Nhi Nữ Hầu Môn

Chương 63: Tuệ An buộc phải so tài nghệ



Hôm nay Nhiếp Sương Sương cũng ăn mặc rất là tinh tế, áo màu hồng nhạt thêu hồng mai, khoác áo choàng mỏng màu trắng, váy xếp li vẽ họa tiết cành lá xanh nhạt nối liền với đóa hồng mai phía trên, tạo thành tầng tầng lớp lớp, kéo dài tới tay áo, tuy cách thể hiện khác nhau nhưng phương pháp thêu thùa giống hệt với kiểu cách đôi giày Phương mama làm cho Tuệ An.

Tuệ An biết Nhiếp Sương Sương tham gia tỷ thí môn cầm học, cho nên mới ăn mặc thế này, những họa tiết quan trọng đều được bày lên hai bên tay áo, nhìn thôi đã biết phu nhân Vĩnh Ninh hầu tốn tâm tư đến nhường nào.

Vốn Nhiếp Sương Sương đã mềm mại yểu điệu, năm nay lại vừa tròn mười bốn, lớn lên vô cùng xinh đẹp, khuôn mặt đã nảy nở, làn da trắng muốt như bạch ngọc, trên gương mặt xinh xắn lộ ra phong thái của người học rộng hiểu nhiều, khi mỉm cười vừa hiền hậu lại dịu dàng. Khiến cho người ta không thể không âm thầm khen ngợi, tướng mạo này, phong thái này, hơn nữa còn có cách ăn mặc này, quả thật là đích nữ nơi thế gia danh môn có khác.

Tuệ An nhớ hôm đó Nhiếp Sương Sương cũng mở miệng an ủi Trình Mẫn Du, nghĩ rằng nàng là người lương thiện khéo léo, sau lại thấy Trình Mẫn Du từ chối lời mời của nàng, mà Nhiếp Sương Sương cũng không nhiều lời hay trách móc, biết nàng còn là người thông minh có lễ, đã muốn kết giao từ lâu. Nay thấy nàng cười nói thân thiết, vẻ mặt trêu ghẹo mình, liền vui vẻ cười nói:

“Ôi, ta vẫn nghĩ nhất định phải thắng trận tỷ thí này, không thể phụ lòng những vị bằng hữu đã đặt cược cho ta, giờ Nhiếp tiểu thư nói vậy, ta lại có lòng muốn thua, nếu như có thể mời một tiểu mỹ nhân như Nhiếp tiểu thư đến chơi khuê phòng của ta, biết đâu lại lây được chút ít linh khí, người lỗ mãng như ta cũng có thêm vài phần thục nữ danh môn không chừng.”

“Xem nha đầu này miệng ngọt chứ kìa, ta còn nghe nói mấy hôm trước trong tiệc rượu ở phủ Định Bắc vương, một câu thơ của Thẩm tiểu thư đến cả Văn Nhị công tử cũng phải cúi đầu hổ thẹn, không biết lấy từ sách nào, nếu như vậy vẫn gọi là lỗ mãng, thì phóng mắt khắp kinh thành này có ai dám nhận mình văn nhã. Được rồi, Thẩm muội muội cũng đừng một câu Nhiếp tiểu thư, hai câu Nhiếp tiểu thư nữa, gọi ta tỷ tỷ thì thế nào?”

Tuệ An thấy nàng nói thế càng thêm vui mừng, gấp rút gọi nàng một tiếng, mọi người xung quanh cũng rối rít phụ họa vài câu. Sau nhắc tới chuyện cá cược, lại nghe Tạ tiểu thư nhà Hàn Lâm viện Tạ học sĩ, Tạ Vân Chi ảo não nói:

“Cố tiểu thư kia là đệ tử của Chu lão tiên sinh, trước kia tỷ tỷ của nàng còn là vị hôn thê đính hôn từ nhỏ với Quan tướng quân, sao lần này lại mời hai vị đó làm giám khảo cơ chứ, không biết có thiên vị cho Cố tiểu thư không. Nhiếp tỷ tỷ, hôm nay tỷ cứ vung tay hết mình đi, nếu giám khảo chấm gian cho bên Thái Học viện và Cố tiểu thư kia, Quốc tử sinh chúng ta chắc chắn sẽ không để yên cho bọn họ đâu.”

Tạ Vân Chi ăn nói khẳng khái, vẻ mặt lo lắng nhìn Nhiếp Sương Sương, hôm đó nàng và Nhiếp Sương Sương cũng cùng nhau đi xem đại quân khải hoàn ở Đoan môn, lúc thích khách xông tới vì nàng quá mức sợ hãi, đã run rẩy ngã dưới đất không gượng dậy nổi, may mà lúc đó Nhiếp Sương Sương cách nàng không xa, lập tức kéo lấy tay nàng, cả hai cùng chạy về cửa sau của Thường Âm lâu, nên mới thoát được một kiếp này. Nàng luôn rất cảm kích Nhiếp Sương Sương, hôm nay nói chuyện khó tránh khỏi có phần phẫn nộ, giống như Chu lão tiên sinh và Quan Nguyên Hạc đã bất công với Nhiếp Sương Sương rồi không bằng.

Nhiếp Sương Sương nghe vậy chỉ cười một tiếng, nắm tay Tạ Vân Chi, nói:

“Muội muội nói quá rồi, ai không biết còn tưởng muội muội mới là người bị bất công đấy. Chu lão tiên sinh nổi tiếng thanh cao liêm khiết, còn Quan tướng quân lại là anh hùng của Đại Huy ta, là bậc chính nhân quân tử, công chính liêm minh, hai người đã là giám khảo thì lý nào lại có chuyện thiên vị với không thiên vị ở đây? Huống chi tài đánh đàn của Cố Dư Hinh tiểu thư ta đã sớm nghe nói qua, cũng từng có ý muốn thỉnh giáo một phen, nàng nếu là người biết thưởng thức cầm học, thì nhất định cũng có tấm lòng hào sảng, ta vốn có lòng kết giao, thắng hay thua không quan trọng. Chỉ là nếu vì ta mà Quốc Tử Giám bị mất mặt, các người không được phép giận dỗi gì ta đâu nhớ chưa.”

Nhiếp Sương Sương nói chuyện mà mặt mày tươi vui, dường như thật sự không thèm để ý đến thắng thua, với tuổi của nàng lại có thể bình thản không lo lắng, lạnh nhạt trầm tĩnh, dùng vẻ tĩnh lặng đối diện với một chuyện trọng đại thế này, khiến cho cả những người xung quanh nàng cũng như tắm trong gió xuân.

Nàng như thế Tuệ An càng thích, cảm thấy bản thân trước giờ thiếu chính là nét bình thản vô ưu này đây, không khỏi cười nói:

“Nhiếp tỷ tỷ nói đúng lắm, dốc hết toàn lực ứng chiến, thắng hay thua thì có quan trọng gì, nếu nhờ cuộc tỷ thí này mà đổi lại được một khuê mật tri âm tri kỷ, có khi còn là thu hoạch bất ngờ ấy chứ.”

Nói xong còn nháy mắt với Nhiếp Sương Sương, thấy nàng cũng cười phá lên một tiếng.

Mọi người đang cười đùa vui vẻ, bỗng nhiên có một tiểu tử mặc quần áo của thư đồng chạy tới, chắp tay thi lễ cùng Tuệ An và Nhiếp Sương Sương, cười nói:

“Hai vị tiểu thư, viện sĩ mời hai vị tiểu thư đến Quan Kỵ các.”

Tuệ An với Nhiếp Sương Sương tạm biệt các vị tiểu thư, cười nói đi về phía khán đài. Vừa xuống lầu lại đúng lúc gặp phải Lý viện sĩ và học sĩ Âu Dương Trực, cùng với hơn mười tiên sinh của Thái Học viện đang cười nói đi về hướng này. Phía sau bọn họ là năm thiếu nam thiếu nữ cung kính đi theo, Khương Hồng Ngọc cũng nằm trong số đó, nghĩ chắc là năm Thái học sinh được chọn tham gia tỷ thí lần này.

Tuệ An đưa mắt nhìn qua, thấy hôm nay Khương Hồng Ngọc mặc một bộ váy áo vàng nhạt thêu hoa ngọc lan, cổ áo và ống tay áo đều đính lông cáo trắng xóa, búi kiểu tóc mẫu đơn đuôi én vô cùng lộng lẫy sang trọng, trên đầu cài trâm phượng rủ xuống từng dải trân châu bằng vàng chói lóa, khuyên tai bằng phỉ thúy xanh biếc hình giọt nước, trước ngực còn đeo khóa vàng họa tiết song ngư đại cát đại lợi, dung nhan trang nhã, quả nhiên là vừa xinh đẹp diễm lệ, lại quý phái cao sang.

Tuệ An nhìn mà hai mắt lóe sáng, nhìn sang nữ tử đi bên cạnh nàng, không khỏi càng thêm hâm mộ. Nàng kia vóc người mềm mại mảnh khảnh, mặc một bộ váy màu xanh ngọc, chỉ thêu lên chỗ tay áo và vạt áo vài lá trúc xanh, nhưng màu sắc lại cực kỳ bắt mắt, khiến cho làn da vốn tinh khôi mịn màng trở nên hơn sương thắng tuyết, không khác gì một thứ đồ sứ thượng hạng. Mái tóc đen dài búi lỏng sau lưng, không mang lấy một thứ trang sức nào, lộ ra nhan sắc trời sinh tự nhiên, dưới đôi lông mày lá liễu là cặp mắt to tròn linh động, dáng đi đúng mực không hơn không kém, mảnh mai nhưng không yếu ớt, eo thon chỉ đầy nắm tay, quả nhiên là thanh nhã thoát tục, làm cho Tuệ An nhìn đến sững sờ.

Nhiếp Sương Sương thấy nàng như thế, mới cười cười đưa tay dí vào trán Tuệ An một cái, nói:

“Nhìn muội như thế, ai không biết còn tưởng bị sắc đẹp mê điên đảo thần hồn rồi. Đó chính là cháu gái ruột của gia chủ Tương Dương Cố thị hiện giờ, An Quốc công Cố Thanh Lâm, cũng là đích thứ nữ của Tổng đốc Giang Dương Cố Hiển, tên gọi Cố Dư Hinh. Con gái Cố gia gả vào hoàng thất rất nhiều, chỉ tính hai người Thánh Tổ, Thái Tổ thôi thì trong cũng đã có một vị Thái phi, hai vị Cố Quý phi, hai Tiệp dư và bốn vị Vương phi. Mẹ ruột của đương kim Thánh thượng là đích nữ Cố gia, càng đừng nói đến những nữ nhi Cố thị được gả vào thế gia danh môn, quý tộc hầu tước. Nói trắng ra có là thứ nữ của Cố gia thì so với nữ nhi nhà bình thường cũng quý giá hơn nhiều, Cố Dư Hinh này từ khi vào kinh đến giờ vẫn luôn được người người ca ngợi, mọi người đều truyền tai nhau nói Cố thị muốn gả nàng vào phủ Thuần vương, nên mới đưa vào kinh làm quen tình hình. Nhưng ta lại cảm thấy không đúng, nếu thật sự Cố thị có ý gả nàng cho Thuần vương, thì tất nhiên phải đưa nàng đến Quốc Tử Giám học mới đúng chứ, lý nào lại ghi danh cho Thái Học viện. Chỉ sợ Cố tiểu thư này, nhắm tới là Quan phủ kia kìa.”

Tuệ An nghe vậy giật mình một cái, nàng nhìn gương mặt xinh đẹp tuyệt trần của Cố Dư Hinh, lại nghĩ tới khung cảnh nàng ấy sánh đôi cùng Quan Nguyên Hạc, tuy là quân tử thục nữ xứng lứa vừa đôi, nhưng chẳng hiểu tại sao trong lòng cứ khó chịu không thể kiềm chế.

Thấy Tuệ An không nói gì, Nhiếp Sương Sương liền cười nói tiếp:

“Nghe nói Quan tướng quân năm nay đã hơn hai mươi, vẫn chần chừ chưa đính hôn chính là đang đợi Cố Dư Hinh qua tuổi cập kê đấy.”

Tuệ An nghe vậy, chẳng biết tại sao lại cảm thấy với tính cách của Quan Nguyên Hạc, hẳn sẽ không cần câu nệ mấy thứ luật lệ bên lề thế này mới đúng, trong lòng ngổn ngang trăm mối, trên mặt thì ấm ức đáp:

“Vậy ư…”

Nhiếp Sương Sương gật đầu:

“Nghe nói nàng ấy và tỷ tỷ của mình giống nhau như tạc, Quan tướng quân rời nhà từ nhỏ, phần lớn phiêu bạt ở Giang Ninh cách Tương Dương không xa, đều do An Viễn Hầu chăm sóc, cùng Cố Đại tiểu thư có thể nói là thanh mai trúc mã lớn lên bên nhau, chỉ tiếc ông trời ghen ghét hồng nhan, Cố Đại tiểu thư trẻ tuổi đã hương tiêu ngọc vẫn. Mà vị Cố Nhị tiểu thư này có dung mạo giống hệt tỷ tỷ, nên không ít người đoán rằng bao năm nay Quan tướng quân vẫn không tính chuyện hôn nhân, khẳng định là còn nhớ tới vị Cố tiểu thư kia, hơn nữa Định Quốc phu nhân cũng hi vọng cháu trai của bà lấy nữ nhi Cố thị để thân càng thêm thân, nói vậy khả năng hai bên sẽ kết thông gia là vô cùng lớn còn gì.”

Tuệ An nghe vậy thì nghĩ đến những tin đồn về Quan Nguyên Hạc mà nàng nhớ được, người ta cũng nói là y vì nhớ mãi không quên tình cũ, nên mới cự tuyệt Đoan Ninh công chúa. Đối với cách giải thích này, Tuệ An muốn không tin cũng không được, nếu không dựa vào thân phận và địa vị của Quan Nguyên Hạc, làm sao có chuyện cứ chần chừ mãi mà không nghị hôn. Hơn nữa hôm đó đến Quan phủ, theo mấy lời Tĩnh Mẫn Thái công chúa và Định Quốc phu nhân nói, rõ ràng là tự Quan Nguyên Hạc không muốn nghị hôn, người nào y cũng nói không xứng không hợp, không phải còn nhớ tình cũ thì là gì. Không ngờ khối băng kia si tình đến thế, ắt là vị Cố Đại tiểu thư đó phải xinh đẹp hơn muội muội nhiều lắm.

“Người mặc trường bào nâu xám chính là Tô Hành Văn công tử, mọi người trường ta đều đoán hắn sẽ tỷ thí môn họa học với Văn Nhị công tử, nếu thế thì đúng là một trận long tranh hổ đấu, ngang tài ngang sức. Nhưng mà hôm qua mọi người trong Quốc Tử Giám lén lút đặt cược, cuối cùng số bạc đặt cho Văn Nhị công tử thắng nhiều hơn một ít, ta nghe nói không ít tiểu thư còn vét hết tiền riêng đặt vào Văn Nhị công tử.”

Nhiếp Sương Sương vừa nói vừa cười vô cùng mờ ám:

“Sáng sớm hôm nay ta có gặp được muội muội con nhà dì, nàng nói bên Thái Học viện cũng mở sòng cá cược, rất nhiều khuê tú bên ấy cũng cược Văn Nhị công tử thắng.”

Dứt lời, không biết nàng nghĩ tới điều gì, lập tức hai gò má nhuốm màu đỏ ửng.

Tuệ An nghe trong thanh âm của nàng lộ vẻ hí hửng, thấy ánh mắt của nàng lóe lên nét giảo hoạt, vẻ mặt ranh mãnh, liền tò mò nhìn theo hướng vị Tô công tử nàng chỉ, vừa nhìn không thể nén được tiếng cười tràn khỏi khóe môi.

Vị Tô công tử thanh danh vang dội kia lớn lên quả thật không thể nào vừa mắt người khác được, mặc dù khoác trên người bộ trường bào nho nhã, tóc búi gọn trên đầu, bên hông đeo ngọc bội cẩm thạch, đúng kiểu ăn mặc của tài tử thế gia, nhưng hắn vóc người lùn tịt, thân thể béo ú, gương mặt tròn xoe, ngũ quan xa quá không nhìn thấy nên bỏ qua, da từ đầu đến chân đều ngăm đen như nhau, nhìn qua đúng là chẳng thể liên hệ với hai chữ ‘tài tử’ được. Bộ dạng so với Văn Tư Tồn thật sự là kém quá xa, khó trách các cô nương không thích.

Bên này Tuệ An cùng Nhiếp Sương Sương nói cười, bên kia đoàn người đã dần dần đi tới, hai người Tuệ An vội vàng nhường đường khụy gối thi lễ, đợi các tiên sinh của Thái Học viện đi qua, mới ngẩng đầu đứng lên. Ai ngờ Tuệ An vừa nâng mắt đã chạm ngay phải ánh nhìn như cười như không của Khương Hồng Ngọc, Tuệ An cũng nhìn thẳng nàng, đáp lại bằng một nụ cười tươi rói.

Bên Thái Học viện có Hoa Luyến Điệp tiểu thư cũng tham gia thi tài hình như là quen biết với Nhiếp Sương Sương, hai người nhân lúc này trò chuyện với nhau một lúc. Tuệ An theo mọi người đi về phía Quan Kỵ các, Khương Hồng Ngọc cố ý bước chậm từng bước, cuối cùng vừa vặn đi ngang Tuệ An.

Hôm nay Tuệ An cũng ăn mặc vô cùng tỉ mỉ, áo trắng thêu cúc vàng li ti, thắt lưng xanh lam khảm trân châu vòng quanh, tôn lên đường cong mới trổ mã của nàng. Cuối chiếc váy vàng nhạt còn đính thêm một tầng lông thỏ, viền lông đong đưa theo mỗi bước chân của nàng.

Khương Hồng Ngọc nhìn, cảm thấy mặc dù Tuệ An nhỏ hơn mình mấy tuổi, nhưng dáng người lung linh hoàn hảo hơn nàng nhiều, không khỏi khó chịu ra mặt. Lại thấy nàng có đôi mắt trong trẻo như hồ nước mùa thu, khi nhíu mày lại có mấy phần quyến rũ phong tình, sống mũi cao thẳng, đôi môi đỏ mọng, khi nàng mỉm cười, mặt mày lại càng toát ra kiều diễm câu hồn, hệt như đóa hải đường nở rộ sau mưa, liền cảm thấy chua xót cho bản thân.

Thật ra dung mạo của Khương Hồng Ngọc cũng có thể coi là tươi sáng xinh đẹp, nhưng so với Tuệ An còn kém vài phần. Trong lòng nàng tức tối, khuôn mặt cũng dần dần trở nên ác độc, Tuệ An nhận ra nàng đang nhìn mình cũng đưa mắt nhìn lại.

Đối diện đôi mắt sắc sảo, đồng tử thâm trầm tĩnh lặng của Tuệ An, Khương Hồng Ngọc thoáng cái đã trấn định tâm tình, khinh thường nhếch miệng nhìn nàng. Thầm mắng một tiếng, chẳng qua là nữ nhi do Hồ cơ sinh ra, đúng là lẳng lơ quyến rũ đến tận xương. Trong lòng nàng nghĩ vậy, ngoài miệng cũng kiêu ngạo thấp giọng mỉa mai:

“Đừng có thua quá thảm đấy!”

Tuệ An nghe vậy, cũng cười đáp lời:

“Để trả lễ, ta cũng mạn phép nhắc nhở quận chúa một câu, dựa vào sức nhẫn nhịn của quận chúa e là khó có thể chịu được thất bại thì phải, đến lúc đó cũng đừng có khóc lóc sướt mướt, khó nghe lắm.”

Khương Hồng Ngọc nghe vậy tức đến mặt mũi đỏ bừng, nghiến răng nghiến lợi nói:

“Thẩm Tuệ An, cô hẹp hòi ác nghiệt, chèn ép thứ muội, món nợ này hôm nay chúng ta tính luôn một thể, ta sẽ khiến cho cô phải hối hận vì đã tham gia tỷ thí.”

Tuệ An nghe vậy chỉ cười một tiếng, nói:

“Quận chúa, làm việc gì cũng phải dùng đầu suy nghĩ, sao cô biết không phải là do dì và biểu muội cô chèn ép ta trước? Quận chúa bênh vực người thân, nhưng nhớ cẩn thận đừng có đơn thuần quá, ngược lại bị người ta lợi dụng làm vũ khí trên tay thì không hay đâu.”

Khương Hồng Ngọc nghe thế thì sững sờ một lúc, bước chân chậm lại, sau đó trừng mắt đầy phẫn nộ nhìn theo bóng dáng Tuệ An, chỉ tức nàng tâm tư gian xảo, còn dám dựng chuyện ly gián. Dưới cơn nóng giận nhìn không được cao giọng tức tối:

“Cô đứng đó cho ta!”

Nàng vừa bước được hai bước, đang định đuổi theo Tuệ An làm cho ra lẽ, thì Cố Dư Hinh vẫn đi trước hai người đột nhiên quay đầu nhìn lại, cười nói với Khương Hồng Ngọc:

“Sao quận chúa chậm vậy, ta vẫn chờ quận chúa để cùng nhau lên lầu đây.”

Khương Hồng Ngọc có thế nào cũng không thể nể mặt Cố Dư Hinh, nàng nghe vậy vội vàng biến ánh nhìn tức giận với Tuệ An thành tươi cười vui vẻ bước nhanh lên lầu.

Tuệ An dường như nhìn thấy vị Cố tiểu thư kia nghiêng đầu liếc nàng một cái, vì vậy không khỏi kinh ngạc nhíu mày nhìn theo nàng, thấy Khương Hồng Ngọc bây giờ với ban nãy như hai người khác nhau, tươi cười vui vẻ kéo tay Cố Dư Hinh bước lên cầu thang, Tuệ An vẫn chỉ cười khẽ một tiếng.

Thật ra đối với Khương Hồng Ngọc, Tuệ An nghĩ kĩ lại cũng cảm thấy nàng không hề đáng ghét, rất giống với nàng kiếp trước, cùng là tiểu công chúa được thương yêu chiều chuộng trong nhà, cho nên mới nuôi thành cái tính tình đơn giản chất phác, kiêu căng dễ giận như vậy, chỉ sợ con đường nàng đi sau này cũng chẳng dễ dàng gì. Giống như kiếp trước, sau khi Khương Hồng Ngọc trở thành Thái tử phi thì phong cách xử sự càng thêm cay nghiệt, điều đó không phải đã nói lên nàng đã bị thua cuộc trong trận tranh đấu nơi hậu viện sao. Chỉ có nữ tử nào chiếm được thế thượng phong trong cuộc chiến tranh sủng, mới có được tâm tình hòa nhã, cũng đối đãi người khác hiền hậu hơn.

Mấy người Tuệ An vừa lên lầu thì từng người đã được Liễu viện sĩ gọi tới trước mặt, chắc là không tránh khỏi nói vài câu khích lệ cổ vũ.

Tuệ An và Nhiếp Sương Sương là hai người cuối cùng đến nơi, lúc lên lầu đã thấy Văn Tư Tồn với Bạch Ngự Lâm đang ngồi cạnh Liễu viện sĩ, cười nói cùng ông.

Hôm nay Văn Tư Tồn khoác trên người trường sam trắng xám, bên hông đeo bạch ngọc thượng đẳng, ngọc quan vây trọn mái tóc, quả nhiên là một trong những quý công tử ngọc thụ lâm phong, hào hoa phong nhã nổi danh khắp kinh thành. So với Văn Tư Tồn, thì Bạch Ngự Lâm ăn mặc theo một phong cách khác hẳn. Hắn mặc một bộ trường bào luyện võ, chân đi giày tường vân đen tuyền, trên trán buộc một dải lụa cũng màu đen, nhưng có thêu hoa văn bằng tơ vàng. Vốn hắn đã cao lớn mạnh mẽ, làn da bánh mật, vẻ mặt oai phong khí thế, nay kết hợp với trang phục lại càng hùng dũng bất phàm, tuấn tú cường tráng.

Văn Tư Tồn thấy hai người Tuệ An đi đến, ánh mắt thoáng dừng trên người Tuệ An một lúc, trên mặt không nhịn được nét tán thưởng, còn nở nụ cười ra vẻ khen ngợi. Tuệ An bị hắn nhìn thì cảm thấy không thoải mái, nàng cúi gằm mặt trốn sau lưng Nhiếp Sương Sương, lúc cúi đầu mơ hồ nhìn thấy đôi vành tai trắng mịn của Nhiếp Sương Sương bỗng dưng ửng đỏ khác thường, dưới ánh mặt trời cộng với chiếc bông tai phỉ thúy của nàng, thật sự là một bức tranh sống động đẹp mắt mà nàng ngắm mãi không chán.

Nàng vừa bước tới, đã nghe Liễu viện sĩ đang thao thao bất tuyệt giảng giải thể diện tương lai này nọ, đại ý là kêu năm người các nàng hôm nay nhất định phải phát huy hết khả năng bình thường khi ở Quốc Tử Giám, phô diễn bằng sạch nghị lực sinh tồn ra, nói trắng là muốn bọn họ không được phép thua, trận tỷ thí này chắc chắn phải dẫm chặt Thái Học viện dưới chân.

Tuệ An nhìn thấy sắc mặt Trình Mẫn Du đã tái nhợt cả lên, hốc mắt đỏ bừng, hai bên thái dương đầy mồ hôi không khỏi có chút lo lắng, còn chưa kịp khuyên nhủ đôi câu, liền nghe phía dưới lầu truyền đến một hồi ồn ào náo động, hóa ra là năm người được hai trường mời làm giám khảo vừa đặt chân vào quảng trường.

Liễu viện sĩ gấp rút nói nốt đoạn diễn văn cuối cùng, sau đó sải bước đi nghênh đón giám khảo. Tuệ An nhìn qua, liếc mắt đã thấy Thuần vương cùng Tần vương đang đi song song bên nhau dẫn trước một khoảng xa.

Phải công nhận mấy người con trai của Hiền Khang đế, ai ai cũng mỗi người một vẻ, ngang sức ngang tài.

Lý Vân Sưởng thì không cần phải nói, ngay cả Thuần vương cũng là một mỹ nam tử hiếm có trên đời, hắn cường tráng có lực, mày rậm mắt to, ngũ quan xuất sắc, dáng người anh tuấn, chỉ có khuôn mặt là luôn mang theo một tia kiêu ngạo bất phàm, toàn thân khí phách không cho phép người đến gần. Mà Bình vương mặc dù không toát lên vẻ khí khái như Thuần vương, nhưng cũng là một công tử ôn nhuận như ngọc, thanh nhã cao quý, trầm ổn ung dung. Cho dù không bằng được nét tuấn tú với Tần vương, thì là người có tướng mạo đoan chính, khí chất văn nhã.

Thuần vương Lý Vân Nghị cùng Tần vương Lý Vân Sưởng sóng vai đi tới, hai người một cao lớn uy nghi, một hiền hòa quý phái, lại đều mang theo nét uy nghi của bậc hoàng tử hoàng tôn, nhất thời khiến mọi người xung quanh phải trầm trồ ca ngợi.

Sau lưng hai người là Chu lão tiên sinh Chu Kỉ Văn, và chưởng quản Hàn Lâm viện Bạch đại nhân Bạch Tế Đức. Quan Nguyên Hạc đi ở cuối cùng, dường như để dành không gian cho hai vị học giả phía trước, y cũng bước đi rất chậm, sải bước thong dong, khiến cho khí chất trầm ổn trong y giờ đây đã hóa thành vẻ lạnh lùng uy nghiêm không thể khinh nhờn.

Y mặc một bộ trường bào màu lam thêu mây trắng, ngang lưng thắt đai ngọc đen tuyền, so với trang phục của nhưng người khác thì sáng rỡ hơn hẳn, bớt đi nét lạnh nhạt trời sinh, thêm vài phần trong trẻo nhã nhặn.

Chẳng biết tại sao, Tuệ An nhìn bóng dáng áo lam kia lại bất giác liếc mắt về phía Cố Dư Hinh cách đó không xa, dĩ nhiên Cố Dư Hinh cũng phát hiện nàng và Quan Nguyên Hạc mặc cùng một màu y phục, lúc này hai má nàng đã đỏ ửng cả lên, đôi mắt đen nhánh một mực chăm chú nhìn theo bước chân Quan Nguyên Hạc, vẻ mặt vừa xấu hổ lại vui mừng. Nàng như vậy, càng làm Tuệ An cảm thấy thanh lệ thoát tục tựa tiên nữ hạ phàm, chỉ là thay tiên khí bằng phần tình cảm trong ánh mắt. Đột nhiên Cố Dư Hinh giật mình như một chú thỏ nhỏ bị bắt gặp mà e lệ cúi thấp đầu, tay phải vân vê chiếc khăn lụa, dáng vẻ chẳng khác nào tiểu nương tử mới về nhà chồng. Tuệ An sững sờ nhìn về phía Quan Nguyên Hạc, đúng lúc chạm phải ánh mắt cong cong của y, còn mơ hồ nhìn thấy bên khóe môi sắc bén kia nhếch lên một cái.

Ánh mắt Tuệ An vừa chú ý tới y, Quan Nguyên Hạc đã lập tức nhận ra, y cũng đưa mắt nhìn lại. Tuệ An vội vã cúi đầu, tim đập như trống bỏi, có cảm giác mình là kẻ trộm bị chủ nhà bắt gặp, nàng ngàn lần không muốn y phát hiện ra ánh nhìn của mình, thế này rất mất mặt.

Đợi năm vị giám khảo bước lên lầu hai, mấy người Tuệ An cũng đi lên hành lễ, sau đó dưới sự dẫn dắt của Liễu viện sĩ cùng nhau xuống lầu chuẩn bị vào cuộc tỷ thí. Lúc Tuệ An đi qua bên người Lý Vân Sưởng, bên tai bỗng nhiên truyền đến giọng nói trầm thấp của hắn:

“Phát huy hết mình!”

Tuệ An hơi ngừng lại nhưng rất nhanh đã bước về phía trước, chỉ có Nhiếp Sương Sương đi cạnh nàng hình như nhận ra chuyện này, kinh ngạc nhìn Tuệ An một cái. Mà Khương Hồng Ngọc thì đã cách Tuệ An một đoạn đằng sau, khi Tuệ An xuống lầu vẫn thấy nàng đang hành lễ với Thuần vương, còn Thuần vương ôn hòa cười nói gì đó, nghĩ là Khương Hồng Ngọc đang cảm tạ ơn cứu giúp ở trang trại hôm đó của Thuần vương.

Năm người Tuệ An và năm người bên Thái Học viện cùng nhau ngồi vào chỗ của mình phía sau khán đài dưới sự hướng dẫn của thư đồng Quốc Tử Giám, bọn họ vừa ngồi xuống bên kia cũng lập tức vang lên ba hồi chuông vang vọng, tiếp đó toàn quảng trường yên tĩnh lạ thường.

Trên Quan Kỵ lâu đã đặt năm chiếc bàn dành cho giám khảo, đám người viện sĩ, học sĩ cũng rối rít ngồi vào chỗ của mình, Tuệ An còn nhìn thấy Liễu viện sĩ với Lý viện sĩ đưa tay mời qua mời lại một phen, cuối cùng Liễu viện sĩ đứng dậy, ông chậm rãi diễn thuyết nào là thánh nhân dạy thế nọ thế kia, qua một hồi mở đầu mới nói:

“Hôm nay Quốc tử sinh và Thái học sinh tề tựu tại đây, quả thật là một chuyện trọng đại, hai trường so tài, không chỉ có thể đánh giá được học vấn một cách công bằng nhất, mà còn là cơ hội cho hai bên cùng nhau hoàn thiện chương trình giảng dạy hơn nữa, giúp học viên hai bên nâng cao hiểu biết, cùng nhau tiến bộ. Mặc dù không thể để tất cả mọi người so tài với nhau, nhưng những người đại diện đều là dựa trên bốc thăm ngẫu nhiên chọn ra, cũng phần nào khẳng định được khả năng học vấn chân chính toàn trường, lão phu mong các trò được chọn có thể lấy đó làm vinh hạnh, phát huy hết sở trường của mình, nâng cao tinh thần học hỏi của cả Quốc Tử Giám và Thái Học viện.”

Bởi vì dù sao ông tuổi tác đã cao, coi như có hét khản cổ họng, thì cũng khó mà truyền ra phía xa bên ngoài, cho nên bốn bên khán đài quanh quảng trường đã đứng sẵn bốn hàng người hầu, bọn họ đứng không quá gần cũng không quá xa, vừa vặn có thể nghe tiếng Liễu viện sĩ nói từ trên đài lớn, ông vừa nói dứt lời, người hầu bốn phía cũng đồng thanh lặp lại lời ông một lần.

Phía dưới tiếng người hầu nhắc lại lời Liễu viện sĩ hùng hồn vang lên, còn trên đài cao, Liễu viện sĩ và Lý viện sĩ lại đang thấp giọng cãi cọ lẫn nhau.

Mấy người Tuệ An ngồi gần khán đài nhất, nên có thể loáng thoáng nghe được cuộc đối thoại của hai người. Họ đang bất đồng quan điểm về quy tắc tỷ thí cụ thể cho trận đấu lần này, theo như ý của Liễu viện sĩ, là tự chọn môn thi đấu, giống hệt phỏng đoán của đám người mở sòng cá cược ở Quốc Tử Giám.

Nhưng Lý viện sĩ lại nói, nếu đã dùng hình thức bốc thăm để lựa chọn năm người bất kỳ, thì việc tỷ thí môn nào cũng phải dùng hình thức bốc thăm để chọn tiếp, như vậy mới đúng là công bằng, có thế khi phân thắng bại mới có thể phản ánh trình độ học vấn thật sự của hai bên. Hơn nữa theo ý của Lý viện sĩ, nếu hai trường đều chọn được hai nam ba nữ, thì để luôn nam tử đấu với nam tử, nữ tử đấu với nữ tử, như vậy cũng vẹn cả đôi đường.

Nhất thời mười người ngồi sau khán đài đưa mắt nhìn nhau, thế nhưng Tuệ An nghĩ kỹ lại, cảm thấy Lý viện sĩ này đúng là mèo già hóa cáo.

Trong năm người đại diện cho Quốc Tử Giám, Văn Tư Tồn, Bạch Ngự Lâm, Nhiếp Sương Sương đều là hàng đầu các môn, mà Thẩm Tuệ An nàng tuy môn khác không nói nhưng kỵ xạ lại vô cùng có khả năng thắng được Khương Hồng Ngọc. Còn bên Thái Học viện, mặc dù Tô Hành Văn, Cố Dư Hinh cùng Khương Hồng Ngọc là vượt trội, nhưng nếu để Khương Hồng Ngọc so kỵ xạ với Tuệ An, vậy thì chỉ còn hai người Tô Hành Văn và Cố Dư Hinh, đối đầu với ba nhân vật lợi hại còn lại của Quốc Tử Giám, may mắn lắm thì thắng được hai trận trong năm, tính sơ sơ thế thôi đã thấy Thái Học viện phải thua là cái chắc.

Nhưng nếu làm theo ý Lý viện sĩ, lấy nam đấu nam, nữ đấu nữ, thì thế trận của Quốc Tử Giám chắc chắn sẽ rối loạn hơn. Bởi vì bên phía nữ tử, Tuệ An không thể nào trùng hợp bốc trúng và chiến thắng môn kỵ xạ, như vậy Quốc Tử Giám sẽ chỉ có duy nhất Nhiếp Sương Sương có thể vớt vát được mặt mũi. Mà Thái Học viện có Cố Dư Hinh thì khỏi cần phải nói, Khương Hồng Ngọc cũng nổi tiếng tinh thông cầm kỳ thư họa, Hoa Luyến Điệp cho dù không xuất sắc bằng hai người Cố, Khương, nhưng nói gì thì vẫn hơn Tuệ An và Trình Mẫn Du nhiều. Bên nữ tử đã có được ưu thế, thì nam tử bên kia chỉ cần đạt kết quả hòa, vậy là hết.

Lý viện sĩ đã tính toán mọi bề, mà ông ăn nói lại có lý có tình, mở miệng là công chính liêm minh, nửa dỗ nửa lừa, lúc khuyên nhủ lúc khích tướng, khiến cho Liễu viện sĩ vừa nói được hai câu đã bị ông xoay như chong chóng, một phút kích động nhất thời đồng ý. Ông vừa nói tùy tiện, Lý viện sĩ đã lập tức đi lên khán đài, cao giọng tuyên bố hai trường đã nhất trí đặt ra luật lệ cho trận tỷ thí lần này, dường như chỉ sợ chậm một tí Liễu viện sĩ sẽ đổi ý. Đợi người hầu lớn tiếng thuật lại một lần luật lệ cho chúng học viên, tức thì cả quảng trường Ung Luật sôi trào ầm ĩ.

Mọi người rối rít nghị luận chuyện này, bên Thái Học viện tất nhiên nhận ra điểm tốt của nó, ai nấy bừng bừng khí thế, làm như đã cầm chắc chiến thắng trong tay. Mà Quốc Tử Giám thì mỗi người một phản ứng, có người cảm thấy bất công, lo lắng về kết quả tỷ thí ,có người thì cười nói với quy tắc này Quốc Tử Giám chưa chắc đã thua, bởi vì biết đâu được đấy, dùng hình thức bốc thăm thì tất cả đều là ngẫu nhiên, rất có khả năng lật ngược tình thế, như vậy không phải càng thêm náo nhiệt sao?

Bên này chúng học viên thảo luận ầm ĩ, bên kia các học sĩ viện sĩ hai trường lại đang xôn xao thương lượng hai môn tỷ thí của nam tử nên chọn môn nào trong năm môn cầm kỳ thi họa và kỵ xạ.

Tô Hành Văn am hiểu đánh cờ lẫn vẽ tranh, mà một nam học viên còn lại của Thái Học viện là công tử nhà Quang Lộc tự Tạ đại nhân, Tạ Châu thì nghiêng về thư pháp. Còn bên Quốc Tử Giám, Văn Tư Tồn tinh thông cả sáu môn, nhưng đặc biệt xuất chúng với tài họa học, mà Bạch Ngự Lâm thì được xếp vào hàng cao thủ kỵ xạ, tài đánh cờ cũng không đến nỗi nào, hai phe tranh chấp không ngừng, cuối cùng do Thuần vương đứng ra quyết định, dứt khoát dùng bốc thăm luôn một thể. Kết quả bốc thăm là nam tử tỷ thí họa học và đánh cờ, nữ tử tỷ thí ba môn còn lại.

Sau khi bốc thăm chia môn xong, cuối cùng cũng đến phần bắt cặp tỷ thí.

Mọi người luôn tay luôn chân một hồi, kết quả cho ra là, buổi sáng tỷ thí họa học, đánh cờ với kỵ xạ ba môn, buổi chiều so tài thư pháp và cầm học. Họa học do Tô Hành Văn đấu với Bạch Ngự Lâm, đánh cờ là Văn Tư Tồn đấu với Tạ Châu, kỵ xạ do Khương Hồng Ngọc tỷ thí với Trình Mẫn Du, thư pháp là Nhiếp Sương Sương và Hoa Luyến Điệp, mà đánh đàn thì do Cố Dư Hinh thi với Tuệ An.

Danh sách tỷ thí vừa ra, Lý viện sĩ cười ha hả cả lần, còn sắc mặt Liễu viện sĩ nhất thời trở nên tái nhợt, cục diện này có thể nói là bất lợi cùng cực cho Quốc Tử Giám. Chỉ tiếc có bao nhiêu người ở đây, đã đi tới bước này, ông làm sao đổi ý được.

Lý viện sĩ gằn giọng kiềm chế cơn giận tiến lên công bố danh sách tỷ thí, trong nháy mắt quảng trường Ung Luật ầm ầm nổi sóng, đám người Thái Học viện không khác nào được bơm thêm máu gà hoan hô ầm ĩ, bên Quốc Tử Giám thì ỉu xìu chẳng nói chẳng rằng, chưa vào tỷ thí nhưng khí thế đã giảm sút quá nhiều.

Mấy người Tuệ An cũng nghị luận không ngừng, kết quả vừa ra, Tuệ An ngơ ngác tại chỗ, định thần lại đã thấy Văn Tư Tồn đưa ánh mắt lo lắng nhìn qua, mà Khương Hồng Ngọc nhìn thấy nàng như vậy thì ôm bụng cười chảy cả nước mắt.

“Viện sĩ cũng thật là, tại sao lại bị mấy câu nói chẳng đâu ra đâu của Lý viện sĩ khiêu khích như thế chứ.”

Nhiếp Sương Sương không bằng lòng nhíu mày.

Tuệ An thấy nàng lộ vẻ lo âu, cũng thở dài một hơi, nói:

Liễu viện sĩ xuất thân thanh cao, đậu Trạng nguyên liền vào Quốc Tử Giám làm học sĩ, là một người luôn chuyên tâm nghiên cứu học vấn, nhưng Lý viện sĩ thì khác, ông từng nhậm chức tri phủ Ninh Châu, kinh qua chiến trường, sau khi đỗ Bảng nhãn lại được thuyên chuyển hết từ Lại bộ đến Hàn Lâm viện, kiến thức rộng rãi, tâm tư cũng linh hoạt, túc trí đa mưu, Liễu viện sĩ của chúng ta sao có thể là đối thủ của Lý viện sĩ. Còn nữa, ta thấy hôm nay Lý viện sĩ cố tình nói thế, sợ là đã sớm biết Liễu viện sĩ chúng ta không chịu nổi khiêu khích, nên mới xuôi chèo mát mái sắp xếp được thế cục như vậy.”

Nhiếp Sương Sương thấy Tuệ An nói rất có lý, lại kinh ngạc nhìn nàng một cái, trong mắt lóe lên tia sáng, cười nói:

“Xem ta này, vừa rồi còn lo lắng muội phải tham gia tỷ thí cầm học, bây giờ thấy muội thản nhiên trấn tĩnh như thế, không phải là có chiêu gì rồi chứ?”

Tuệ An nghe vậy lắc đầu cười khổ, nói:

“So tài với Cố tiểu thư, cho dù muội có chiêu thức gì cũng uổng công cả, trừ phi xuất hiện kỳ tích thì may ra… Dù sao cũng thua, muội đã chuẩn bị sẵn tinh thần rồi.”

Nhiếp Sương Sương nghe vậy, hai mắt nghiêm túc nhìn Tuệ An, trên mặt thoáng hiện nét khâm phục, kéo tay Tuệ An cười nói:

“Năm nay muội muội mới mười hai nhỉ? Vậy mà so với nữ tử hai mươi còn có lòng dạ phóng khoáng hơn hẳn, không màng danh lợi, bình tĩnh khiến người kính nể, muội muội chắc chắn là người có phúc về sau.”

Nàng vừa nói vừa vỗ tay Tuệ An, ánh mắt quét qua một loạt những người vẫn dùng vẻ mặt tươi cười châm biếm chỉ trỏ Tuệ An nãy giờ, nàng khinh thường nhếch môi một cái.

Tuệ An thấy nàng như thế, trong lòng cảm thấy ấm áp, lật tay cầm lấy tay nàng, cười ra vẻ đã biết với Nhiếp Sương Sương, thoáng cái đã thân thiết hơn nhiều.

Hai người đang nói chuyện, cùng lúc trên quảng trường vang lên tiếng chuông thông báo tỷ thí vòng thứ nhất cho môn họa học.

Sân tỷ thí được dựng giữa lòng quảng trường, lúc này tại chỗ đó đã sớm bày biện hai chiếc bàn dài cùng ghế lim sang trọng, trên bàn đã có đầy đủ văn phòng tứ bảo, hai bên án thư đứng sẵn hai gã sai vặt chỉ chờ sai bảo.

Tô Hành Văn và Bạch Ngự Lâm cùng nhau lên đài, đều tự ngồi vào vị trí của mình, quảng trường Ung Luật vốn đang ầm ĩ lập tức khôi phục vẻ tĩnh lặng như tờ. Thật ra mà nói, thi đấu năm môn, dựa theo danh sách tỷ thí vừa ra, thắng bại tất cả đều đặt trên trận này.

Tuy nói Tô Hành Văn có phần thắng cao hơn, nhưng Bạch Ngự Lâm cũng là học viên của môn họa học, đúng là không tính đứng đầu, nhưng trong chúng học viên cũng coi như được xếp vào hàng thượng thừa, nếu như phát huy tốt, lại thêm tí xíu may mắn, thì thắng tỷ thí cũng không phải là điều không thể.

Đề thi của năm môn đều do năm vị giám khảo cùng bàn bạc ra đề, hai người Bạch Ngự Lâm ngồi xuống không bao lâu, Liễu viện sĩ liền tuyên đọc đề môn họa học cho ngày hôm nay, đó là: ‘Ca múa mừng cảnh thái bình’.

Đề vừa ra, Tô Hành Văn chỉ ngẫm nghĩ trong giây lát, đã vung tay múa bút, mà Bạch Ngự Lâm lại suy tư một hồi, mãi mới nhấc bút vẽ lên giấy. Mọi người trong quảng trường thấy cảnh đó cũng xì xào bàn tán, rất nhanh bức tranh của Tô Hành Văn đã hoàn thành, cũng trực tiếp đưa cho gã sai vặt trình lên ban giám khảo.

Tuệ An cùng mọi người đưa mắt nhìn theo, thấy bức tranh được truyền qua tay năm vị giám khảo, bọn họ nhìn vào còn liên tục gật đầu, xem ra chỉ sợ là một kiệt tác bất phàm. Người hai trường thấy giám khảo có biểu hiện như thế, đã bắt đầu ồn ào lên.

Dường như Bạch Ngự Lâm vẫn chưa nhận ra sự thay đổi ở xung quanh, chỉ chuyên tâm vẽ tranh, qua một khắc sau, hắn mới dừng bút, đồng thời ra hiệu cho gã sai vặt mang bức vẽ trình lên, cũng cho năm giám khảo đánh giá.

Thuần vương là người xem tranh đầu tiên, không khỏi hai mắt tỏa sáng, nhìn một lúc liền truyền sang tay Lý Vân Sưởng, bức tranh của Tô Hành Văn năm người đã xem qua, đợi tranh của Bạch Ngự Lâm chuyển qua lại giữa năm vị giám khảo xong, tự nhiên họ đã có quyết định cuối cùng.

Thuần vương nói:

“Bức tranh của Tô Hành Văn vẽ là yến tiệc chốn cung đình, sắc thái rõ nét, tài vẽ bất phàm, bệ hạ cùng quan viên trong triều vui mừng ăn uống linh đình, quả thật rất đúng đề tài. Còn tranh của Bạch Ngự Lâm, thì vẽ cảnh Nhạn Môn Quan mở rộng cổng thành, dân chúng ra vào tấp nập, trên mặt quân lính thủ thành là nụ cười yên bình thư thái, cũng không hề lạc đề, chỉ là suy cho cùng vẫn kém hơn một bậc.”

Lý viện sĩ bên cạnh nghe vậy, nhịn không được cười to thành tiếng. Trong trận tỷ thí này, Bạch Ngự Lâm là em vợ của Thái vương, mà Thái vương lại là hoàng huynh cùng mẹ với Thuần vương, ông còn sợ Thuần vương thiên vị Bạch Ngự Lâm, vẫn lo trận tỷ thí này không dễ giành được phần thắng cho lắm.

Hơn nữa ông cũng len lén liếc qua tranh của hai người, nói tới việc này, ông lại cảm thấy tranh của Tô Hành Văn quá mức khuôn khổ, so về ý lẫn cảnh đều khó mà bằng được bức của Bạch Ngự Lâm. Chỉ là tranh của Tô Hành Văn vẽ cảnh bệ hạ cùng quan viên đang vui vẻ hưởng thụ cuộc sống nhàn hạ, một hoàng tử như Thuần vương thì phải luôn hướng về hoàng đế, nào dám bình luận cái gì.

“Lời của Nhị hoàng huynh rất đúng, bản vương cũng cảm thấy bức ‘Dạ yến đồ’ của Tô công tử có phần nhỉnh hơn một chút.”

Lý Vân Sưởng cũng biểu thị thái độ.

“Lão phu lại cho rằng tranh của Bạch công tử mới là mang đầy đủ ý tứ của đề bài, ý tưởng mới mẻ độc đáo, miêu tả khung cảnh có vẻ cao hơn, xưa nay Đại Huy ta vốn dĩ dân chúng an cư lạc nghiệp, chỉ có phương Bắc luôn bị người Hồ quấy nhiễu, nơi đó khổ không thể tả. Năm này qua năm khác cửa Nhạn Môn Quan có bao giờ mở, binh lính xếp hàng canh giữ ngày đêm, nếu có một ngày khung cảnh ở Nhạn Môn Quan có thể giống như bức vẽ này, vậy Đại Huy ta còn không cùng nhau ca múa mừng cảnh thái bình sao?”

Chu lão tiên sinh Chu Kỉ Văn bày tỏ ý kiến của mình, ông dứt lời liền nhìn về phía Quan Nguyên Hạc.

“Quan tướng quân là bậc võ tướng, không biết có đồng ý với ý kiến của lão phu hay không?”

Quan Nguyên Hạc nghe vậy khẽ dừng ánh nhìn trên bức vẽ, gật đầu nói:

“Chu lão nói không sai.”

Y nói vậy cũng là đồng ý với lời của Chu lão tiên sinh, nếu thế trong năm giám khảo đã có hai người chấm cho tranh của Tô Hành Văn, hai người nghiêng về phía Bạch Ngự Lâm, nhất thời thắng bại trận này liền rơi vào đầu Bạch học sĩ.

Bạch học sĩ dưới ánh mắt trân trối của Liễu viện sĩ và Lý viện sĩ lật tới lật lui hai bức họa, một hồi lâu sau mới vuốt râu cho ý kiến:

“Ừm, hai bức tranh này đều rất có hồn, nhưng nếu luận về nghệ thuật bên trong mà nói, quả thật là tranh của Tô Hành Văn vẫn hơn, bức của Bạch Ngự Lâm so ra còn kém một phần.”

Ông vừa dứt lời, Lý viện sĩ liền cười đắc ý, mà Liễu viện sĩ thì vẻ mặt tức tối, tuy nói ông không phải là người từng kinh qua tranh đấu trên quan trường, nhưng không có nghĩa là không thể nhìn ra sự mờ ám trong chuyện này, chỉ trách Tô công tử thông minh láu cá, đặt đương kim thiên tử trong tranh, cho dù Bạch Ngự Lâm có vẽ đẹp đến bao nhiêu, cũng không chống cự nổi uy phong do thiên tử mang lại.

Cho nên ông đúng là tức giận, cũng chỉ hừ lạnh một tiếng, phía bên kia người phát ngôn của Quốc Tử Giám đã đem kết quả tỷ thí vòng này tuyên bố:

“Tỷ thí họa học, bên thắng ______ Thái Học viện!”

Ông vừa nói xong, có vài học viên ngồi gần khán đài đã nghe được, nhất thời quảng trường yên lặng bỗng nhiên ồn ào như vũ bão, tốc độ kết quả truyền đi còn nhanh hơn do người hầu đọc lại, học viên hai trường hò hét loạn cả lên, thậm chí còn át cả thanh âm người hầu truyền đạt.

Trên khán đài, Lý viện sĩ thấy Thái học sinh kích động không thôi, có vài Thái học sinh còn lao hẳn lên khán đài nâng bổng Tô Hành Văn lên, ông cười ha hả cả lần, kiêu ngạo nhìn vẻ mặt Liễu viện sĩ đã biến thành màu đen, nói:

“Liễu huynh, thật sự là đa tạ. Trận đầu này lại nhường cho Thái Học viện ta thắng, ha ha, bốn môn phía sau Thái Học viện ta cũng có phần thắng rất lớn. Ha ha, theo ta thấy, năm nay hai trường tỷ thí, tuy là đổi từ học vấn thành tài nghệ, nhưng không phải kết quả vẫn như nhau thôi sao, có khác gì những năm khác đâu cơ chứ. Ha ha.”

Liễu viện sĩ bị ông nói thì càng thêm ủ dột, cũng tức tối thở phì phò thành tiếng, nhưng lại nghĩ tới mấy môn phía sau. Đánh cờ và thư pháp nhất định sẽ thắng, nhưng kỵ xạ với cầm học là Trình Mẫn Du của Quốc Tử Giám đấu với Khương Hồng Ngọc của Thái Học viện, Cố Dư Hinh so cùng Tuệ An, thế này thắng thua còn chưa rõ hay sao, trừ phi trời giáng kỳ tích, tháng sáu tuyết rơi, nếu không Quốc Tử Giám thua là cái chắc. Chỉ trách mình quá mức khinh địch, bị lão già họ Lý này gài bẫy, mới dẫn đến cục diện không thể vãn hồi như bây giờ, lúc này Liễu viện sĩ đã cay cú quá thể, chỉ hận không thể nhảy lên đấm luôn mấy quyền vào khuôn mặt già nua của Lý viện sĩ kia.

Lý viện sĩ thì hơn hở phân phó người hầu chuẩn bị cho trận tỷ thí tiếp theo, làm như chỉ muốn qua loa nốt hình thức cho xong chuyện, ông mơ màng nghĩ tới chuyện sau này sẽ nở mày nở mặt dẫn Thái học sinh làm mưa làm gió ở Quốc Tử Giám, rồi Quốc tử sinh và người trong thiên hạ đều sẽ biết, ngôi trường xứng danh thiên hạ đệ nhất phải là Thái Học viện của ông!

Trận tỷ thí cho môn đánh cờ bắt đầu trong không khí lộn xộn vô cùng, những học viên này chẳng còn tâm trạng nào mà nhìn lên sân tỷ thí, quảng trường Ung Luật náo loạn thành đoàn, chỉ có một mình Văn Tư Tồn ở dưới trấn an hai bên, nhưng cũng không ngăn được hai phe chửi rủa ầm ĩ.

Vừa rồi khi quy tắc tỷ thí được ban ra, vài nhà cái ở bên dưới đã lén lút chạy xung quanh quảng trường kêu gọi đặt cược, lúc này cả bên Thái Học viện và Quốc Tử Giám vẫn cò kè ra giá với nhau, hai bên mở sòng cá cược, hò hét nói hủy bỏ toàn bộ giao kèo lúc trước, lại mở ra ván cược mới, bởi vì bốn trận tiếp đây không khó đoán cho lắm, nên đa số học viên đặt cược vào kết quả của môn họa học.

Bên Quốc Tử Giám lần này phần lớn là thua sạch bạc, còn Thái Học viện thắng cả đánh cược thì mặt mày càng thêm hí hửng, như thế không gây gổ mới là lạ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.