Ba đứa nấp trong bóng tối trên đại lội Valencia, đọc dòng chữ vàng khắc trên mặt đá hoa cương đen:
PHÒNG THU M DOA
Dưới đó có chữ in dán trên cửa kính.
KHÔNG LUẬT SƯ. KHÔNG CHẬM TRỄ. KHÔNG CƠ HỘI SỐNG.
Giờ đã sắp nửa đêm nhưng tiền sảnh sáng đèn và đông đúc. Sau bàn bảo vệ là nhân viên an ninh gốc Phi trông dữ tợn, đeo kính đen và xỏ lỗ tai.
Tôi dặn hai bạn:
Các cậu nhớ kế hoạch chưa?
Grover hồi hộp:
Rồi. Kế hoạch hay lắm.
Annabeth thắc mắc:
Nếu kế hoạch ấy không thành thì sao?
Cậu đừng lo quá.
Sắp vào địa ngục, tớ không lo sao được?
Tôi lấy ba hạt ngọc trai trong túi: ba viên tròn trắng ngà nhận từ tay Nữ thần biển ở Santa Monica. Khi nguy khốn, cúu cánh của tôi là ba hạt nhỏ xíu này ư?
Annabeth chạm vai tôi:
Percy, tớ xin lỗi. Cậu nói đúng. Ba đứa mình làm được mà. Không sao đâu.
Cô bạn huých Grover. Nó gật lia lịa:
Phải đấy. Ta có khả năng đến tận đây cơ mà. Giờ chỉ cần lấy lại tia chớp, cứu mẹ cậu là xong. Dễ thôi.
Tôi biết ơn hai đứa vô cùng. Vừa ít phút trước, vì tôi họ suýt bị tra tấn đến chết, giờ lại động viên và can đảm vì tôi.
Tôi cất ngọc trai vào túi:
Ta vào địa ngục kiếm ít chiến lợi phẩm đi nào.
Cả ba kề vai tiến vào phòng chờ của DOA.
Tiếng sáo dìu dặt phát ra từ nhiều loa giấu trong tường.
Thảm và tường ở đây đều màu xám lạnh lẽo. Mấy chậu cây xương rồng kiểng nhọn hoắt trang trí góc phòng trông như xương bàn tay. Đồ nội thất bọc da đen, mọi ghế đều có người ngồi. Trong phòng đầy kẻ đứng người ngồi, có người đứng sát cửa sổ nhìn ra ngòai, người khác chờ thang máy. Họ không đi lại hay nói chuyện, cũng không cử động gì nhiều. Tôi có liếc trộm vài người, thấy họ đều bình thường. Nhưng nếu nhìn lâu, cơ thể họ bắt đầu trong suốt. Tôi có thể nhìn xuyên qua họ.
Bàn bảo vệ kê trên bục cao khiến chúng tôi phải ngước lên nói chuyện.
Nhân viên an ninh sau bàn cao và lịch lãm. Da ông ta màu socola, tóc nhuộm bạch kim cắt sát đến da đầu. Cặp kính râm ông đeo gọng đồi mồi rất hợp với bộ vét lụa thời trang Ý tiệp màu tóc. Trên ve áo ông cài hoa hồng đen ngay dưới bảng tên bằng bạc.
Nhìn bảng tên, tôi phát hoảng:
Chú là Chiron ư?
Ông ta nhòai người lên bàn. Nhìn mắt kính, tôi không thấy gì ngòai bóng của chính mình. Nụ cười của người này vừa ngọt ngào vừa lạnh lẽo, giống phù thủy mãng xà cười trước khi nuốt chửng con mồi.
Ông ta ngói giọng Anh rất lạ, giống người xứ khác học tiếng Anh cố bắt chước cho giống người bản xứ:
Cậu này trông thông minh sáng láng ra phết. Vậy mà… Nói xem, trông ta có giống nhân mã không?
Kh… không ại.
Ông ta ngọt xớt:
“Thưa ngài, không ạ” chứ?
Thưa ngài, không ạ.
Một tay nắm bảng tên, ngón trò bàn tay kia của ông ta chỉ từng chữ:
Đọc to lên xem nào, C-H-A-R-O-N. Giờ nói theo ta nào: Charon.
Charon.
Nhóc này siêu quá ta! Nói tiếp ta xem: Ngài Charon.
Ngài Charon.
Giỏi lắm! Đừng nhầm ta với thứ nửa người nửa ngựa đó nữa, kẻo ta phát điên lên đấy. Giờ nói xem, hồn ma ba nhóc tỳ kia muốn gì đây?
Bị gọi là hồn ma, tôi choáng bèn nhìn Annabeth cầu cứu.
Annabeth dõng dạc:
Chúng cháu muốn xuống địa ngục.
Charon chu môi:
Nghe hay đấy!
Ông nói sao ạ?
Thẳng thắn và thật lòng. Không la oai oái. Cũng không ăn nói ngây ngô, đại loại như: “Thưa ngài Charon, Ngài có nhầm không vậy?”. Nhưng sao mấy đứa chết thế?
Tôi thích khuỷu tay vào sườn Grover.
Nó lắp bắp:
Dạ… chết đuối… trong bồn tắm ạ.
Cả ba ư?
Chúng tôi đồng loạt gật đầu.
Charon thờ ơ:
Bồn tắm to nhỉ? Vậy chắc tụi bay không có hai đồng bạc để lên mắt làm lộ phí xuống âm phủ rồi. Trong trường hợp đó, nếu là người lớn, ta nhận thẻ tín dụng hoặc thêm tiền tàu bè qua sông mê vào hóa đơn truyền hình cáp mới. Nhưng trẻ con… chẳng đứa nào chuẩn bị chết cho cẩn thận cả. Nếu vậy, mấy đứa sẽ phải chờ ít nhất vài trăm năm.
Nhưng chúng cháu có tiền vàng.
Tôi xỉa ba đồng drachma lên bàn. Chẳng là tôi tìm thấy của nả bằng hiện kim giấu dưới bàn làm việc của Crusty. Ba đồng tiền ấy chỉ là số lẻ.
Charon liếm môi:
Chà chà… tiền drachma thật đây mà. Vàng thật hẳn hoi nhé. Lâu lắm rồi ta chưa nhìn thấy…
Bàn tay hau háu của hắn định vơ tiền bỏ túi.
Sắp thành công rồi.
Thình lình Charon nhìn tôi chằm chằm. Tia nhìn lạnh lẽo thấu qua mắt kính như muốn khoan thủng ngực tôi.
Nhưng mà này, lúc nảy mày đọc sai tên tao. Có phải do chứng khó đọc không?
Không. Tại chết rồi nên mắt bị quáng.
Charon nhòai người tới, hít hít:
Mày chưa chết. Đáng lẽ tao phải biết trước mới phải. Mày không phải người phàm. Thế là thần à?
Tôi khăng khăng:
Chúng cháu phải xuống địa ngục.
Charon gầm gừ.
Ngay lập tức, đám đông trong phòng cử động, người đi tới đi lui vẻ khó chịu, người châm thuốc. Đằng này có người vuốt tóc, người đằng kia sốt ruột xem đồng hồ đeo tay.
Charon bảo:
Biến đi trước khi ta đổi ý. Ta sẽ lấy tiền vàng và quên đã gặp các ngươi…
Hắn thèm thuồng dán mắt vào tiền nhưng chúng tôi nhanh tay chộp lấy.
Tôi nói cứng:
Không phục vụ, không có tiền boa.
Charon gầm lên nghe lạnh cả người. Mọi linh hồn trong phòng vội đổ xô về phía thang máy.
Tôi thở dài:
Tiếc quá, tụi này định cho thêm.
Tôi giơ túi đựng đầy tiền của Crusty. Vốc một nắm, tôi để mặc tiền vàng rơi qua kẻ tay.
Tiếng gầm biến thành tiếng sư tử rên:
Tiểu thần linh kia, tưởng mua chuộc được ta chắc? Nhân tiện nói xem trong túi có bao nhiêu tiền?
Nhiều. Đảm bảo nhiều hơn khoản tiền mọn Hades đổi lấy mồ hôi nước mắt của ông.
Nói mồ hôi nước mắt còn nhẹ đấy. Ngươi cứ tưởng tượng đi, phục vụ đám hồn ma kia cả ngày khổ cỡ nào. Chúng suốt ngày ỉ ôi: “Lạy ông, tôi chưa muốn chết.” với lại “Tôi không có tiền. Cho tôi đi đò miễn phí nhé.” Đã vậy suốt ba ngàn năm qua, ta chưa được lên lương lần nào. Mi tưởng mấy bộ vét này rẻ lắm sao?
Tôi hưởng ứng:
Ông xứng đáng nhiều hơn thế. Bằng khen. Sự tôn trọng. Lương hậu nữa.
Nói xong một từ, tôi lại xỉa một đồng vàng.
Charon nhìn bộ vét mốt thời thượng đang mặc, như thể đang hình dung mình mặc bộ khác đẹp hơn.
Chiến hữu này, cậu càng nói càng có lý.
Tôi rắc thêm vài đồng vàng:
Khi nào gặp Hades, ta sẽ đề nghị tăng lương cho ông.
Hắn thở dài:
Nhưng mà đò sắp hết chỗ rồi. Mi tử tế với ta, ta sẽ đưa cả ba lên rồi khởi hành luôn.
Hắn vơ tiền đứng dậy:
Theo ta.
Lúc chúng tôi chen qua đám đông hồn ma ăn chực nằm chờ, họ níu áo ba đứa, miệng thều thào tiếng gì nghe không rõ. Charon làu bàu xua đuổi họ:
Tránh ra, lũ ăn bám.
Hắn đưa chúng tôi đến thang máy đầy chật hành khách cầm sẵn vé màu xanh lá cây. Charon lôi hai linh hồn định vào cùng chúng tôi, đẩy họ về phòng đợi.
Hắn oang oang nói với cả phòng:
Ai hỏi ta đi đâu, cấm đứa nào nói. Kẻ nào hé môi sẽ phải chờ thêm một ngàn năm nữa. Nhớ chưa?
Charon đóng cửa, đưa thẻ khóa vào bảng điều khiển. Thang máy bắt đầu đi xuống.
Annabeth hỏi:
Số phận linh hồn ngoài phòng đợi ra sao?
Không đi đâu hết?
Họ phải chờ bao lâu?
Lâu hay chóng tùy thuộc vào lòng hảo tâm của ta. Mà tính ta chặt chẽ lắm.
Ồ… thế cũng công bằng… nhỉ?
Charon nhướng mày:
Cô nghe ai nói thần chết công bằng bao giờ chưa? Đến lượt cô khắc biết. Cứ đi lang thang vào những chỗ thế này, đảm bảo cô chết sớm.
Tôi khẳng định:
Tụi này sẽ an toàn ra khỏi đây.
Vậy sao?
Tự nhiên tôi chóng mặt. Hình như thang máy không đi xuống nữa. Nó đi ngang.
Không khí biến thành sương mù.
Linh hồn quanh tôi thay đổi hình dạng. Quần áo mốt này nọ tan dần, biến thành áo choàng xám có mũ. Nền thang máy chao đảo.
Tôi chớp mắt lia lịa. Khi định thầnh lại, tôi thấy bộ vét màu kem của Charon đã biến thành áo choàng đen. Kính đồi mồi biến mất. Chỗ đáng lẽ phải là mắt giờ chỉ là hai hốc sâu thẳm, giống mắt thần Ares, chỉ có điều mắt Charon tối đen, chất chứa sự tối tăm, chết chóc và tuyệt vọng.
Thấy tôi ngó trân trân, ông ta cấm cảu:
Nhìn gì mà nhìn?
Đâu có.
Tôi tưởng hắn cười, hóa ra không phải. Da thịt hắn trong suốt, khiến tôi nhìn thấu xương đầu lâu.
Nền thang máy vẫn nghiêng ngả.
Grover than vãn:
Chắc tớ bị say sóng.
Sau lần chớp mắt thứ hai của tôi, thang máy biến thành thuyền gỗ. Charon đang chèo thuyền đua chúng tôi đi trên mặt sông sóng sánh, đen ngòm pha lẫn xương trắng, cá chết và lạ nhất là dưới sông có cả búp bê nhựa, hoa cẩm chướng nát ủng và cặp táp góc mạ vàng sủng nước.
Annabeth lẩm bẩm:
Sông Mê Styx cũng bị…
Charon đỡ lời:
Ô nhiễm. Suốt mấy ngàn năm, con người đã vứt bỏ mọi thứ tốt đẹp xuống đây: hy vọng, ước mơ, và tâm nguyện bất thành. Đúng là đồ vô trách nhiệm hay vứt rác bừa bãi.
Sương bảng lảng trên mặt sông dơ dáy. Cao tít phía trên là vòm hang đầy nhủ đá. Trước mặt, mơi bến bờ xa tắp tỏa ánh sáng xanh lục, màu của chất độc.
Cơn hoảng loạn bóp nghẹt cổ tôi. Sao tôi lại xuống đây? Sao quanh tôi toàn… người chết.
Annabeth nắm tay tôi. Bình thường chắc tôi ngượng chết được. Nhưng lúc này tôi hiểu ý bạn. Annabeth cần giữ vững niềm tin rằng trên thuyền còn có người chưa chết.
Một cách vô thức, tôi lẩm nhẩm cầu xin dù không biết mình cầu xin ai. Dưới này chỉ có một thần có uy quyền, nhưng nhiệm vụ của tôi lại là đấu tranh với ông ấy.
Bến bờ địa ngục hiện ra. Đá lởm chởm và cát tư núi lửa đen sì trải dài từ mép nước đến chân tường đá cao ngất, rộng vô cùng. Đâu đó rất gần vang lên âm thanh dội vào vách đá. Tiếng hú của con gì đó rất to.
Charon cười bảo:
Chó ba đầu đói bụng. Ba tiểu thần linh không gặp may rồi.
Đáy thuyền trượt trên nền cát đen. Hồn ma lần lượt lên bờ. Một cô dắt tay con gái nhỏ. Hai ông bà già khoác tay bước thấp bước cao. Một thằng bé đúng bằng tuổi tôi khoác áo xám đi lầm lũi.
Charon từ biệt:
Chúc may mắn đấy, chỉ có điều may mắn không có dưới âm phủ. Đừng quên nhắc ông chủ tăng lương cho ta.
Đếm tiền vàng trong túi xong, lão ta cầm chèo lên. Vừa hát khe khẽ, Charon vừa chèo thuyền trống nhắm bờ bên kia thẳng tiến.
Ba chúng tôi theo linh hồn đi trên con đường mòn ghập ghềnh.
Tôi không biết sắp tới sẽ là gì: cổng ngọc trai hay cổng lưới sắt? Nhưng lối vào địa ngục giống đoạn đường nói giữa cổng an ninh sân bay với trạm thu phí Jersey.
Dưới mái vòm đen lớn có ba cửa. Trên mái vòm có dòng chữ: Đường đến Erebos. Mỗi cửa có máy dò kim loại và nhiều máy quay an ninh. Phía dưới là ngục thất có ma cà rồng giống Charon mặc áo choàng đen canh gác.
Đến đây, tiếng gầm đói khác của thú vật nghe rõ mồn một, nhưng tôi không biết nó phát ra từ đâu. Chúng tôi không thấy Cerberus, chó ba đầu gác cửa nhà thần Hades, đâu cả.
Linh hồn xếp thành ba hàng. Hai hàng có chữ SẴN SÀNG PHỤC VỤ, một hàng ghi EZ DEATH. Hàng EZ DEATH tiến rất nhanh. Hai hàng kia cực kỳ chậm.
Tôi hỏi Annabeth:
Cậu biết gì về ba hàng này không?
Hàng tiến nhanh chắc chắn đến thẳng chỗ Asphodel. Họ không phản đối gì. Họ không muốn chịu rủi ro khi đến hầu tòa vì rất có thể tòa sẽ có bằng chứng chống lại họ.
Người chết có tòa án à?
Có chứ. Ba quan tòa toàn người nổi tiếng như Vua Minos, tổng thống Thomas Jefferson và đại thi hào Shakespeare...sẽ thay nhau chủ trì. Họ phân tích một đời người, sau đó thi thoảng quyết định nên khen tặng, tức là lên thiên đường, hay nên trừng phạt. Còn nói chung ai sống đời bình dị, không đặc biêt, không xấu mà cũng không tốt sẽ đến chỗ Asphodel.
Đến đó làm gì?
Grover ví von:
Cứ hình dung cậu đứng giữa đồng lúa mỳ mênh mang ở Kansas. Cố đi những vẫn như đứng một chỗ.
Khổ thế cơ à?
Thế đã thấm gì. Trông kia kìa.
Hai ma cà rồng áo đen vừa lôi một linh hồn ra cấu xé ngay cạnh bàn bảo vệ. Ông này trông rất quen.
Grover hỏi tôi:
Ông ấy là nhà thuyết giáo từng lên truyền hình, nhớ không?
Ừ, đúng là ông ấy.
Tôi từng thấy ông ta vài lần trên tivi của kỳ túc xá Học viện Yancy. Ông tự xưng là nhà hảo tâm quyên góp hàng triệu đô la cho trẻ em mồ côi, sau đó bị bắt quả tang dùng tiền ấy mua dinh thự, sắm toa lét cẩn vàng và xây sân gôn trong nhà. Bị cảnh sát truy đuổi, ông ta chết khi lao chiếc Lamborghini cực xịn xuống vực.
Tôi hỏi:
Họ định làm gì ông ta?
Grover đoán:
Hình phạt đặc biệt do Hades tự nghĩ ra. Người cực kỳ xấu xa sẽ được canh phòng cẩn thận ngay khi mới đến. sau đó các Nữ thần Báo Thù sẽ hành hạ họ đến muôn đời.
Nhắc đến Nữ thần Báo Thù làm tôi rùng cả mình. Họ sẽ còn kinh khiếp hơn khi được tung hoành ngay trên “Sân nhà”. Cô Dodds chắc đang háo hức ăn tươi nuốt sống cô.
Nhưng ông này theo tôn giáo khác. Nhỡ ông ấy không tin có địa ngục thì sao?
Grover nhún vai:
Ông ta không nhìn noi này theo lăng kính của tớ và cậu. Con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy. Sao cậu không chịu hiểu điều đó?
Ba đứa tiến đến gần cửa. Dù tiến chó tru rung chuyển mặt đất nhưng tôi không biết nó phát ra từ đâu.
Cách chúng tôi chừng hai mươi mét, màn sương xanh lè nhạt dần. Đầu đường mòn đoạn nối với ba cửa có con quái vật khổng lồ, đen đúa.
Lúc đầu tôi không thấy nó bởi nó gần trong suốt giống người chết. Những lúc không chuyển động, nó chìm vào khung cảnh xung quanh, chỉ có mất và răng là thật. Lúc này nó nhìn tôi chằm chằm.
Tôi ngạc nhiên quá đỗi.
Tôi chỉ kịp nhận xét:
Chó giống Rottweller sao?
Theo trí tưởng tượng của tôi, Cerberus phải là chó đen thuộc giống chó lớn tai cụp. Nhưng nó đúng là chó Rottweller thuần chủng, chỉ có điều to gấp đôi với mamut, tàng hình gần hết và có ba đầu.
Người chết không hề sợ hãi tiến thẳng đến chỗ nó. Dòng người ở hai hàng SẴN SÀNG PHỤC VỤ đi sát hai bên cạnh nó. Còn hàng EZ DEATH đi giữa hai chân vuốt dài nhọn, chui dưới bụng nó mà không cần khom người.
Tôi lẩm bẩm:
Tớ nhìn chó rõ hơn khi nãy. Sao thế nhỉ?
Annabeth hơi mất tinh thần:
Chắc tại ta đang tiến gần hơn đến trạng thái chết rồi.
Cái đầu ở giữa vươn đến gần chúng tôi. Con chó đánh hơi, gầm gừ.
Nó ngửi thấy mùi người sống.
Giọng Grover run bắn:
Nhưng không sao. Ta tính trước rồi mà.
Annabeth lí nhí:
Phải. Làm theo kế hoạch đi.
Ba đứa đến gần quái thú.
Cái đầu ở giữa như nanh, sủa to đến nỗi mắt tôi long sòng sọc.
Tôi hỏi Grover:
Hiểu nó nói gì không?
Hiểu.
Nó nói gì?
“Giết tụi bay”.
Tôi lấy cây gậy lớn trong ba lô. Thực ra đó là chân giường Safari Deluxe của Crusty. Vừa giơ gậy, tôi vừa cố tìm cách liên tưởng Cerberus với những y tưởng vui vẻ về chó: chẳng hạn những mẫu quảng cáo thức ăn cho chó, cún con xinh xắn hoặc vòi nước cứu hỏa. Gượng cười, tôi cố quên rằng mình sắp chết.
Tôi gọi to:
Này anh bạn to cao, chắc mày ít khi được chơi thỏa thích, phải không?
GU!
Tôi hụt hơi:
Giỏi lắm.
Thấy tôi hua hua cây gây, cái đầu chính giữa nhìn theo. Hai đầu còn lại vươn ra chỗ tôi, quên hẳn linh hồn phía dưới. Vậy là cả ba đầu chỉ chú y một mình tôi. Tôi không biết thế là may hay rủi nữa.
Nhặt về đi!
Tôi ráng hết sức ném gậy thật xa vào sương mù. Tiếng TÕM vọng lại: gậy vừa rơi xuống sông Mê Styx/
Cerberus không thèm đê y, chỉ trừng mắt nhìn tôi. Mắt nó lạnh lùng, khiến tôi hết hi vọng.
Kế hoạch thất bại thảm hại.
Grover rụt rè:
Percy này.
Gì?
Tớ mới nảy ra này.
Nói đi.
Con Cerberus vừa bảo tụi mình có mười giây gọi thần thánh nào mình muốn. sau đó....nó đang đói mà.
Annabeth lục túi bảo:
Đừng vội.
Tôi lầm bầm: “Uh-Oh”
Grover giục:
Năm giây rồi. chạy được chưa nhỉ?
Annabeth lấy trái banh cao su bằng quả cam to, trên có dòng chữ: Công viên nước Waterlan, Denver. Tôi chưa kịp ngăn, cô bạn tôi đã giơ cao banh đi thẳng đến trước mặt chó ba đâu.
Annabeth hét lên:
Thấy trái banh không? Muốn tao cho chứ gì? Vậy, ngồi xuống!
Cerberus và hai thằng tôi ngờ người.
Ba đầu nó ngoẹo sang bên, lỗ mũi phập phồng.
Annabeth lại quát:
Ngồi mau!
Chắc chắn trong mắt Cerberus, Annabeth giống bánh bích qui Milkbone nhãn hiệu khuyển tin dùng lớn nhất thế giới.
Lạ thay, ba đầu Cerberus cùng liếm môi. Cerberus ngồi vội xuống đè bẹp ít nhất mười hồn ma chui dưới bụng, làm họ tan rã kèm tiếng xì xì như ruột xe thủng.
Annabeth khen:
Giỏi lắm!
Cô bé ném trái banh cho Cerberus.
Miệng giữa đớp banh rất gọn. Nó nhai ngon lành quả bánh cao su nằm gọn trong miệng. Hai đầu hai bên quay sang đầu giữa cắn đớp đòi món đồ chơi mới.
Annabeth ra lệnh:
Nhè ra!
Ba đầu ngưng đánh nhau, quay ra nhìn cô bé. Quả bóng dính giữa hai hàm trông như bã kẹo cao su. Nó rên rỉ nghe nhức đầu, chói tai rồi nhè trái banh xẹp lép, bị nhai nát một nửa ngay dưới chân Annabeth.
Giỏi lắm.
Bạn tôi nhặt banh lên, mặc kệ dãi con vật dính đầy trên đó.
Annabeth quay sang chúng tôi.
Chạy đi. Sang hàng EZ DEATH. Đường đó nhanh hơn.
Tôi cà lăm:
Nhưng...
Cô bạn ra lệnh đúng bằng giọng vừa thét bảo Cerberus:
Hai đứa đi thoát, nhìn từ phía sau, Cerberus không đến nỗi đang sợ như đằng trước.
Annabeth khen:
Chó ngoan!
Lúc giơ cao trái banh đỏ te tua, chắc Annabeth cũng nghĩ như tôi: “Nếu cho Cerberus, vòng chơi sau sẽ hết đồ chơi quà tặng.”
Nhưng cô bé vẫn ném banh. Miệng trái con chó đớp xong lập tức bị đầu giữa cấu xé, còn đầu phải rên rỉ rải.
Lúc con chó bị đánh lạc hướng, Annabeth chạy nhanh dưới bụng nó và gặp chúng tôi đứng chờ phía sau, cạnh máy dò kim loại.
Tôi trầm trồ:
Sao cậu làm được thế?
Annabeth nghẹn ngào, nước mắt rưng rưng. Tôi không hiểu sao bạn ấy khóc.
Bài vỡ lòng để dạy chó ấy mà. Hồi bé, tớ ở nhà cha. Nhà có con cún Doberman...
Grover kéo áo tôi:
Không có thời gian chuyện gẫu đâu. Phải nhanh lên mới kịp!
Chúng tôi định nhãy vào hàng EZ DEATH đúng lúc ba đầu Cerberus cùng rên rỉ nghe rất tội nghiệp. Annabeth đứng ngay lại.
Ba đầu chó quay 180 nhìn chúng tôi. Annabeth nhìn thẳng nó.
Cerberus hồi hộp chờ đợi. Quả bóng nhỏ xíu ngập trong đống dãi dưới chân nó.
Annabeth buồn bã, giọng ỉu xìu:
Chó ngoan.
Quái thú nghiêng dần như lo lắng cho bạn tôi.
Annabeth thì thầm hứa:
Tao đi lấy bóng mới cho mày. Thích không?
Chó rên ư ử. Không cần hiểu ngôn ngữ của loài chó, tôi cũng biết Cerberus thích trái bóng mới.
Giỏi lắm. tao sẽ còn ghé thăm mày. Tao hứa đấy- Cô bé quay sang chúng tôi – Mình đi.
Lúc tôi và Grover bị đẩy qua máy kiểm ra kim loại, đèn đỏ lập tức lóe lên. Loa kêu thất thanh:
CÓ XM NHẬP TRÁI PHÉP! TÌM THẤY VẬT DỤNG MA THUẬT.
Cerberus sủa dữ dội.
Chúng tôi nhảy qua cổng EZ DEATH và chạy thẳng vào địa ngục, bỏ lại đằng sau thêm nhiều đèn nhấp nháy.
Mấy phút sau, khi ma cà rồng chạy rầm rập gọi Nữ thần Báo Thù đến cứu viện, chúng tôi nín thở trốn trong thân cây to mục ruỗng.
Grover lúng búng:
Percy này, ta vừa rút được bài học kinh nghiệm nào?
Chó ba đầu thích bóng cao su đỏ hơn gậy gộc.
Không phải. Bài học kinh nghiệm là kế hoạch của hai cậu dở ẹt!
Tôi không nghĩ thế.
Cả Annabeth và tôi đều làm đúng. Ngay cả dưới địa ngục này, người và vật đều thích được quan tâm, chăm sóc.
Trong lúc chờ ma cà rồng đi khuất, tôi rất thấm thía điều đó. Tôi vờ không nhìn thấy Annabeth lau nước mắt, lắng nghe tiếng Cerberus than vãn, nhớ thương người bạn mới.