Trời tờ mờ sáng, sương sớm còn đang phủ quanh thành quách, một gã thiếu niên đã đến gõ cửa nghĩa trang.
Người coi cửa một đêm chưa ngủ, nghe ngóng trong thành không có
chuyện lớn gì, lại thấy thiếu niên trở về đúng hẹn, sắc mặt giãn ra,
vội vàng dẫn hắn đến phòng đặt xác.
Trên mặt đất, xác chết vẫn dùng chiếu bọc như trước, khẩu trang, dây thừng, chậu than, dấm chua vất bừa bãi trên đất, than hoa trong
chậu đã cháy hết.
“Tiểu tử chờ chút, ta đi lấy chút than đến, giúp ngươi đem xác chết
buộc lên người, ngươi đem chậu than lại đây đi. Ôi!” Lão nhân than
thở, Mộ Hoài Sơn là một thế hệ ngỗ tác của Giang Nam, nghiệm thi cả
đời, thay người rửa sạch oan khuất, chung quy chính mình lại làm quỷ
oan.
Lão đầu còng lưng, lắc đầu bưng chậu than đi xa, chỉ để lại thiếu niên một mình ở trong nhà.
Thiếu niên quỳ gối trước thi thể, bóng lưng rõ ràng hơn đêm qua, trong nắng sớm mất đi vẻ thẳng tắp, miễn cưỡng còng lưng.
Thời điểm lão đầu quay lại, trong phòng đã không còn người, lúc
này cũng không còn xác chết. Khẩu trang, dây thừng, bình dấm chua
vẫn còn nguyên trên mặt đất, không thiếu thứ gì nhưng lại thêm một
vật.
Một túi hầu bao.
Lão đầu ngẩn người, buông chậu than nhặt lên hà bao, cầm lên tay chỉ
thấy nặng trịch, mở ra vừa thấy, bên trong là một khối bạc trắng, chừng một trăm lượng.
Lão đầu nhìn phía cửa đã không còn người, bạc này... là cho hắn?
Lão đầu trông coi nghĩa trang, tháng ngày thanh nhàn, có
điều tiền bạc so với ngỗ tác còn ít hơn, một năm cũng chỉ được hai
lượng bạc. Hắn lưng còng không thể làm việc tốn sức, cũng không
phải không biết ở chỗ này làm nghề này là tốt đẹp, có điều lúc tuổi
già có nhà ở có cơm ăn, lạnh đói không chết, đối với hắn cũng đã
là yên ổn. Một trăm lượng bạc đủ cho hắn sống no đủ nửa đời còn lại, cũng đủ để hắn trở về quê hương mua nhà mua ruộng, an dưỡng tuổi
già.
Không biết nhiều bạc như vậy thiếu niên lấy từ đâu, lão nhân nhìn cửa, chỉ thấy sắc trời dần dần thay đổi, hai mắt hồ đồ.
*
Mặt trời chưa mọc, mây mù trong thành dầy đặc.
Trên phố quan tài, thiếu niên bước ra từ trong sương mù, trên
lưng cõng một xác chết, không mang khẩu trang, không buộc dây thừng,
chỉ cõng như vậy, giống như cõng người còn sống.
Thiếu niên cong lưng, giống như đang vác ngàn cân, không chịu nổi
sức nặng, phố trống trải, người đơn bạc. Hắn đi rất chậm, nhưng
mỗi bước đều vững vàng.
Đi qua nửa con phố, hắn dừng lại trước cửa tiệm quan tài lớn nhất phố, tiến lên gõ cửa.
Đêm qua bị người đánh thức, sáng nay lại bị đánh thức, gã coi
cổng thực sự buồn bực, cửa vừa mở ra, còn chưa nhìn thấy bên ngoài là
người phương nào, trước tiên đã ngửi thấy một mùi hôi thối! Hắn lấy tay áo che miệng mũi, lui lại vài bước, giương mắt nhìn trên lưng thiếu
niên đêm qua cõng thêm một người. Người nọ dặt dẹo cúi đầu, không nhìn
thấy bộ dáng, chỉ nhìn thấy cánh tay đặt trên lưng thiếu niên xám ngắt, bảo ra từng trận mùi hôi.
Chết, người chết?
Gã coi cửa sợ hãi cả kinh, mặc dù tiệm này đúng là nhờ người
chết mà làm ăn, nhưng nếu thật sự có người cõng một xác chết trên lưng
đến đây thì vẫn là lần đầu gặp. Hắn há mồm muốn kêu ra tiếng, bỗng nhiên bị một vật gì đó tạp trúng mặt!
Gã coi cửa bị tạp trúng ngã xuống đất, máu mũi bắt đầu chảy xuống,
vật rơi trên mặt đất kia, nặng trình trịch. Đó là một hà bao bằng vải,
gã sai vặt hay nha hoàn trong thành Biện Hà đều có một chiếc, mở ra
nhìn, bên trong có mấy trăm nén bạc trắng cùng hai tờ ngân phiếu ngàn
lượng!
Gã coi cửa nhìn chằm chằm vào túi bạc trong tay, lát sau mới ngẩng
đầu nhìn về phía thiếu niên vừa bước vào cửa tiệm, nhất thời quên mất
hắn đang cõng xác chết, xác chết kia còn tỏa ra mùi hôi thối.
“Tử mộc quan tài đêm qua nói đến, ta muốn một chiếc.” Thiếu niên cõng xác chết, khuôn mặt trầm dưới bóng thi thể, giọng nói bằng phẳng, lại
khiến người ta phát lạnh, “Hai ngàn mấy trăm lượng?”
“Hai, hai ngàn năm trăm lượng...” Gã coi cửa trong lòng cả kinh nào dám nói dối?
“Bên trong là hai ngàn tám trăm lượng, ba trăm lượng giúp ta chuẩn bị áo liệm giày mũ, nến trắng, giấy tiền, thuê thêm một đội ngũ đưa ma,
mời một thầy địa lý đến tìm nơi đất lành chôn cất. Có đủ không?”
“Đủ, đủ!”
“Trong ngày hôm nay có thể làm thỏa đáng?”
“Có thể...”
Mộ Thanh không nói gì nữa, chỉ bước đến ngay chính giữa cửa tiệm nơi
đặt một chiếc quan tài hoa điêu, đem xác chết đặt vào bên trong, sau đó
ngồi xuống canh giữ bên cạnh.
Gã coi cửa biết, ý tứ đây là muốn để hắn lập tức đi thu xếp mọi
chuyện, cho nên không dám mở miệng, chỉ cảm thấy thiếu niên này rất đáng sợ, bất giác chỉ biết nghe theo phân phó của hắn, loạng choạng đứng
lên, lau lau máu mũi sau đó vội vàng chạy đi.
Áo liệm giày mũ, nến trắng, giấy tiền trong cửa tiệm vẫn còn, đội ngũ thổi kèn đưa ma và thầy địa lý hắn cũng quen thuộc, bởi vậy chưa tới
buổi trưa mọi chuyện đã thu xếp xong xuôi.
Thầy địa lý ở ngoại thành mười dặm chọn được một đỉnh núi, chạng vạng thành Biện Hà có một đám tang trước nay chưa từng thấy.
Chuyện trong nhà không phát tang xưa nay đã hiếm, nhưng càng làm cho
người ta cảm thấy kỳ lạ đó chính là trước khi tiến hành tang lễ thiếu
niên lại cõng người từ trong quan tài ra, chỉ bảo người diễn tấu đưa ma
nâng một cỗ quan tài trống không, chính mình thì cõng xác chết đi ở đằng trước đội ngũ.
Mộ Thanh nhớ lại trước đây, một mình cha dưỡng dục nàng, luôn luôn
chăm sóc nàng chu toàn. Có một mùa hè, nàng bị ốm, nằm trên giường quá
buồn chán, cha liền cõng nàng đi bộ trong sân, khi đó đã là nửa đêm. Từ
đó về sau, mỗi khi nàng bị bệnh, cha sẽ cõng nàng đi, dường như chỉ cần
cha cõng, nàng sẽ hết bệnh.
Sau đó nàng lớn lên, trở thành thiếu nữ xinh đẹp, cha không tiện cõng nàng đi nữa. Khi đó nàng đã nghĩ, đợi cha già, không thể đi được, nàng
sẽ cõng cha, thay đôi chân cha đi nốt quãng đời còn lại.
Không ngờ, cha bốn mươi sáu tuổi, chưa già, nàng đã phải cõng người đi. Có điều lần này cũng là lần cuối cùng của cuộc đời này.
Trên phố dài, thiếu niên mặc áo trắng, cõng xác chết đi trước mở
đường. Hai bên đường, dân chúng nghe nói có người cõng xác chết đều kinh sợ lẩn đi rất xa. Chỉ có vài người để ý mới phát hiện ra, đội ngũ đưa
ma đi qua cửa phủ thứ sử, qua mấy cái phố, cuối cùng mới qua cửa Tây ra
khỏi thành.
Cửa hàng quan tài ngay cạnh cửa phố Tây, cách cửa Tây rất gần, nếu ra khỏi thành từ cửa Tây, vì sao phải vòng đường như thế?
Không có người biết trong lòng thiếu niên nghĩ cái gì.
Người diễn tấu đưa ma cũng không biết trong lòng thiếu niên nghĩ cái
gì, mua được quan tài tốt nhất không phải phú cũng quý. Nhưng những nghi thức còn lại thiếu niên đều làm rất đơn giản, đến đỉnh núi ngoài thành
mười dặm, đào hố, hạ quan tài, lấp đất, lập một tấm bia đá hạ người an
táng, cũng không cần mọi người khóc phần, đã trực tiếp cho người rời đi.
Trước mộ, Mộ Thanh chưa khóc, cũng không nói, chỉ quỳ gối, từ tối đến bình minh, giống như đã quỳ qua kiếp trước đến kiếp này.
Kiếp trước, nàng không nhớ rõ được bộ dáng của cha mẹ. Khi nàng còn
quá nhỏ bọn họ đã mất, thơ ấu đối với nàng mà nói chính là cuộc sống ăn
nhờ ở đậu, chỉ biết đến cơm tàn canh lạnh. Từ khi còn rất nhỏ nàng đã
nhận ra rằng cuộc đời này chỉ là vì chính mình, cho nên liều mạng đọc
sách, học tập, đạt được cơ hội đi học ở nước ngoài, mong muốn có một
tương lai tốt đẹp hơn, nhưng tất cả lại chôn vùi trong một vụ tai nạn xe cộ.
Kiếp này, là một u hồn ký gửi ở Mộ gia, cuộc sống dù có nghèo khó,
nhưng nàng chưa bao giờ phải ăn cơm thừa canh lạnh. Vốn tưởng rằng tình
thân như núi, cuộc đời nàng cuối cùng cũng có cha để dựa vào, không ngờ
bỗng nhiên, nàng chỉ còn lại một mình.
Hay là, cái chết của cha vốn là sai lầm của nàng.
Mặc dù cha lĩnh bổng lộc triều đình, nhưng chỉ là tiện tịch, nha dịch trong nha môn đều khôn xem trọng, thường xuyên làm khó dễ. Khi đó thủ
pháp khám nghiệm tử thi của cha cũng không cao minh, Đại Hưng lại có
luật lệ để đồ tể khám nghiệm tử thi, người theo nghề ngỗ tác rất ít, nói gì tới chuyên nghiệp. Đại đa số ngỗ tác đều chỉ có vài kinh nghiệm và
phương pháp hiểu biết cơ bản, cũng không có chứng thực nghiệm thực, rất
nhiều những phán đoán sai lầm.
Kiểm nghiệm làm sai lầm, không biết sẽ oan uổng bao nhiêu mạng người.
Không chỉ có như thế, nguyên tắc phá án của cổ đại là “Tang trạng lộ
diện, lý bất khả nghi”, tức là coi trọng “khẩu cung” của phạm nhân.
Nghiệm thi không hoàn thiện, xử án coi trọng khẩu cung, muốn bao nhiêu oan uổng có bấy nhiêu.
Sau khi kinh sợ với phương pháp nghiệm thi xử án ở cổ đại, nàng âm
thầm đóng góp, dẫn đường sửa đúng, từng bước giúp cha trở thành ngỗ tác
nổi danh ở Giang Nam. Từ khi cha có danh tiếng, án mạng xảy ra ở huyện
Cổ Thủy đều được phá một cách dễ dàng, tri huyện thăng quan nhanh chóng, tri huyện mới tới đều trông cậy vào cha để được thăng quan, người trong nha môn cũng thay đổi thái độ tươi cười khi gặp cha.
Nàng cho rằng đây là phương pháp báo đáp tốt nhất với cha, không ngờ có ngày, vì sự nổi danh này mà người lại mất mạng...
Mộ Thanh quỳ gối trước mộ phần, gió núi thổi bay lá già, rơi xuống bả vai, khẽ run.
Tà dương thay bằng ánh trăng, ánh trăng đổi thành nắng sớm, người trước mộ dập đầu xuống đất, “Cha, con gái bất hiếu...”
“Kẻ thù giết cha, con gái định sẽ tra ra!” Lại dập đầu.
“Đợi báo thù xong, con gái nhất định sẽ mang người trở về huyện Cổ Thủy, hợp táng với mẹ.” Ba lạy.
Sau khi dập đầu ba cái, Mộ Thanh đứng dậy, nắng sớm chiếu vào bả vai, một mảnh vàng rực.
Ngày hôm đó, Đại Hưng Nguyên Long thứ mười tám, mùng 4 tháng 6.