể miễn cưỡng. Nói xong ha hả cười: - Hơn nữa, triều đình vài lần thúc giục ta trở về kinh, ta thật sự không thể kéo dài được nữa.
- Đúng là cần trở về. Phạm Trấn gật đầu cười nói: - Bằng không người ta sẽ nói ngươi muốn cầm binh tự trọng rồi.
- Ha ha ha... Trần Khác lên tiếng cười nói: - Ta là một người mới vào quan trường, không đến mức bị chụp cái mũ lớn như thế đâu.
- Ha hả Phạm Trấn cười nói: - Không đến vài năm nữa, ngươi liền gánh chịu được rồi. Nói xong nghiêm mặt nói: - Ngươi chuẩn bị khi nào thì xuất phát?
- Cũng nhanh thôi, ta chuẩn bị đi đường biển, tranh thủ sang năm trở về kinh. Trần Khác nói: - Dù sao triều đình để Tử Dung huynh tiếp nhận công việc của ta, ta cũng bớt mệt mỏi rồi. Tử Dung chính là Tô Tụng, với cấp độ và phẩm chất của Tô Tụng, lần này đi làm Ký Phán Đông Xuyên thoạt nhìn là chịu thiệt rồi, nhưng khó khăn của Đông Xuyên đã là chuyện trong quá khứ, năm nay đường thuỷ vừa thông suốt, sang năm tiền đồng không ngừng vận chuyển đến nội địa, y tuyệt đối sẽ trở thành minh tinh sáng chói trong mắt triều đình.
Mùa đông, ánh nắng ban mai chiếu rọi lên thành Đông Xuyên ánh lên màu nâu xanh rực rỡ. Chiếc xe ngựa sắt nghiến lên con đường cái xi măng cũng có màu nâu xanh, phát ra tiếng ken két lạch cạch xen lẫn tiếng gào của bọn xa phu cùng tiếng ngựa hí, cũng không thiếu những tiếng chửi rủa. Mùi phân ngựa mới nóng hầm hập và mùi những lồng hấp bánh của hiệu điểm tâm bên đường tản mác ra nhiệt khí quấn lấy nhau, tạo thành những mùi kỳ quái tràn ngập trên đường.
Các công nhân chuẩn bị công việc luyện đồng vẫn còn ngáp đi ra khỏi nhà, đến bên ‘Nhà vệ sinh công cộng’ đi ngoài, trên mỗi con đường ở thành Đông Xuyên đều có đặt nhà vệ sinh công cộng. Mà nhóm tuần tra còn nhắc đi nhắc lại “Cấm đi tiểu tùy tiện”, ban đầu còn có mấy người xem lệnh cấm như gió thoảng bên tai, về sau vi phạm đều bị phạt đánh, dân chúng thành Đông Xuyên cũng dần coi đi vệ sinh công cộng là một thói quen tốt.
Nhà vệ sinh công cộng ở thành Đông Xuyên có số lượng hơn một trăm cái trải rộng từ trong thành tới những nơi hẻo lánh, hơn nữa nhà vệ sinh còn cung cấp nước rửa mặt, quan trọng nhất là nó được sử dụng miễn phí.
Đương nhiên nhà vệ sinh loại này cũng không có gì đáng nói, mọi người lần lượt từng người một, tất cả đều ngồi chung trên nền đá cẩm thạch chạy dài, trên nền có những cái lỗ hình hồ lô, phía dưới là một cái mương thật sâu, nước chảy qua mang đi tất cả... Mọi người ngồi ở phía trên, tán chuyện thô tục, khoe kết quả hôm qua đi đánh bạc, chơi gái hoặc kể một chút chuyện tiếu lâm để mọi người cùng nhau cười vui vẻ.
Tuy nhiên ở trong này không thấy được quan viên và phú thương, họ có nhà vệ sinh độc lập, không cần cùng những người dân phu thô tục ở cùng một chỗ. Nói tóm lại, những người có phòng vệ sinh độc lập là những người có thân phận đặc biệt.
Đi vệ sinh xong mọi người đi đến máng nước ở gian ngoài, trên vách tường có một loạt ống trúc chảy nước vào trong máng, rồi từ máng chảy vào đường cống.
Ở thành Đông Xuyên này bốn mùa như mùa xuân, cho dù là mùa đông cũng vậy, nước tuy không lạnh đến thấu xương nhưng vẫn rất tê buốt, bên ngoài có bán nước nóng nhưng các công nhân đều trực tiếp dùng nước lạnh rửa mặt. Vệ sinh cá nhân xong, khi bọn họ đi ra thì bên ngoài đã bán canh súp, gan xào, cháo, trứng luộc, thức ăn tuy không được ngon lắm nhưng ăn vào rất chắc bụng.
Thu nhập của bọn họ ở công trường so với nội địa cao gấp ba lần, nhưng không tưởng tượng được chính là hàng hoá ở đây cũng cao gấp ba lần so với nội địa... Bọn họ tốn hơn mười đồng tiền mới có thể mua được một bữa tạm coi là phong phú, sau khi ăn xong liền bắt đầu làm việc. Mục đích của bọn họ chính là trạm đồng giám quan doanh Đông Xuyên phía nam thành. Trạm doanh này kích thước to lớn, toàn bộ phía nam thành đều là địa bàn của nó, than đá mỗi ngày vận chuyển vào hơn một nghìn xe, cả khu vực bụi bay mù mịt có thể che kín cả toà thành thị... Tuy nhiên cái này không có gì hay để khoe cả.
Mà từ giữa công trường đi ra, ngoại trừ xỉ quặng và xỉ than còn có những thỏi đồng, nén bạc, thỏi vàng nặng trịch. Mỗi ngày đều có một trăm ngàn cân đồng, mười ngàn cân bạc, cùng với hơn trăm cân vàng được luyện ra, được quân đội bảo vệ đưa đến bến tàu phía đông thành chuyển đi bằng đường thuỷ, thuyền hướng phía nội địa ngàn dặm xa xôi thẳng tiến.
Căn cứ vào đó mà đoán thì nhiều nhất là ba năm, nơi này sẽ sinh ra đồng và bạc vượt qua tất cả số tiền dự trữ của Đại Tống!
Đây chính là thành Đông Xuyên của ngày hôm nay, nó thô sơ, không sạch sẽ, không chút mỹ cảm nhưng lại tràn đầy sinh mệnh, cùng với mọi người còn chưa ý thức được sự văn minh.
- Ta thật ra muốn thiết kế một toà thành với đầy đủ sự mạnh mẽ và mỹ cảm cùng tồn tại, khiến nhóm man di phía tây nam cảm nhận được sức hấp dẫn từ thành Tống của Thiên triều. Tuần tra một vòng quanh thành, Trần Khác buồn bực buông màn xe xuống nói: - Ai ngờ lại biến thành bộ dạng xấu hổ như thế này. Quả nhiên, xi măng bê tông, ống khói công trường đều là sát thủ của mỹ cảm... - Ngươi cũng nên biết thế nào là đủ đi. Tô Tụng đi cùng với hắn cười nói: - Không có xi măng bê tông, thần tiên cũng không có cách nào trong hai năm xây dựng lên một toà thành lớn như vậy, không có công trường khói bụi thì lấy đâu ra đồng đây?
- Ôi, việc này quả nhiên là tiến thoái lưỡng nan. Trần Khác than vãn.
- Hơn nữa cũng sẽ không ảnh hưởng tới kế hoạch của ngươi.
Tô Tụng an ủi hắn: - Dù sao đối với đại đa số dân chúng mà nói, có thể kiếm được tiền, có lợi cho cuộc sống so với sự đẹp đẽ thì quan trọng hơn.
- Ngươi có thể nghĩ được như vậy là tốt rồi. Trần Khác cười nói: - Ta chỉ ngại ngươi cũng sợ nơi này xấu lại chạy theo ta trở về.
- Làm sao có thể chứ? Thành này từ phố đến ngõ đều do ta quy hoạch mà ra, dùng từng viên gạch mái ngói mà xây dựng lên. Tô Tụng lắc đầu nói: - Có câu nói trẻ con của nhà mình thì đều tốt, ta nhìn thế nào cũng vẫn thích.
- Nhất định phải trồng thật nhiều cây, chế đồng, luyện đồng đều không rời khỏi bó củi, hao phí quá lớn. Trần Khác dặn dò: - Hiện tại có một số nơi đã bị khai thác, như vậy nguy hại quá lớn.
- Không có cây cối bảo vệ, dễ dàng phát sinh sạt lở. Tô Tụng gật đầu nói.
- Không chỉ có sạt lở thôi đâu! Trần Khác vẻ mặt ngưng trọng nói. Trong lòng hắn hối hận không thôi, có mỏ đồng này rồi, nhưng sự nguy hại do nó gây ra cũng quá lớn! Tuy nhiên nếu không có mỏ đồng này triều đình sao có thể đồng ý xuất binh Đại Lý? Độc quyền về tiền của Đại Tống làm sao được giải quyết?
Cho nên chuyện sổ sách lung tung này đều chưa thể tính rõ, chỉ có thể tiếp tục hồ đồ đi tiếp... cùng lắm là về sau không phải tại mình mà đất nước lâm nguy là được.
Khi đang nói chuyện thì xe ngựa tiến vào công trường, hai người xuống xe, các quản sự liên quan đều ra đón, mời bọn họ vào đại sảnh nghỉ tạm. - Sáng nay ta mệt nên không đến. Trần Khác khoát tay nói: - Các ngươi bận thì cứ làm đi, ta cùng Tô đại nhân đi dạo một chút.
Uy tín của hắn cực cao, các quản sự không dám nhiều lời, khom người lui ra.
Trần Khác và Tô Tụng đi lên tháp nhìn ở giữa công trường, toàn bộ khu vực đại xưởng đều thu vào tầm mắt. Đầu tiên là xưởng tuyển chọn, các công nhân vận chuyển kim loại tới tuyển chọn, kiểm tra cấp độ, phẩm chất phân loại... Ở xưởng này rất náo nhiệt, công nhân chọn quặng ban đầu ở mỏ, rồi phân loại cấp độ, phẩm chất..., hô tranh chấp không ngớt bởi vì điều này liên quan đến thu nhập, cấp độ, phẩm chất quặng càng cao thì thu nhập hiển nhiên càng cao. Còn bên mỏ quặng cũng không phải chỉ vì giảm nhẹ vốn, phẩm cấp và trình tự gia công bất đồng, không thể qua loa được.
Xưởng tuyển chọn này không đơn giản, đá tạp được đập thành đá vụn, phần lẫn đất phải tẩy sạch mới có thể vận chuyển đến xưởng nung. Bên trong xưởng nung, khoáng thạch giống như một đám núi nhỏ nằm chồng chất trên mặt đất, xung quanh xếp đầy củi bắt đầu nung, cảnh tượng này giống như hiến tế trong núi làm người ta khó quên.
Cấp độ, phẩm chất khoáng thạch bất đồng, số lần nung cũng không giống nhau, có loại trải qua một lần liền vào lò, có loại thì ba bốn lần... Nhưng phần lớn là hai lần sáu ngày đêm.
Đợi cho khoáng thạch được làm nguội chuyển đến xưởng tinh luyện kim loại, đem khoáng thạch đưa vào lò gió xoáy, châm lửa, sau đó dùng sức nước thúc đẩy thiết bị thông gió luyện ba ngày đêm.
Nếu như là khoáng thạch chất lượng cao có thể trực tiếp luyện thành đồng, nhưng đại đa số trong lò luyện ra là băng đồng, thậm chí là bần bang đồng. Độ tinh khiết băng đồng thấp hơn so với đồng, nó dễ vỡ như băng. Độ tinh khiết của bần băng đồng lại càng thấp hơn, cần đập nát thành hình viên bi, sau khi luyện với đá thạch anh sẽ tạo thành xỉ than, cái này được gọi là băng đồng.
Đối với băng đồng, phải tiến hành nung luyện lần nữa cho đến khi luyện thành sinh đồng. Trong sinh đồng có vàng và bạc, không thể tinh luyện, càng không thể đúc tiền, hơn nữa còn phí của trời.
Cho nên ở xưởng tinh luyện kim loại số bốn, sinh đồng có chì tiếp tục được luyện thành tinh đồng và dịch chì có chứa vàng bạc. Trong xưởng tinh luyện, tinh đồng trở thành thỏi có phân lượng đồng chiếm chín phần rưỡi, kế đến dùng phương pháp thổi bụi dịch chì trong lò thì có thể chế tạo thành thỏi vàng và thỏi bạc.
Ngoại trừ dùng lửa, còn có thể dùng nước luyện đồng, phương pháp này dùng để xử lý những khoáng thạch phẩm chất thấp nhất mà dùng lửa không thể làm được, thật sự có thể tận dụng hết mọi thứ, tránh gây lãng phí... nguồn truyện t u n g h o a n h . c o m
Ở tám xưởng lớn này phân công nghiêm mật, mấy vạn công nhân ngay ngắn trật tự, chỉ một cảnh tượng này thôi cũng đủ vượt qua các triều đại khác. Bởi vì khu vực khai thác mỏ từ trước tới giờ chính là đầu mối của mọi rắc rối, dân chúng tha hương từ khắp nơi, đa số là người có thân thể khoẻ mạnh, hoặc là người cùng đường chạy tới đây mưu sinh, quản lý không nghiêm lại bóc lột hà khắc nên gây thành đại hoạ!
Hai đời Hán - Đường chưa có quy mô nào lớn như vậy, việc khai thác mỏ cũng làm hại rất nhiều người, làm xã tắc lung lay. Thợ mỏ thời Minh, Thanh không ngừng xảy ra bạo động, quân đội sinh sự, hoạn quan tạo phản, quả thực là một lịch sử hỗn loạn.
Ở triều Tống, công nghiệp và khai thác mỏ chưa từng phát triển, nhưng gần như không có bạo loạn gì lớn phát sinh, đó là do hiệu quả của việc quản lý, quan lại có trách nhiệm và được trả thù lao tương đối cao. Cứ vậy tình huống khai thác mỏ ở Đông Xuyên hơn xa so với nội địa, nhưng cũng không thoát khỏi bùa giữ nhà, chẳng qua Trần Khác chỉ áp dụng phiên bản mạnh hơn mà thôi.
Ở giữa tám xưởng lớn, những tháp nhìn có lầu canh được đặt song song, canh phòng nghiêm mật. Đứng ở trên tháp đủ để nắm giữ toàn cục, bất cứ kẻ nào có động tác gì đều có thể nhìn thấy, dĩ nhiên có thể phòng ngừa rắc rối xuất hiện. Hắn còn quy định rõ điều lệ chế độ, ngoại trừ tám xưởng lớn ra, ví dụ như kho vật liệu, kho vàng, sảnh làm việc và các bộ phận yếu hại đều có quy tắc đã định, người nào chịu trách nhiệm, ai giám sát, ai ký sổ, tất cả đều rõ ràng, nếu có vấn đề đừng mong chối tội.
Đối với thủ vệ canh giữ, hắn cũng quy định một bộ phận tra hỏi, thẩm tra điều lệ, chỉ cần chiếu theo luật làm việc, tuyệt không có khả năng lộ chút sơ suất nào.
Quản sự ở đây lại e ngại Trần Khác đến thế, cũng bởi vì hắn tuyệt đối không cho phép có bất luận tình huống nào xuất hiện trái với điều lệ. Hắn thường nói một câu: “Điều lệ không hợp lý thì có thể sửa đổi, nhưng khi sửa đổi thì nhất định phải tuân thủ!”. Hắn nói sâu xa với Tô Tụng: - Hai năm nay điều lệ ở công trường sửa đổi đến mười mấy lần, cơ bản đã hoàn thiện, nhưng khi điều lệ hoàn thành đều phải nghiêm khắc chấp hành. Con đê ngàn dặm vỡ vì một lỗ hổng, ngàn vạn lần không nên có ngoại lệ!
- Yên tâm, ta sẽ làm tốt như Tào Tham. Tô Tụng gật đầu nói.
- Đó là nói về mặt điều lệ. Trần Khác cười nói: - Về mặt công nghệ sản xuất, vẫn là muốn mạnh dạn đổi mới. Bây giờ phương pháp luyện đồng rất không kinh tế, ta biết ngươi và Tồn Trung huynh đều có không ít ý tưởng, mạnh dạn thử đi, không sợ thất bại một trăm lần, chỉ cần thành công một lần chúng ta liền kiếm ra rất nhiều lợi nhuận.