Trần Thích và đám người của Lãnh sư gia dùng roi thúc ngựa, thừa lúc cửa thành Trừ Châu vẫn chưa đóng liền nhanh chóng tiến vào trong để bái kiến Tri châu.
Lại nói Trừ Châu và Kinh Lăng bị ngăn cách bởi con sông Trường Giang, mà Tạ gia vốn buôn bán làm ăn tại Nam Kinh nên không tránh được việc phải giao tiếp với các vị quan, toàn bộ đất nam Trực Lệ cho đến Nam Kinh, tất cả các vị trưởng quan phủ huyện không có người nào là Lãnh sư gia không quen, duy chỉ có Tri châu Trừ Châu đến đây nhậm chức vào năm năm trước, mà khoảng thời gian đó lại trùng hợp lúc Lãnh sự gia ra biển với Tạ Dực cho nên vẫn chưa kịp đến chảo hỏi nhân vật này, chỉ biết người người gọi là Nguyễn Gia Hữu, từng là Tri huyện của Cát An thuộc Giang Tây tại phủ Long Tuyển.
Trưởng quan bái kiến địa phương yêu cầu phải đưa danh thiếp nhưng hiển nhiên hiện tại mọi người đều không còn nhiều thời gian nên chỉ có thể lạm quyền một chút, thông truyền với người gác cổng.
Trần Thích vốn là mệnh quan triều đình nên lúc này hắn ra mặt, hành lễ đối với người gác cổng đứng ở đối diện, nói: “Tại hạ là thị độc Trần Thích tại Hàn Lâm Viện Bắc Kinh, có việc gấp cần cầu kiến Nguyễn Tri Châu, mong các vị thay tại hạ thông truyền.”
Người gác cổng nghe thấy ba chữ “Hàn Lâm Viện” mới nhìn lên, liếc ngang nhìn Trần Thích rồi nói “Chờ một chút”, sau đó đứng lên đi vào phủ, cũng không mời bọn họ vào trong uống tách trà cho nên mọi người chỉ đánh đứng bên ngoài trước gió lạnh, ai nấy đều phải xoa tay chờ đợi ngoài cửa.
Tiểu nhị của cửa hàng Tạ thị thấy thái độ xem thường, ngạo mạn của tên gác cổng thì bắt đầu cảm thấy không hài lòng.
Mối làm ăn của Tạ gia trải rộng khắp thiên hạ, cả một vùng đất Giang Nam này cũng nắm rõ trong lòng bàn tay chứ đừng nói là một Tri châu nho nhỏ, thậm chí ngay cả Tuần phủ đến trước mặt ông chủ của bọn họ cũng chẳng dám làm kiêu gì cả.
Tất cả mọi người đều chịu lạnh, chịu đói chờ tận nửa ngày trời nhưng vẫn không nhận được hồi âm, đám tiểu nhị bắt đầu tức giận.
“Tại sao còn chưa quay về nữa chứ? Chẳng lẽ là không xem trọng chúng ta sao?”
“Sớm biết thế thì đã để Lãnh tiên sinh ra mặt rồi.”
“Đúng vậy, thị độc Hàn Lâm Viện là cái gì chứ? Còn không bằng danh tiếng Tạ gia của chúng ta…”
Tuy rằng người nọ đã cố gắng hạ giọng hết mức nhưng Trần Thích vẫn nghe thấy, sắc mặt hắn trở nên có chút khó coi, gượng ép nặn ra một nụ cười rồi nói: “Cứ chờ một lát đã, có lẽ sắp đến rồi.”
Lãnh sư gia cũng răn dạy: “Nếu chờ không được thì quay về khách điếm đi "
Đối phương không kiềm được mà cãi: “Lãnh tiên sinh, không phải ta không chờ được mà là Tôn tiểu thư và cô gia không chờ được đó.”
Lãnh sư gia im lặng không lên tiếng, hai hàng mày cau thật chặt, hiển nhiên cũng là đang lo lắng vì chuyện này.
Cũng may lúc này người gác cổng cũng đã ra tới, chỉ là đối phương lại coi bọn họ như không khí mà đi vào phòng canh gác của mình.
Tiểu nhị của cửa hàng Tạ thị cuối cùng cũng tức đến độ nổ tung rồi.
“Này... có ý gì đây hả? Không thấy chúng ta sao?”
“Con mẹ nó! Ngay cả một tên gác cổng cũng xem thường người khác! Tốt nhất là nên đập nát cái phủ này luôn đi!”
“Nhìn kìa, ta đã nói nếu như Lãnh tiên sinh ra mặt thì ..”
Lãnh sư gia vội quát một đám người muốn gây sự, kẻ xấu hổ nhất hiển nhiên không ai khác ngoài Trần Quát, chính hắn tự bước lên để ra mặt mà kết quả như một cái tát trực diện cực kì đau đớn, không ngờ rằng bản thân là một thị độc tại Hàn Lâm Viện do chính Thiên tử khâm diểm mà mặt mũi lại không bằng một sư gia.
Trần Thích cố gắng kiềm nén sự nhục nhã trong lòng, đi đến cửa sổ của tên canh gác, giọng điệu nhỏ nhẹ, hỏi: “Cho hỏi Tri châu Nguyễn…”
“Cút! Ai cho người dám gọi như thế? Ngươi nghĩ rằng Tri châu đại nhân là người mà ngươi muốn gặp liền được toại ý nguyện sao?”
Má trái của tên gác cổng kia bị sưng to, đối phương tức giận sôi m.á.u trừng mắt Trần Thích.
Vốn dĩ hắn vừa mới đi vào để thông truyền, xui xẻo thay lại đúng lúc Tri châu đang mây mưa với di thái thái vừa nạp vào, chuyện tốt của Tri châu Nguyễn bị đánh gãy giữa chừng, tức giận đến độ kéo quần bước ra cửa rồi tát một cái thật mạnh vào tai của hắn.
Sau đó nghe nói có người của Hàn Lâm Viện đến cầu kiển, Tri châu Nguyễn càng lớn giọng mắng chửi thêm một lúc.
Đại quan chốn quan trường tại Nam Kinh rất nhiều, một tên lục phẩm thị độc chẳng qua cũng chỉ là tiểu quan quèn lại đến trước quan phủ ngũ phẩm Tri châu e là cũng chỉ có tư cách xách giày cho hắn, càng huống hồ đối xuất thân từ Hàn Lâm Viện ở Bắc Kinh xa xôi, làm sao mà có bất kì mối liên hệ nào được? Không chừng là kẻ lừa đảo nào đó thôi.
Thật ra thì trước khi người gác cổng đi vào bẩm báo cũng đã từng hoài nghi như thế.
Kể từ sau khi trận huyết chiến đẫm m.á.u tại khách điếm, đám người Lãnh sư gia vẫn chưa có thời gian tắm rửa nên chỉ có thể dùng nước sạch để rửa sơ cả người đầy mỏi mệt, ai nấy cũng mang gương mặt xám tro, trước đó Trần Thích cũng bị m.á.u văng đầy đầu, dấu vết đỏ rực đỏ cũng chưa rửa sạch sẽ, nhìn qua chẳng phải giống một tên ăn mày hay sao?
Còn nữa, Trần Thích nói chuyện nho nhã, lễ độ, rất khách sáo đối với một tên gác cổng, ngay cả một chút khí thế của quan lớn còn không có.
Cho nên người gác cổng cảng cảm thấy bản thân như bị mắc mưu, thái độ đối với đám người Trần Thích lại thêm phần không khách sáo, đuổi thẳng bọn họ nhanh chóng rời khỏi, nếu không thì sẽ cho người đến đánh đuổi.
Trần Thích không ngờ bản thân rơi vào tình cảnh nhục nhã như thế, gương mặt tức giận đến độ đỏ bừng, bàn tay không khỏi siết chặt hơn.
“Sao mà các ngươi lại không biết xấu hổ đến thế hả? Còn muốn ăn vạ à? Có phải muốn ta đi gọi người đến đây không?”
Người nọ toan định đứng dậy đuổi người thì đột nhiên một nén bạc bay từ cửa sổ vào trong, đập vào trong n.g.ự.c hắn. “Nói với lão gia của các ngươi, Lãnh Tư Thành của cửa hàng Tạ thị đến chào hỏi, mau chóng gặp mặt!”
Sau khoảng thời gian một bao thuốc lá, nhóm người Lãnh sư gia cuối cùng cũng được cung kính mà mời vào phòng khách ngồi, đám hạ nhân dâng lên loại trà xanh ngon nhất vừa mới pha - Lục An.
Tri châu Nguyễn Gia Hữu đã áo quần chỉnh tề, vội vàng tiếp đón, bởi vì quá gấp gáp nên suýt bị ngã khi vào cửa, thiếu chút nữa đã quỳ lạy mọi người trong đại sảnh.
Lãnh sư gia tiến tới giúp Nguyễn Gia Hữu, nói: “Nguyễn đại nhân, giữa đêm khuya tại hạ mạo muội đến đây, mong ngài rộng lòng lượng thứ.”
Nguyễn Gia Hữu vội vàng lau mồ hôi trên trán: “Nào có, nào có. Lãnh tiên sinh không cần phải nói như thế, à mà... Tuy rằng bản quan chưa từng gặp qua tiên sinh nhưng đã nghe đại danh của tiên sinh từ lâu, bản quan vẫn luôn ngày ngóng đêm trông, đúng lúc hôm nay có dịp gặp gỡ, quả thật là phúc đức ba kiếp người, phúc đức ba kiếp người....” Đám tiểu nhị vừa nghe, ai nấy đều không hẹn mà cùng suy nghĩ rằng cái tên này da mặt đúng là dày, sao bây giờ mới biết khách khí? Trước đó sao không như thế đi?
Đối với vẻ mặt nịnh bợ của các viên quan, Lãnh sư gia sớm đã vô cùng quen thuộc, Giang Nam vốn là vùng đất giàu có, Tạ gia lại là một gia tộc có danh tiếng vang xa, cho nên nếu đến phía nam Trực lệ làm quan, muốn con đường thông thuận, giàu đến chảy mỡ thì chắc chắn phải khách sáo với người của Tạ gia.
Lãnh sư gia cười to, nói: “Nguyễn đại nhân khách khí quá, mời ngài ngồi.”
Nguyễn Gia Hữu lập tức khiêm tốn: “Mời Lãnh tiên sinh ngồi, ngài mới là khách, phải ngồi trước mới phải lẽ.”
Tất nhiên là Lãnh sư gia cố gắng từ chối rồi giới thiệu Trần Thích cho đối phương biết rõ.
Nguyễn Gia Hữu vừa nghe xong, quả thật là quan ở Hàn Lâm Viện tại Bắc Kinh đến, là Trạng nguyên khoa cử, hắn liền lập tức tán thưởng: “Tuổi trẻ tài cao” mà trong lòng không ngừng hối hận.
Tức thì, cả ba người liền phân định chủ khách ngồi xong. Lãnh tiên sinh mới vào vấn đề chính: “Không dám dối Nguyễn đại nhân, giữa đêm tại hạ lại đến làm phiền ngài chính là vì có chuyện muốn nhờ Đại nhân ra tay tương trợ.”
Nguyễn Gia Hữu nghe xong, thầm nghĩ còn có chuyện tốt đến thế này à?
Người của Tạ gia có việc muốn giúp còn không phải là sẽ đưa bạc cho người của hắn sao?
Cho nên Nguyễn Gia Hữu liền vui ra mặt: “Mời Lãnh tiên sinh nói, nếu là chuyện trong tầm tay thì nhất định bản quan sẽ dốc toàn tâm toàn lực để giúp.”
Lãnh sư gia cảm nhận được thời cơ đã đến nên lập tức kể trên đường đã gặp hắc điếm như thế nào, Thẩm Gia bị đám thổ phỉ trói rồi bắt đi ra sao, mãi đến cuối cùng chính là mong hắn đem quân lên núi diệt đám man rợ đó.
Mà Nguyễn Gia Hữu nghe xong, sắc mặt có chút khó coi, muốn nói lại thôi: “Cái này…”
Lãnh sư gia lên tiếng: “Đại nhân có chuyện gì cứ nói thẳng.”
“Vậy được.” Nguyễn Gia Hữu nói: “Lãnh tiên sinh, không dám gạt ngài, đám thổ phỉ trại Bạch Hổ ở Sào Hồ tác oai tác quái đã lâu. Kênh rạch Sào Hồ rất chằng chịt, có nhiều thương nhân qua lại cho nên ngày thường bọn chúng sẽ tuần tra, gặp được thuyền của thương nhân thì sẽ lên đó cướp bóc, nếu không có của cải thì chúng liền bắt cóc người già, phụ nữ và trẻ em rồi báo tin trở về, nói cho người nhà biết quy tắc chuộc người, nếu đã đến ngày hẹn mà tiền vẫn chưa có thì đám đó sẽ động thủ g.i.ế.c con tin. Mà những khi nhàn rỗi, bọn chúng còn lên đất liền để cướp của, nếu ban đêm gặp phải cô nương xinh đẹp sẽ bắt lên ngựa, ngay cả vùng lân cận như Lư Châu, Trừ Châu cũng phải chịu cùng cảnh ngộ.”
Trần Thích nghe thấy thế liền cau mày: “Vậy sao không tiêu diệt?”
“Tiêu diệt?” Nguyễn Gia Hữu cười khổ, nói tiếp: “Ngài cho rằng chúng ta không thử tiêu diệt sao? Nhưng vấn đề là không thể đó! Đám đó là dạo tặc hoành hành ở hồ, phần lớn đều là lưu manh ở thôn huyện lân cận, quân lính thì ít ỏi, những ngư dân sinh sống ở cạnh Sào Hồ đều là tay bơi cừ khôi. Ban ngày bọn họ không ở cố định một chỗ, luôn ẩn nấp trong các bụi cỏ lai, mà đến đêm thì mười chiếc thuyền nhỏ sẽ cùng tụ tập lại một nơi, nếu như ngài muốn tấn công thì bọn chúng sẽ lặn xuống nước, ngài sẽ không thể tìm thấy chúng, địch thì ở trong tối còn ta lại ở ngoài sáng, làm sao đánh trả đây? Hơn nữa, nếu như ngài đánh thì bọn chúng sẽ trả thù ngài, phóng hỏa g.i.ế.c người, dân loạn cướp của, không chuyện ác nào mà chúng không làm. Trần đại nhân à, bản quan cai quản cả một châu nên việc gì cũng phải suy xét cho bá tánh trước tiên.”
Lãnh sư gia nghe Nguyễn Gia Hữu nói nhiều như thế liền biết hắn không hề muốn tấn công vào hang ổ của đám thổ phỉ, hay nếu nói rõ ràng hơn một chút thì chính là Tạ gia không đáng để hắn làm chuyện tốn công vô ích này.
Cuối cùng, Lãnh sư gia cắt ngang lời đối phương: “Nguyễn đại nhân, tại hạ biết ngài cũng rất khó xử nhưng đám này là thổ phỉ, ngài không tiêu diệt được nhưng trên núi vẫn có người, ngài không thể không cứu.”
Gương mặt Nguyễn Gia Hữu lập tức nhăn nhó: “Lãnh tiên sinh à, cái này còn không phải là ngài đang làm khó ta sao?”
Lãnh sư gia tùy ý nói: “Không phải là tại hạ làm cho Đại nhân khó xử nhưng không biết là ngay cả an nguy của Phù Phong Vương điện hạ, ngài cũng không để tâm tới hay sao?”
“Cái gì?!” Nguyễn Gia Hữu nheo mắt rồi trừng lớn: “Phù Phong Vương sao? Chuyện này có liên quan gì đến Phù Phong Vương?”
Lãnh su gia lên tiếng: “Có lẽ đại nhân vẫn chưa biết, Phù Phong Vương chính là hôn phu của của tôn tiểu thư nhà ta. Trước mắt Vương gia và Vương phi đã bị bọn cướp bắt đi, an nguy của hai người họ gắn liền với Đại nhân cho nên nếu ngài vẫn còn trì hoãn thời gian, nếu Vương gia xảy ra mệnh hệ gì thì ngày sau Thánh Thượng sẽ trách tội ngài…”
Lãnh sư gia vẫn còn chưa nói xong đã bị Nguyễn Gia Hữu gào khóc cắt ngang.
“Lãnh tiên sinh! Chuyện này sao ngài không nói sớm hơn chứ? Ta... ta, ta, ta không thể làm chủ chuyện này được đâu! Chuyện lớn như thế, ta chỉ là một Tri châu nhỏ bé của một nơi làm sao mà quyết định được? A... phải rồi, cứ đi bẩm báo cho Tuần phủ tri Ưng Thiên biết để ngài ấy nghĩ cách phải binh đi cứu Điện hạ vậy...”
Nói xong, Nguyễn Gia Hữu muốn nhanh chóng ra cửa nhưng Lãnh sư gia đã giữ chặt ống tay áo của dối phương: “Nguyễn đại nhân! Không kịp nữa đâu! Tình thế khẩn cấp, muộn một giây là nguy hiểm thêm một phần, trước tiên hợp ngựa và quân lính lại rồi cùng ta đến Sào Hồ cứu người!”
Nguyễn Gia Hữu nghe xong liền lập tức hạ lệnh triệu tập nhân lực lại vừa phái một tâm phúc đi bẩm báo cho Ứng Thiên phủ.
Lát sau, khoảng chừng một trăm người và ngựa xuất hiện, mỗi người đều có mang theo đao bên eo, cung tiễn, dây thừng, toàn bộ cưỡi ngựa như phi cơ đại đến Sào Hồ.