Văn Đan Khê cuộn tờ giấy lại mà mặt không đổi sắc, gật gật đầu nói: “Ta biết rồi, các vị cứ đi làm việc trước đi, lúc gần đi thì tới chỗ ta lấy thuốc.”
Hai người ngơ ngác nhìn nhau: “Lấy thuốc?” Có thể trị ‘Tâm bệnh’ bằng thuốc à? Lẽ nào cô không hỏi tý gì khác à?
Nhưng hai người họ đã giả vờ không biết từ đầu rồi, lúc này gặng hỏi thì thể nào cũng lộ tẩy. Vì vậy, hai người chẳng thể làm gì hơn là bấm bụng cáo từ.
Vừa ra khỏi cổng viện, Mặt Thẹo đã nhanh tay huých Hạ hắc tử: “Nè, hắc tử, ngươi nói coi Văn đại phu có ý gì? Cô ấy có hiểu được không thế?”
Hạ hắc tử cười nhạt: “Ngươi cho là ai cũng có cái đầu gỗ mục như ngươi à? Chắc chắn cô ấy nhìn vào là hiểu, người ta đang giả lơ mơ dò chân tướng thôi, hiểu không?”
Mặt Thẹo nhăn mặt nhíu mày: “Đương nhiên hiểu. Nhưng không biết cô ấy bốc thuốc gì cho đại ca nhỉ?”
“Tới lúc đó thì biết.”
Hai người vừa nói vừa chạy nhanh tới nhà của Hồ lý chính, lúc này Tần Nguyên đã thương lượng với mọi người xong xuôi. Cơ bản đạt tới nhất trí: Vì thời gian gấp rút, các thôn dựa theo nhân khẩu để trích ra số lượng tráng đinh khác nhau, vũ khí do quân Phá Lỗ phụ trách, lương thực mỗi thôn tự lo. Quân Phá Lỗ sẽ cử người có kinh nghiệm tới huấn luyện. Trường luyện binh sẽ thiết lập ở bãi đất trống phía trước thôn Thanh Khê.
Vóc dáng Tần Nguyên thanh tú trắng trẻo, phong thái nho nhã, ai không biết nội tình nhất định sẽ không nghĩ y là quân sư của quân Phá Lỗ. Những người này bàn xong chính sự cũng chưa đi vội, mà vẫn ngồi nán lại cố hỏi thêm việc nhà của Tần Nguyên.
“Tần công tử, công tử là người đọc sách sao?”
Tần Nguyên cười điềm đạm: “Bất tài chỉ đọc qua vài quyển thư văn.”
“Tần công tử là người ở đâu?”
“Nguyên quán ở phủ Thái Nguyên.”
…
Cứ thế dây dưa một lúc lâu, mãi tới khi mọi người dần lặng xuống.
Tần Nguyên bưng một cái chén to lên, xoay thật từ tốn rồi thản nhiên nói: “Đôi bên chúng ta hợp tác đều dựa cả vào thành ý, các vị có lời gì cứ nói, không cần câu nệ.”
“Tần quân sư, vậy thì lão đây xin nói…” Người mở lời là lý chính của thôn Khê Đầu: “Lão đây là một người quê mùa, có nói sai gì xin ngài đừng để bụng.”
Tần Nguyên gật đầu, một lần nữa ra hiệu cho ông lão nói.
Vu lý chính có vẻ khó xử, ấp úng nói: “Mấy hôm trước ta và nhóm Hồ lý chính đã đi thương thuyết với các thôn, khuyên họ gia nhập quân Phá Lỗ với chúng ta, nhưng mà có vài thôn dân trong thôn… nói chuyện không dễ nghe, còn bảo rất nhiều tướng sĩ của Phá Lỗ không có gia đình… Công tử hãy nghĩ xem, nhà ai mà không có thê tử, nữ nhi hay tỷ muội. Nói nào ngay, rất nhiều thôn dân đều hoang mang trong lòng. Lão đây đứng đầu mọi người cũng rất rối, nên lão muốn nhờ quân sư nói mấy câu, để lão về trấn an họ.”
Tần Nguyên nghe xong thì bất giác cong môi, lời đồn này thật ý nghĩa. Y tiếp tục xoay cái chén trầm ngâm giây lát, mãi tới khi Vu lý chính sắp ngồi không yên nữa, y mới nói với giọng chẳng chút hoang mang: “Các vị có biết danh hiệu Phá Lỗ này là từ đâu mà có không?”
Mọi người đồng loạt lắc đầu, mờ mịt không biết.
“Đó là vì phần đông chúng ta đều tới từ quan ngoại.” Tần Nguyên nói tới đây thì bèn đứng dậy, nói tiếp với vẻ mặt nghiêm túc: “Tướng sĩ trong quân ta phần lớn có thù không đội trời chung với Thát tử. Thát tử thừa cơ thiên tai nhân loạn mà nuốt chửng biên giới ta, tàn sát phụ thân và huynh ta, hạ nhục tỷ muội ta. Vì thế, đại ca của ta mới dựng binh khởi nghĩa, chỉ huy các huynh đệ huyết chiến tới cùng với bọn Thát tử. Quân Phá Lỗ chúng ta giết người như rạ không sai, hung ác như Diêm Vương cũng không sai, nhưng đối tượng chỉ là Thát tử. Quân Phá Lỗ chưa từng cướp đoạt một phân một hào của bách tính cùng khổ, càng nghiêm cấm tướng sĩ lăng nhục nữ nhân, một khi phát hiện, nhất định chém không tha!”
Lời phân trời đầy khẳng khái hùng hồn của Tần Nguyên vừa dứt, mọi người quay sang nhìn nhau, vừa sợ hãi vừa thán phục.
Tần Nguyên lại nói tiếp: “Tần mỗ không biết rốt cuộc là người phương nào bịa đặt để mê hoặc chúng dân. Thế nhưng, thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, ta hy vọng các vị hãy làm một người có đôi mắt sáng suốt tinh tường.”
…
Đến đây việc thương lượng của nhóm Tần Nguyên đã hoàn thành tốt đẹp.
Sau khi Văn Đan Khê và Lý Băng Nhạn làm xong việc nhà, hai người bàn nhau định vào thành một chuyến. Cô dẫn hai đứa trẻ qua nhà Vương bà nhờ bà trông chừng, còn cô và Lý Băng Nhạn cõng theo một cái gùi ngồi lên xe lừa lên đường tới huyện Thanh Dương. Hai người tới thị trấn cũng mất tầm hai canh giờ, sau đó mọi người đều xuống xe để mua đồ dùng lặt vặt.
Mấy hôm trước thị trấn cũng bị bọn mã phĩ càn quét, tổn thất không ít, người qua lại trên đường thưa hơn mọi khi rất nhiều.
Văn Đan Khê tới tiệm tạp hóa mua muối ăn và kim chỉ, rồi ghé một hàng vải chọn ít vải bố, định may cho bốn người bộ quần áo mùa hè. Lý Băng Nhạn cũng mua vài túi hàng thêu và mấy miếng vải vụn. Lúc đi ngang qua hàng thịt, Văn Đan Khê lại mua một cục xương to và một bộ lòng bò. Sau cùng, hai người ghé tiệm lương thực để mua hạt giống.
Văn Đan Khê ngó nghiêng mấy loại hạt giống trên quầy, cất giọng hỏi: “Hỏa kế, không có loại khác sao?”
Hỏa kế lắc đầu: “Cô nương, vùng này chỉ có những loại đó thôi.”
Văn Đan Khê cười nói: “Nhưng loại ta muốn mua không giống những thứ này. Trước đây ta có đọc qua sách, bảo là có khoai lang và hạt ngô chuyển tới từ phía Nam, sao ở đây lại không bán chứ? Thôi vậy, chúng ta đi chỗ khác coi thử.”
Hỏa kế nghe xong thì suy nghĩ giây lát, đột nhiên gọi với theo: “Á, hai vị, hai vị chờ một tý.” Nói rồi chạy xăm xăm vào trong.
Văn Đan Khê cũng không gấp, kiên nhẫn chờ ở ngoài.
Một lát sau, hỏa kế kéo một bao tải bẩn thỉu ra. Hắn lấy tay phủi phủi bụi rồi nói: “Cô nương này, cô coi thử có phải loại cô cần không?”
Văn Đan Khê ngồi xổm xuống ngắm nghía, nửa túi này đúng là khoai lang và khoai tây, hơn nữa còn là mầm!
Cô vui thì vui trong lòng, song trên mặt thì vẫn bình thường, hỏa kế thấy cô không thích thú lắm thì gãi đầu nói: “Những thứ này đều chuyển tới từ phía nam, để lâu trong tiệm chả có ai mua nên chưởng quỹ nấu ăn một ít, bây giờ nó mọc mầm rồi nên không dám ăn nữa, đang chuẩn bị mang về nhà nuôi heo.”
“Tốt, những thứ này ta đều cần, cậu xem thử bao nhiêu tiền?”
Nhiều đồ như vậy nhưng hỏa kế chỉ lấy của cô mười văn tiền. Văn Đan Khê lại dặn hỏa kế nếu có hạt giống nào cùng loại tới từ phiên bang thì cứ giữ lại cho cô. Hỏa kế vui vẻ đồng ý.
Hai người tay xách nách mang nên cũng lười đi dạo tiếp, bèn quay về chỗ xe lừa đậu để về thôn.
Huyện Thanh Dương cách thôn Thanh Khê cũng khá xa, ngồi xe lừa tầm hai canh giờ mới về tới nhà. Hai người nói cám ơn với người đánh xe xong rồi xách bao tải về nhà.
Mới về tới trước sân thì đã thấy Tần Nguyên và Mặt Thẹo đang ngồi trước căn phòng trống kế bên nhà cô. Hạ hắc tử đang cầm cái bào bào một mảnh gỗ, Tần Nguyên nhác thấy hai người thì vội đứng dậy cười nói: “Hai người về rồi à.”
Mặt Thẹo thì sáp ngay lên phụ vác đồ vào trong sân.
Văn Đan Khê thuận miệng hỏi: “Đã thương lượng xong chưa?”
Tần Nguyên gật đầu: “Đã xong, à phải rồi, ta vừa nói với lý chính, mấy gian phòng này về sau làm phòng nghị sự của chúng ta.”
Văn Đan Khê sửng sốt một lát, chỉ nói: “Ừ, cũng tốt.”
“Văn đại phu đang bận, giờ chúng ta sẽ đi thăm thú trong rừng, có chuyện gì thì cô cứ gọi một tiếng là được.”
Văn Đan Khê tán gẫu vài câu với ba người xong thì quay lại sân, xắn tay áo lên bắt tay vào việc. Cô lấy ra mấy củ khoai lang có ngoại hình đẹp chôn xuống đất, đắp bùn ẩm lên, đúng ra là nên bón phân, nhưng cô không ngửi được mùi đó, không còn cách nào khác là dùng phân tro để thay thế. Mấy ngày nữa, những củ khoai lang này sẽ trổ ra rất nhiều mầm, đợi nó lớn lên thành cây giống thì có thể dời tới đất trồng. Cô phải dành thời gian để dọn dẹp đất ở trước và sau nhà. Cô nhớ vào cuối thời nhà Minh, cả Trung Hoa thiên tai không ngừng, người chết đói la liệt khắp nơi, ai biết ở đây có rơi vào tình cảnh đó hay không chứ. Bất kể ra sao, cô phải bắt đầu chuẩn bị trước.
Văn Đan Khê thầm thấy vui mừng, may là lúc bé cô đã từng làm ruộng. Trước lúc mẹ qua đời, cha nghĩ không khí ở nông thôn có lợi cho cơ thể mẹ, bèn mua hai mẫu đất ở ngoại thành, lúc rảnh rỗi cả nhà ba người sẽ cùng nhau trồng trọt.
Nhà cô không quan tâm lắm tới chuyện thu hoạch, nên loại nào cũng muốn trồng một ít. Thành thử hai mẫu đất lại trồng tới hai mươi loại cây, làm mẫu đất trông hệt như cái vườn bách thảo. Những bà con đồng hương đi ngang qua cứ cười nhạo nhà cô mãi, nhưng cả ba chẳng buồn tức giận, còn hết sức khiêm tốn học hỏi cách trồng trọt của những hàng xóm lân cận.
Văn Đan Khê nghĩ tới gia đình mình thì trên mặt bỗng toát lên vẻ hạnh phúc lẫn buồn bã. Tuy cô suy nghĩ viễn vong là thế, nhưng động tác trên tay vẫn chẳng chậm đi chút nào. Lý Băng Nhạn cũng phụ một tay.
Hai người vùi đầu làm việc, chợt nghe trong sân vọng tới một loạt tiếng bước chân lộn xộn, trong đó còn kèm theo rất nhiều giọng của nữ nhân. Văn Đan Khê tưởng có người tới khám bệnh, nên vội vàng rửa tay ra đón.
Tới khi cô ra ngoài nhìn rõ mới biết, hóa ra tới đây không phải người trong thôn, hơn nữa nom dáng vẻ không giống như muốn xem bệnh. Người phụ nữ dẫn đầu trạc bốn mươi tuổi, tạng người cao gầy, xương gò má nhô cao, cặp môi mỏng dính, ánh mắt soi mói lạnh nhạt, trông khá là cay nghiệt. Đứng hai bên bà ta là hai nha hoàn.
Văn Đan Khê đờ ra một thoáng rồi bước lên hỏi: “Vị đại thẩm này có phải tới xem bệnh không?”
Trong mắt người phụ nữ kia lóe lên tia khinh ghét, không đợi bà ta đáp, nha đầu áo đỏ đứng bên trái đã trợn trắng mắt lên, hừ lạnh một tiếng: “Ai tới xem bệnh? Cô mới là đứa bị bệnh. Sao nào? Đừng nói cô bệnh tới phát ngu, ngay cả phu nhân nhà ta mà cũng không nhận ra nhé?”
Văn Đan Khê chau mày lại, lòng đã hơi sáng tỏ, cơn tức bỗng trỗi dậy nhưng cô vẫn cố nhịn, nói tiếp: “Nhìn hơi quen mắt, nhưng nhất thời không nhớ nổi.”
Lúc này, người phụ nữ trung niên lên tiếng: “Văn cô nương đúng là người đãng trí, mới mấy ngày trước thôi con ta còn bị cô đuổi đi, nhớ chưa?”
Trong lòng Văn Đan Khê đã xác định được thân phận của bà ta, bà ta chính là Phương thị mẹ của Chu Lương Tuấn. Nghĩ rồi cô nhướn mày lên, khẽ mỉm cười: “Bình thường có rất nhiều người tới đây xem bệnh, đâu thể nào nhớ hết toàn bộ chứ.”
“Ta lặp lại lần nữa, phu nhân nhà ta không tới đây xem bệnh!”
Văn Đan Khê đáp nhẹ nhàng: “Ta có bảo bà ấy bị bệnh sao? Các vị có chuyện gì xin cứ nói.”
Nói tới đây cô đã hết kiên nhẫn nổi, rốt cuộc cái nhà này muốn gì hả? Từ hôn rồi mà từ nhỏ tới lớn kéo nhau tới làm phiền cô. Lẽ nào nhìn cô dễ ăn hiếp lắm à?
Phương thị nhìn đăm đăm Văn Đan Khê một lát, rồi hờ hững nói: “Tuấn nhi nhà ta và Vương cô nương sẽ thành thân vào cuối tháng này.”
Bà ta nói xong rồi nhìn Văn Đan Khê với vẻ thản nhiên tự đắc, những người khác cũng trưng ra cái vẻ như sắp được xem hài kịch.
Văn Đan Khê cười tỉnh bơ: “Chu phu nhân tới đây là muốn đích thân đưa thiệp mời sao? Thật là vinh hạnh quá.”
Phương thị không thèm nói vớ vẩn với cô, chỉ cười khẩy nói: “Cô đánh giá mình cao quá nhỉ, ta chỉ sợ đến hôm đó cô chường mặt tới gây rối, hai nhà chúng ta không giống với nhà cô, khách nhân toàn là những người có máu mặt… Hôm nay ta tới đây chính là để thông báo một tiếng.” Nói rồi bà ta vung tay lên, bọn nha đầu và bà tử sau lưng ôm theo đồ đạc nối đuôi nhau vào.
Phương thị thấy đồ đạc được dọn hết vào sân rồi mới dùng giọng đều đều nói: “Chỉ cần cô không tiêu lãng phí, thì những thứ này cũng đủ để cô sống trọn nửa đời còn lại, coi như Chu gia chúng ta đã hết lòng hết nghĩa với cô rồi, cô đừng vì túng quẫn quá mà phải thông đồng với bọn giặc cướp. Cô không nghĩ cho mình, thì cũng phải lo cho danh tiếng của tiền bối chứ.”
Lý Băng Nhạn đứng bên nghe thấy câu này thì tái mặt, cô vừa định mở miệng thì Văn Đan Khê đã lên tiếng: “Chu phu nhân, thỉnh bà khẩu hạ lưu tình.”
Như nghĩ nói chuyện với cô là tự hạ thấp giá trị mình, Phương thị phất tay một cái như đuổi ruồi rồi nói: “Đừng ngụy biện, cô biết rất rõ mà!” Nói rồi bước tiếp tới trước không nhanh không chậm.
Giờ đây Văn Đan Khê đã giận điên lên rồi, hai đời làm người đây là lần đầu tiên cô bị người ta nhục mạ thế này, cô nuốt trôi cục tức này mới là lạ!
Thế là cô chẳng thèm nghĩ ngợi gì thêm, hét lớn một tiếng: “Đồ đê tiện họ Phương kia! Bà đứng lại đó cho ta!”
Tiếng quát xé tai của cô làm tất cả mọi người trong sân giật bắn, chẳng ai ngờ nổi người cô mảnh khảnh thế kia, mà lại hét ra lời thô tục với khí thế ghê gớm nhường này. Phương thị hơi loạng choạng, mặt bà ta từ trắng sang xanh rồi biến đỏ, cặp mắt trừng chết Văn Đan Khê. Có một thoáng bà ta cho là mình nghe lầm. Đây là Văn Đan Khê thi thư đầy bụng, thanh cao kiêu ngạo mà bà ta quen sao?
Văn Đan Khê đi tới trước mặt bà ta mà mặt lạnh tanh, nhìn thẳng vào mắt của Phương thị, gằn từng chữ: “Bà không tin ta sẽ mắng người phải không? Ta cho bà hay, ta vốn không biết mắng ai đâu, nhưng từ khi gặp Chu gia mấy người thì ta biết rồi. Ta muốn nói cho bà rõ: Bà có miệng, lẽ nào ta không có? Bà có thể ngậm máu phun người, lẽ nào ta không thể? Nếu bà dám bôi nhọ danh dự ta, thì ta sẽ chà đạp thanh danh con gái bà! Để cả đời Chu gia không ngóc đầu lên nổi! Dù sao ta cũng đã bị người ta từ hôn, thì vua cũng thua thằng liều!”
Phương thị vẫn nhìn chòng chọc Văn Đan Khê mà chẳng thốt nổi câu nào, ánh mắt tối tăm lạnh lẽo, nhưng Văn Đan Khê chẳng sợ, cuối cùng cô trầm giọng bổ sung một câu:
“Nhớ kỹ, đây là lần cuối cùng! Mình sống thì phải để cho người khác sống, bằng không tất cả đừng sống nữa!”
Nói xong câu này, cô la lớn: “Lôi hết mấy thứ kia đi!”