Tôi nghĩ chúng tôi đã để lạc mất con nhện cho đến khi Tyson nghe thấy những tiếng bong bong nho nhỏ. Chúng tôi rẽ ở một vài đoạn, quay về chỗ cũ một vài lần, và cuối cùng thì tìm thấy con nhện đang đập cái đầu tí hon vào cánh cửa kim loại.
Cánh cửa trông giống như một cửa sập ở tàu ngầm kiểu cổ – hình ô van, với những chiếc đinh tán đóng xung quanh và một bánh lái thay cho tay đấm. Nơi đáng lẽ la cánh cửa là một tấm bảng bằng đồng thau, xanh lên vì cũ kỹ và có một chữ Hy Lạp Êta được khắc ở giữa.
Chúng tôi tất thảy nhìn nhau.
“Đã sẵn sàng để gặp thần Hephaestus chưa?” Grover nói một cách lo lắng.
“Chưa,” tôi thừa nhận.
“Rồi!” Tyson giọng hân hoan, và cậu ta quay bánh xe.
Ngay khi cánh cửa mở ra, con nhện chạy vụt vào trong với Tyson ngay đằng sau nó. Tất cả chúng tôi theo sau, không đến nỗi nóng lòng như cậu ấy.
Căn phòng rộng mênh mông. Trông nó như một cái gara thợ cơ khí, với một vài cái máy nâng thủy lực. Một số máy có ô tô để phía trên, nhưng những cái khác còn có những vật lạ hơn: một con hippalektryon bằng đồng không đầu và một đống dây rợ lằng nhằng treo trên cái đuôi rống của nó, một con sư tử bằng kim loại có vẻ đang được treo ở đó để sạc pin, và một cỗ xe ngựa thời chiến của Hy Lạp làm hoàn toàn bằng lửa.
Các loại máy móc nhỏ hơn nằm rải rác trên hơn mười cái bàn làm việc. Công cụ được treo dọc trên các bức tường. Mỗi công cụ có một vị trí riêng trên bảng treo dụng cụ, nhưng dường như chẳng có thứ gì ở đúng vị trí của nó cả. Cái búa thì nằm ở chỗ tua vít. Còn súng bắn ghim thì treo ở chỗ cái cưa.
Bên dưới chiếc máy nâng thủy lực gần nhất đang đỡ chiếc Toyota Corolla đời 98 là một cặp chân thò ra ngoài – phần nửa dưới của một người to lớn trong chiếc quần bẩn thỉu màu xám, và đôi giày còn to hơn cả của Tyson. Một bên chân đang phải nẹp bằng kim loại.
Con nhện bò hối hả xuống dưới gầm xe, và tiếng bong bong cũng ngừng lại.
“Được rồi, được rồi,” một giọng trầm trầm vang lên từ dưới chiếc xe Corolla. “Chúng ta có gì đây nhỉ?”
Người thợ cơ khí chui ra trên một chiếc xe đẩy thấp và đứng dậy. Tôi đã nhìn thấy thần Hephaestus một lần chớp nhoáng trên đỉnh Olympus trước đây, nên tôi tưởng mình đã chuẩn bị trước tinh thần, nhưng bộ dạng của ông ấy lúc này khiến tôi nuốt nước miếng.
Tôi đoán ông ấy đã tắm táp sạch sẽ khi tôi gặp ông ấy trên đỉnh Olympus, hoặc là sử dụng phép thuật nào đó để cho hình dạng của ông bớt phần gớm guốc. Giờ đây trong xưởng làm việc, rõ ràng ông ấy không quan tâm đến ngoại hình chút nào. Ông ấy đang mặc một bộ áo liền quần trét đầy dầu mỡ và bụi bẩn. Chữ Hephaestus được thêu ở túi ngực. Chân ông kêu cọt kẹt bên trong tấm nẹp kim loại khi ông ấy đứng lên, và vai trái của ông thấp hơn vai phải, vì thế trông thần Hephaestus lúc nào cũng như đang nghiêng người, ngay cả khi ông ấy đang đứng thẳng. Đầu ông thì méo mó và chỗ lồi chỗ lõm. Vẻ mặt cau có giận dữ luôn thường trực trên khuôn mặt ông. Chòm râu đen của ông ta bốc khói và kêu xì xì. Cứ một chốc những đốm lửa lại bắn lên râu ông và rồi vụt tắt. Bàn tay ông to bằng cỡ cái găng tay bắt bóng chày, nhưng thao tác với con nhện máy vô cùng linh hoạt. Ông tháo nó ra chỉ trong hai giây, và sau đó lắp nó lại như ban đầu.
“Rồi đây,” ông ấy lẩm bẩm một mình. “Tốt hơn nhiều rồi đấy.”
Con nhện vui sướng tụt xuống khỏi lòng bàn tay ông ta, chăng một cái tơ lưới bằng kim loại lên trần nhà và nhún nhảy bỏ đi.
Thần Hephaestus về phía chúng tôi. “Ta không tạo ra các ngươi, đúng không?”
“Vâng,” Annabeth nói, “không thưa ngài.”
“Tốt,” vị thần lẩm bẩm. “Tay nghề kém.”
Ông ta nhìn kỹ Annabeth và tôi. “Con lai,” ông ấy càu nhau. “Có thể là người máy, dĩ nhiên, nhưng có thể không.”
“Chúng ta đã gặp nhau rồi, thưa Ngài,” tôi bảo với ông ấy.
“Thế à?” vị thần đáp một cách lơ đãng. Tôi có cảm giác ông ấy chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Ông ấy chỉ đang tính toán cái xương hàm của tôi đang hoạt động theo cơ chế nào, là bản lề, hay đòn bẩy, hay là cái gì khác. “Vậy thì, nếu ta đã không đập tan ngươi thành đống bột nhão trong lần gặp mặt trước đây, ta cho là giờ ta cũng sẽ không làm điều đó.”
Ông ấy nhìn Grover và nhíu mày. “Thần rừng.” Sau đó quay sang Tyson, và mắt ông ta chớp chớp. “À, một Cyclops. Tốt tốt. Ngươi đi cùng lũ này làm gì vậy?”
“Uh...” Tyson nhìn vào vị thần với sự kinh ngạc.
“Đúng, một câu trả lời thật hay,” thần Hephaestus đồng tình. “Vậy thì phải có lý do gì đó nghe được cho việc các ngươi làm phiền ta chứ nhỉ. Ta phải gián đoạn công việc với chiếc Corolla này, đó không phải là chuyện nhỏ đâu.”
“Thưa ngài,” Annabeth ngập ngừng nói. “Chúng tôi đang tìm Daedalus. Chúng tôi nghĩ...”
“Daedalus?” vị thần kêu lên. “Các ngươi muốn tìm lão già côn đồ đó à? Các ngươi dám tìm hắn sao!”
Chòm râu của ông ấy biến thành lửa, và đôi mắt đen của ông sáng rực lên.
“Vâng, đúng vậy, mong ngài giúp,” Annabeth nói.
“Hừm. Các ngươi đang phí thời gian rồi.” Ông nhíu mày nhìn vào cái gì đó trên chiếc bàn làm việc và lê bước tới đó. Ông nhặt một mớ gồm những lò xo và mảnh kim loại lên và chắp nối chúng lại với nhau. Chỉ trong vài giây, trên tay ông ấy đã là một con chim ưng bằng đồng và bạc. Nó xòe cánh, chớp chớp đôi mắt bằng đá và bay lượn quanh phòng.
Tyson vỗ tay cười lớn. Con chim đậu lên vai Tyson và cắn cắn vào tai cậu ấy một cách trìu mến.
Thần Hephaestus nhìn cậu ấy. Nét cau có trên mặt ông ấy không thay đổi, nhưng tôi nghĩ t thấy một nét nhìn thân thiện hơn trong mắt ông. “Ta có cảm giác là ngươi có điều gì đó cần nói với ta, Cyclops ạ.”
Nụ cười trên môi Tyson tắt dần. “Vâ... vâng, thưa ngài. Chúng tôi đã gặp một người trăm tay.”
Thần Hephaestus gật đầu và chẳng tỏ vẻ gì là ngạc nhiên cả. “Briares?”
“Đúng. Anh ấy... anh ấy sợ. Anh ấy sẽ không giúp chúng tôi.”
“Và điều đó làm ngươi thấy buồn phiền.”
“Vâng!” Giọng Tyson ngập ngừng. “Anh Briares đáng lẽ phải mạnh chứ! Anh ta lớn tuổi hơn và mạnh hơn các Cyclops. Nhưng anh ấy lại bỏ chạy.”
Thần Hephaestus làu bàu. “Đã có thời ta từng ngưỡng mộ các anh chàng trăm tay đó. Quay lại những ngày xảy ra cuộc chiến tranh đầu tiên. Nhưng con người, quái vật, và ngay cả các vị thần nữa cũng thay đổi, anh bạn Cyclops. Cậu không thể tin bọn họ. Hãy nhìn người mẹ yêu quý Hera của ta. Cậu đã gặp bà ấy rồi đúng không? Bà ấy sẽ cười với cậu và nói về chuyện gia đình quan trọng như thế nào, đúng không? Nhưng việc đó cũng không ngăn việc bà ấy ném ta khỏi đỉnh Olympus khi nhìn thấy khuôn mặt xấu xí của ta.”
“Nhưng tôi nghĩ thần Zeus mới là người làm thế với ngài,” tôi nói.
Hephaestus hắng giọng và nhổ vào một cái ống nhổ bằng đồng. Ông ấy búng tay, và con chim ưng bằng kim loại bay trở lại bàn làm việc.
“Mẹ ta cứ thích kể theo kiểu như vậy đấy,” ông ấy gầm gừ. “Một cách tự làm cho mình đáng yêu hơn. Đổ hết lỗi lên đầu cha ta. Sự thật là, mẹ ta thích cuộc sống gia đình, nhưng không phải loại nào cũng thích. Phải là gia đình hoàn hảo. Bà ấy nhìn ta và... hừm, rõ ràng ta không giống những gì bà ấy tưởng tượng, đúng không?”
Ông ấy nhổ một cái lông trên lưng con chim sắt, và con chim máy rời thành từng mảnh.
“Tin ta đi, anh bạn Cyclops trẻ tuổi,” thần Hephaestus nói, “ngươi không thể tin một người nào khác. Tất cả những gì ngươi có thể tin là sản phẩm do chính tay mình làm ra.”
Đó dường như là cách sống quá ư đơn độc. Vả lại, tôi không hoàn toàn tin tưởng vào tác phẩm của thần Hephaestus. Một lần ở Denver, con nhện máy của ông ấy đã suýt giết chết Annabeth và tôi. Còn năm ngoái, chính một cái tượng Talos bị lỗi khi chế tạo đã khiến Bianca mất mạng – lại một trong những công trình nhỏHephaestus.
Ông ấy nhìn chăm chú vào tôi và nheo nheo mắt, như thể đang đọc suy nghĩ của tôi vậy. “Ồ, anh chàng này không thích ta. Đừng lo, ta quen việc đó rồi. Ngươi sẽ hỏi ta việc gì đây, anh chàng á thần nhỏ tuổi?”
“Chúng tôi đã nói với ngài rồi,” tôi nói. “Chúng tôi cần tìm Daedalus. Có một gã tên là Luke, và hắn ta đang làm việc cho Kronos. Hắn đang tìm đường đi qua Mê Cung, rồi từ đó chiếm trại của chúng tôi. Nếu chúng tôi không tìm thấy Daedalus trước thì...”
“Ta đã nói cho ngươi rồi. Tìm Daedalus chỉ phí thời gian thôi. Hắn sẽ không giúp đâu.”
“Tại sao không?”
Thần Hephaestus nhún vai. “Vài người trong số chúng ta từng bị hất cổ khỏi đỉnh Olympus. Một vài người trong số chúng ta... cách chúng ta học để không tin người khác thì còn đau khổ hơn nhiều. Xin ta vàng. Hoặc là một thanh kiếm lửa. Hoặc một con chiến mã có phép thuật. Những thứ đó ta có thể cho các ngươi một cách dễ dàng. Nhưng còn Daedalus? Đó lại là món quà quá đắt rồi!”
“Vậy là ngài biết ông ấy ở đâu,” Annabeth tạo sức ép.
“Nhưng giờ đi tìm thì không phải là lựa chọn thông minh đâu, cô gái.”
“Mẹ tôi nói tìm kiếm là bản năng của trí tuệ.”
Thần Hephaestus nheo mắt. “Thế mẹ cô là ai?”
“Nữ thần Athena.”
“Hiểu rồi,” ông ấy thở dài. “Nữ thần xinh đẹp, Athena. Thật xấu hổ là cô ấy lại hứa rằng không bao giờ kết hôn. Được rồi, con lai. Ta có thể nói cho cô những gì cô muốn biết. Nhưng mọi thứ đều có cái giá của nó. Ta cũng cần ngươi đáp trả một việc.”
“Ngài nói đi,” Annabeth trả lời.
Thần Hephaestus cười lớn – một âm thanh oang oang như một cái ống bể lớn ngấu nghiến ăn lửa vậy. “Anh hùng các ngươi,” ông ta nói, “lúc nào cũng hứa liều! Thật khoan khoái làm sao!”
Ông ta nhấn một cái nút trên bàn làm việc, và một cánh cửa chớp bằng kim loại một dọc tường mở ra. Đó có thể là một cái cửa sổ lớn, hoặc cũng có thể là một chiếc ti vi màn hình lớn, tôi cũng không rõ nữa. Chúng tôi đang nhìn thấy một dãy núi xám ngoét được bao quanh bởi các khu rừng. Chắc hẳn đó phải là một ngọn núi lửa, bởi khói đang bốc ngút từ trên đỉnh.
“Một trong những lò rèn của ta,” thần Hephaestus nói. “Ta có rất nhiều nơi như vậy, nhưng đó đã từng là chỗ ta ưa thích nhất.”
“Đó là Núi St. Helens(13),” Grover nói. “Cả một cánh rừng lớn bao quanh nó.”
“Cậu từng ở đó rồi à?” tôi hỏi.
“Thì tớ đi tìm... cậu biết rồi đấy, thần Pan.”
“Chờ đã,” Annabeth vừa nói vừa nhìn thần Hephaestus. “Ngài nói đó đã từng là nơi ưa thích. Vậy chuyện gì đã xảy ra?”
Thần Hephaestus vuốt chòm râu đang âm ỉ cháy. “Ừm, đó là nơi con quái vật tên Typhon bị nhốt, các ngươi biết đấy. Trước đây hắn bị nhốt dưới núi Etna, nhưng khi chúng ta chuyển đến châu Mỹ thì ngọn núi St. Helens chính là nơi giam giữ sức mạnh của hắn. Một nguồn lửa mãnh liệt, nhưng hơi nguy hiểm. Lúc nào cũng có nguy cơ hắn sẽ trốn thoát. Dạo này núi lửa phun rất nhiều, lửa cháy âm ỉ cả ngày đêm. Hắn ta đang thao thức với sự nổi loạn của các thần khổng lồ Titan.”
“Vậy ngài muốn chúng tôi làm gì? Đánh lại hắn?”
Thần Hephaestus khịt mũi. “Thế là tự sát. Chính các thần còn bỏ chạy nếu Typhon được giải thoát nữa là. Không, cầu mong các ngươi không gặp phải hắn, chứ đừng nói là đánh nhau với hắn. Nhưng gần đây ta cảm nhận được có kẻ xâm phạm ngọn núi này của ta. Kẻ nào đó, hoặc cái gì đó đang sử dụng lò rèn này của ta. Khi ta tới đó thì chẳng có gì, nhưng ta biết có ai đó đã sử dụng nó. Chúng cảm nhận được mỗi khi ta tới và chuồn mất. Ta cho các cỗ máy của ta đến do thám, nhưng chúng không quay trở lại. Có cái gì đó... cổ xưa ở đó. Ma quỷ. Ta muốn biết ai dám cả gan xâm chiếm lãnh địa của ta, và liệu có phải chúng muốn thả Typhon không.”
“Vậy là ngài muốn chúng tôi tìm hiểu xem chúng là ai,” tôi nói.
“y da,” thần Hephaestus nói. “Đến đó đi. Có thể chúng sẽ không cảm nhận được sự có mặt của các ngươi, vì các ngươi không phải là thần.”
“Rất vui là ông nhận ra điều đó,” tôi nhủ thầm.
“Hãy đi và tìm ra những gì các ngươi có thể,” thần Hephaestus nói. “Báo cáo lại cho ta, rồi ta sẽ nói cho các ngươi điều các ngươi muốn biết về Daedalus.Annabeth nói. “Làm sao chúng tôi đến đó?”
Thần Hephaestus vỗ tay. Một con nhện đu xuống từ nóc nhà. Annabeth lùi lại khi nó “hạ cánh” xuống chân cô ấy.
“Con vật máy này sẽ dẫn đường cho các ngươi,” thần Hephaestus nói. “Nơi đó sẽ không xa lắm nếu các ngươi đi xuyên qua Mê Cung. Và cố gắng sống sót nhé, được chứ? Con người yếu mềm hơn nhiều so với máy móc đấy.”
Lộ trình của chúng tôi vẫn tốt đẹp, cho đến khi chúng tôi chạm phải những cái rễ cây. Con nhện vẫn cứ đi phăng phăng trong khi chúng tôi bị kẹt lại, nhưng rồi chúng tôi cũng tìm được một đường hầm ở rìa bên cạnh, đất thịt được đào lên và phủ cả lên những cái rễ cây to. Grover dừng lại và nhìn chăm chăm vào những dấu vết đó.
“Cái gì thế?” Tôi hỏi.
Cậu ấy không động đậy. Grover há hốc mồm nhìn vào cái đường hầm tối đen. Mái tóc xoăn của cậu ấy bay sột soạt trong gió.
“Đi nào!” Annabeth nói. “Chúng ta phải tiếp tục đi.”
“Đây là lối đi,” Grover lẩm bẩm trong nỗi kinh sợ. “Chính là nó.”
Ở đằng trước, con nhện đang đi xa dần bên dưới cái hành lang bằng đá. Chỉ vài giây nữa thôi chúng tôi sẽ mất dấu nó.
“Chúng ta sẽ quay lại,” Annabeth hứa. “Trên đường về gặp thần Hephaestus.”
“Lúc đó đường hầm biến mất rồi,” Grover nói. “Tớ phải theo nó. Một cánh cửa như thế này sẽ không mở mãi đâu!”
“Nhưng chúng ta không thể,” Annabeth nói. “Còn những cái lò rèn!”
Grover nhìn Annabeth đầy buồn bã. “Tớ không thể làm khác được, Annabeth. Cậu có hiểu không?”
Cô ấy trông thật tuyệt vọng, như thể cô ấy chẳng hiểu gì hết. Con nhện sắp biến khỏi tầm mắt. Nhưng tôi nghĩ về cuộc trò chuyện giữa tôi và Grover tối qua, và tôi biết chúng tôi sẽ phải làm gì.
“Chúng ta sẽ chia ra,” tôi nói.
“Không!” Annabeth kêu lên. “Như thế quá nguy hiểm. Làm sao chúng ta có thể tìm lại nhau được? Vả lại không thể để Grover đi một mình.”
Tyson để tay lên vai Grover. “Em... em sẽ đi với cậu ấy.”
Tôi không tin nổi vào tai mình. “Tyson, em chắc chứ?”
Cậu nhóc cao lớn gật đầu. “Anh chàng dê này cần sự giúp đỡ. Chúng ta sẽ tìm thấy người gọi là thần. Em không giống như thần Hephaestus. Em tin vào bạn bè.”
Grover hít một cái thật sâu. “Percy, chúng ta sẽ tìm được nhau. Chúng ta vẫn còn sợi dây giao cảm mà. Tớ... tớ phải làm như vậy.”
Tôi không trách cậu ấy. Đây là mục đích sống của cậu ấy. Nếu cậu ấy không tìm thấy thần Pan trong chuyến đi này thì Hội đồng sẽ không bao giờ cho cậu ấy thêm một cơ hội nữa.
“Tớ hy vọng là cậu đúng,” tôi nói.
“Tớ biết là tớ đúng mà.” Tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy tự tin đến vậy trước bất cứ điều gì, trừ việc món enchiladas(14) phô mai ngon hơn món enchiladas gà.
“Hãy cẩn trọng,” tôi căn dặn Grover, rồi nhìn Tyson. Cậu ấy cố ngăn tiếng khóc rồi ôm tôi một cái làm tôi sắp lòi cả con ngươi ra khỏi mắt. Rồi sau đó cậu ấy và Grover lẩn vào đường hầm rễ cây và biến mất vào bóng tối.
“Điều này thật tệ,” Annabeth nói. “Chia người ra thế này đúng là một ý tưởng vô cùng, vô cùng tồi tệ đấy.”
“Chúng ta sẽ gặp lại họ,” tôi cố nói với giọng tự tin. “Giờ thì đi thôi, con nhện đi xa rồi kìa!”
Chỉ một lúc sau đường hầm trở nên nóng hầm hập.
Các bức tường đá nóng rực. Chúng tôi có cảm giác như thể mình đang di chuyển qua một cái bếp lò. Đường hầm dốc xuống và tôi có thể nghe thấy tiếng rầm rầm rất to, giống như là một dòng sông kim loại vậy. Con nhện lướt đi với Annabeth theo ngay đằng sau.
“Này, chờ đã,” tôi gọi cô ấy.
Cô ấy quay lại nhìn tôi. “Sao thế?”
“Thần Hephaestus lúc đó nói cái gì... về nữ thần Athena ấy nhỉ.”
“Bà ấy đã thề không bao giờ kết hôn,” Annabeth nói. “Giống như nữ thần Artemis và nữ thần Hestia(15). Bà ấy là một trong những nữ thần đồng trinh.”
Tôi chớp mắt. Tôi chưa bao giờ nghe chuyện này về nữ thần Athena. “Nhưng thế...”
“Làm sao bà ấy lại có các con là á thần chứ gì?”
Tôi gật đầu. Có thể tôi còn đỏ mặt nữa, nhưng hy vọng luồng không khí nóng sẽ khiến Annabeth không chú ý.
“Percy, cậu biết nữ thần Athena được sinh ra thế nào không?”
“Bà ấy nhảy ra từ đầu thần Zeus với đầy đủ vũ khí và y phục hay gì đó đại loại như vậy.”
“Chính xác. Bà ấy không sinh ra theo cách bình thường. Bà ấy đúng là đã được sinh ra bởi ý nghĩ. Các con của bà ấy cũng được sinh ra theo cách đó. Khi Athena yêu một người bình thường, tình yêu đó hoàn toàn là trong trí óc, như cách mà bà ấy yêu Odysseus trong những câu chuyện cổ. Đó là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Bà ấy nói đó là kiểu tình yêu thuần khiết nhất.”
“Vậy cha cậu và nữ Athena... vậy cậu không phải...”
“Tớ là đứa trẻ được sinh ra bằng trí tuệ,” Annabeth nói. “Đúng ra mà nói thì các con của nữ thần Athena đều được sinh ra từ suy nghĩ thần thánh của mẹ và tài trí tuyệt vời của cha. Bọn tớ được xem là một món quà, một lời chúc tốt lành mà nữ thần Athena gửi cho người đàn ông mà bà yêu quý.”
“Percy, con nhện sắp đi mất rồi kia kìa. Cậu thực lòng muốn tớ giải thích chi tiết chuyện tớ sinh ra như thế nào sao?”
“À ừ... không. Vậy là được rồi.”
Cô ấy cười điệu đà. “Tớ nghĩ là không.” Và cô ấy chạy lên phía trước. Tôi đuổi theo, nhưng tôi không chắc mình sẽ nhìn Annabeth bằng con mắt như trước hay không. Tôi nghĩ có lẽ một số chuyện thà cứ là điều huyền bí lại tốt hơn.
Tiếng ầm ầm mỗi lúc một to. Sau khi chạy thêm khoảng nửa dặm, chúng tôi tới một cái hang to cỡ bằng một sân vận động Super Bowl. Con nhện dẫn đường của chúng tôi dừng lại và cuộn thành một quả bóng. Vậy là chúng tôi đã tới lò rèn của thần Hephaestus.
Chẳng có sàn nhà gì chỉ có dung nham sủi bong bóng hàng chục mét phía bên dưới. Chúng tôi đứng trên một dãy đồi đá bao quanh cái hang. Một hệ thống cầu kim loại bắc ngang qua nó. Và ở trung tâm là một cái bệ lớn với đủ loại máy móc, vạc, lò rèn, và một cái đe lớn chưa từng thấy – một cục sắt với kích cỡ của một ngôi nhà. Các con vật di chuyển xung quanh chiếc bục – một vài con màu đen, rất lạ, nhưng chúng ở quá xa nên tôi không thể nhìn rõ từng chi tiết.
“Chúng ta sẽ không thể nào lẻn đến chỗ chúng được,” tôi nói.
Annabeth nhặt con nhện kim loại lên và cho nó vào túi áo. “Tớ có thể. Đợi đây.”
“Chờ đã!” tôi nói, nhưng trước khi tôi có thể tranh cãi, cô ấy đã đội cái mũ Yankees lên và biến thành tàng hình.
Tôi không dám gọi theo cô ấy, nhưng tôi không thích ý tưởng cô ấy tiếp cận cái lò rèn một mình. Nếu bọn ngoài kia có thể cảm nhận được một vị thần đang đến thì liệu Annabeth có an toàn được không?
Tôi quay lại nhìn con đường hầm Mê Cung. Tôi đã thấy nhớ Grover và Tyson rồi. Cuối cùng, quyết định không thể ngồi chờ một chỗ. Tôi bò dọc theo mép ngoài của chiếc hồ đầy dung nham, với hy vọng kiếm được một góc nhìn thuận lợi hơn để theo dõi những gì đang xảy ra ở giữa hồ.
Nhiệt độ thật kinh khủng. Trại nuôi gia súc của Geryon so với nơi này thì vẫn là một thiên đường mùa đông! Chẳng có lúc nào trên người tôi không có mồ hôi. Mắt tôi cay xè vì khói. Tôi tiến lên, cố tránh xa miệng núi lửa, cho đến khi bị chặn lại bởi một chiếc xe đẩy với những bánh xe kim loại, giống loại người ta vẫn dùng để khai mỏ. Tôi nhấc tấm che bằng vải dầu lên và bên trong sắt vụn chất đầy nửa xe. Tôi đang định đi lòng vòng quanh nó thì bỗng nghe thấy một tiếng nói vọng ra từ phía trước mặt, có lẽ là từ một đường hầm bên cạnh.
“Có đem nó tới không?”
“Có,” một giọng khác nói. “Phim sắp xong rồi.”
Tôi hoảng sợ. Tôi không có đủ thời gian để lùi lại. Chẳng có nơi nào để trốn cả, trừ... cái xe đẩy. Tôi bò vào trong xe và phủ tấm vải lên trên, hy vọng chưa bị ai phát hiện. Một tay tôi nắm lấy thanh Thủy Triều, đề phòng trường hợp tôi sẽ phải chiến đấu.
Chiếc xe tròng trành lăn về phía trước.
“Ôi,” một giọng cộc cằn thô lỗ vang lên. “Thứ này nặng đến hàng tấn.
“Đây là đồng celestial,” người còn lại nói. “Ngươi cho rằng nó là cái gì?”
Tôi bị kéo theo. Bọn chúng rẽ, và qua âm thanh của bánh xe vọng lên thành xe, tôi đoán chúng tôi đã đi về phía cuối của đường hầm và vào một căn phòng nhỏ hơn. Hy vọng tôi sẽ không bị đổ vào một cái vại đang sôi sùng sục. Nếu chúng bắt đầu lật ngược, thì tôi phải nhanh chóng thoát ra. Tôi nghe thấy rất nhiều tiếng nói chuyện huyên náo, nhưng không phải tiếng người – cái gì đó nửa giống tiếng hải cẩu tru tréo, nửa giống tiếng chó gầm gừ. Còn có một âm thanh gì đó khác nữa, giống như tiếng một chiếc máy chiếu phim đời cổ và một giọng bé tí đang đọc lời dẫn truyện.
“Cứ để nó vào phía cuối,” một giọng mới vang lên từ đầu kia của căn phòng. “Giờ thì các con, hãy cùng xem phim. Sau khi kết thúc các con sẽ có thời gian đặt câu hỏi.”
Các giọng nói lắng xuống và tôi có thể nghe thấy tiếng trong phim.
Đối với một quái vật biển mới trưởng thành, giọng thuyết minh vang lên, cơ thể các bạn sẽ có những thay đổi. Các bạn có thể để ý thấy răng nanh của mình ngày một dài ra và bỗng nhiên có mong muốn được ăn thịt con người. Những thay đổi này là rất bình thường và xảy ra với tất cả quái vật mới trưởng thành.
Những tiếng gầm gừ thích thú tràn ngập căn phòng. Gã giáo viên – tôi đoán chắc nó phải là giáo viên – mắng lũ thú con giữ trật tự, và bộ phim tiếp tục. Tôi chẳng hiểu gì phần lớn bộ phim, nhưng cũng không dám ngẩng lên nhìn. Bộ phim tiếp tục nói về giai đoạn dậy thì, mụn trứng cá do làm việc trong các lò rèn, cách vệ sinh chân màng hợp lý và cuối cùng thì nó cũng kết thúc.
“Nào, các con,” gã giáo viên nói. “Tên đúng của loài chúng ta là gì?”
“Quái vật biển!” một con kêu lên.
“Không đúng. Ai có ý kiến khác?”
“Các Telekhine!” một con khác phát biểu.
“Tốt lắm,” giáo viên khen ngợi. “Và tại sao chúng ta ở đây?”
“Trả thù!” một vài con trả lời.
“Đúng đúng, nhưng tại sao?”
“Zeus là quỷ dữ!” một con nói. “Hắn ném chúng ta xuống Tartarus chỉ vì chúng ta đã sử dụng phép thuật
“Thực ra là,” gã giáo viên nói, “sau khi chúng ta đã rèn cho các lũ thần đó những vũ khí tốt nhất. Cây đinh ba của Poseidon là một ví dụ. Và tất nhiên – chúng ta còn chế ra loại vũ khí vĩ đại nhất cho các Titan! Vậy mà Zeus lại ném chúng ta đi và tin tưởng vào mấy gã Cyclops vụng về. Đó là lý do tại sao chúng ta đang đoạt lại những lò rèn mà gã Hephaestus chiếm đoạt của chúng ta. Và chẳng mấy nữa chúng ta sẽ làm chủ các lò luyện kim dưới đáy biển, ngôi nhà của tổ tiên chúng ta!”
Tôi nắm chặt cây kiếm-bút của tôi. Những con vật đang gầm gừ đằng kia đã chế tạo ra cái đinh ba của thần Poseidon sao? Chúng đang nói về cái gì vậy? Tôi chưa bao giờ nghe về một con telekhine nào cả.
“Và vì vậy, các con,” gã giáo viên tiếp tục, “chúng ta phục vụ ai?”
“Kronos!” chúng hô to.
“Và khi các con lớn lên thành những telekhine to lớn, các con có chế tạo vũ khí cho quân đội của ngài ấy không?”
“Có!”
“Tốt lắm. Giờ chúng ta đem đến một ít kim loại vụn cho các con thực hành. Để xem các con khéo léo thế nào.”
Ai đó đang hăm hở đi tới chỗ cái xe đẩy, cùng với những âm thanh hân hoan thích thú. Tôi đã sẵn sàng để mở nắp thanh Thủy Triều. Tấm vải phủ mở ra. Tôi nhảy dựng lên, thanh kiếm đồng hiện ra trong tay tôi sáng lóa, và cùng lúc tôi nhận ra trước mặt tôi là một bầy... chó.
Ừm, đúng ra thì chỉ có mặt chúng là giống chó, với cái mõm màu đen, mắt nâu và tai nhọn hoắt. Thân chúng bóng mượt và đen tuyền như động vật biển, chân ngắn mập, một nửa là vây bơi một nửa là chân người. Chúng có tay giống người với những móng vuốt sắc nhọn. Nếu các bạn kết hợp một đứa trẻ, một con chó Doberman pinscher và một con sư tử biển, bạn sẽ được một loại động vật tương tự như những gì tôi đang nhìn thấy lúc này.
“Một á thần!” một con gầm gừ.
“Ăn nó đi!” con khác nheo nhéo.
Nhưng chúng chỉ nói được đến đấy trước khi tôi vung Thủy Triều lên và cho lũ quái vật ở hàng đầu bốc hơi.
“Lùi lại!” Tôi hét vào lũ quái vật còn lại, cố gắng tỏ ra giận dữ. Đằng sau chúng là gã giáo viên, một con telekhine cao gần hai mét với những cái răng nanh đang gầm gừ chĩa về phía tôi. Tôi cố hết sức nhìn chằm chằm lại nó.
“Bài học mới nào, cả lớp,” tôi thông báo. “Hầu hết quái vật bị bốc hơi khi bị chém bằng thanh kiếm đồng celestial. Thay đổi này là hoàn toàn bình thường, và sẽ xảy ra với các ngươi ngay bây giờ nếu các ngươi không LÙI LẠI!”
Thật là ngạc nhiên, lời nói của tôi lại có tác dụng. Những con quái vật lùi lại, nhưng vẫn còn ít nhất hai mươi con nữa. Sự sợ hãi mà tôi tạo ra sẽ chẳng kéo dài lâu.
Tôi nhảy khỏi cái xe đẩy, hét lớn: “CẢ LỚP GIẢI TÁN!” và sau đó chạy về phía lối ra.
Lũ quái vật đuổi theo tôi, sủa và gầm gừ ầm ỹ. Tôi hy vọng chúng không chạy nhanh được với những cái chân nhỏ xíu cũn cỡn và những màng bơi, nhưng chúng đuổi theo khá nhanh. Cám ơn các vị thần vì có một cánh cửa cuối đường hầm dẫn ra hang chính. Tôi đóng sầm cánh cửa và quay bánh xe trên cửa để khóa nó lại, nhưng chẳng biết liệu nó giữ chân được lũ quái vật bao lâu.
Tôi không biết phải làm gì. Annabeth đang tàng hình đâu đó quanh đây. Cơ hội cho nhiệm vụ trinh sát không để bị phát hiện của chúng tôi thế là đã đi tong. Tôi chạy về phía cái bục nằm giữa hồ chứa dung nham.
“Suỵt!” Một bàn tay vô hình che lấy miệng tôi và kéo tôi ra đằng sau một chiếc vạc đồng. “Cậu muốn chết cả đôi à?”
Tôi chạm được tới đầu cô ấy và lột cái mũ Yankees ra. Annabeth hiện ra trước mặt tôi, mặt mày nhăn nhó và nhem nhuốc với tro và bụi bẩn. “Percy, cậu làm sao thế?”
“Chúng ta sắp có bạn đồng hành!” Tôi nhanh chóng giải thích về việc lớp học định hướng của lũ quái vật. Mắt cô ấy mở lớn.
“Hóa ra chúng là như vậy à,” cô ấy nói. “Các con Telekhine. Đáng lẽ mình phải biết rồi chứ. Và chúng đang làm... Ôi, nhìn kìa.”
Chúng tôi nhìn trộm qua cái vạc. Ở giữa cái bục là bốn con quái vật biển, nhưng chúng đều là những con trưởng thành hoàn toàn, cao ít nhất là hai mét rưỡi. Da chúng đen và sáng lấp lánh trong ánh lửa lò rèn khi chúng làm việc, những tàn lửa tóe ra khi chúng thay nhau nện búa xuống một thanh kim loại dài nóng rực.
“Thanh kiếm sắp hoàn thành rồi,” một con nói. “Nó cần được làm lạnh trong máu để kim loại chảy ra.”
“Ừ,” con thứ hai nói. “Lúc đó nó sẽ sắc hơn trước”
“Cái gì đấy?” tôi thầm thì.
Annabeth lắc đầu. “Bọn chúng nói về việc làm chảy kim loại, tớ không hiểu...”
“Chúng đang nói về loại vũ khí vĩ đại nhất dành cho thần khổng Titan,” tôi nói. “Và chúng... chúng nói chính bọn chúng đã chế tạo chiếc đinh ba cho cha tớ.”
“Loài telekhine đã phản bội lại các vị thần,” Annabeth nói. “Chúng thực hiện những trò ma thuật xấu xa. Tớ không biết chính xác đó là gì, nhưng thần Zeus đã đày chúng xuống Tartarus.”
“Với Kronos.”
Cô ấy gật đầu. “Chúng ta cần phải ra khỏi...”
Ngay khi cô ấy vừa dứt lời thì cánh cửa dẫn vào phòng học nổ tung và lũ telekhine nhỏ nhào vào. Chúng giẫm đạp cả lên nhau, cố tính toán xem nên tấn công vào hướng nào.
“Cậu đội mũ lên đi,” tôi nói. “Ra khỏi đây!”
“Cái gì?” Annabeth rít lên. “Không! Tớ không bỏ cậu lại đây.”
“Tớ có một kế hoạch. Tớ sẽ làm chúng mất tập trung. Sau đó cậu có thể dùng con nhện máy – có thể nó sẽ dẫn cậu quay về chỗ thần Hephaestus. Cậu phải nói với ông ấy chuyện gì đang diễn ra.”
“Thế thì cậu sẽ bị giết!”
“Tớ không sao đâu. Với lại chúng ta chẳng còn sự lựa chọn nào cả.”
Annabeth lườm tôi như chuẩn bị đấm tôi vậy. Rồi cô ấy làm một việc khiến tôi ngạc nhiên gấp bội. Annabeth hôn tôi.
“Cẩn thận đấy, Óc Tảo Biển.” Cô ấy đội mũ lên và biến mất.
Có lẽ tôi sẽ còn ngồi đó cả ngày, mắt dán vào cái hồ dung nham và cố nhớ xem mình tên là gì, nhưng lũ quái vật biển đã kéo tôi về với hiện thực.
“Ở đó!” một con hét lên. Cả lớp telekhine lao qua cầu về phía tôi. Tôi chạy tới giữa cái bục, khiến bốn con quái vật trưởng thành ngạc nhiên đến nỗi chúng làm rơi cả thanh kiếm đỏ rực. Nó dài khoảng một mét tám và cong cong như hình trăng lưỡi liềm. Tôi đã trông thấy nhiều thứ đáng sợ, nhưng cái vật – dù-nó-có-là-cái-gì-đi-chăng-nữa còn chưa hoàn thành này cũng làm tôi cực kỳ khiếp sợ.
Mấy con quái vật trưởng thành vượt qua cơn sốc một cách nhanh chóng. Có bốn đường dốc dẫn ra khỏi căn phòng, và trước khi tôi kịp lao tới bất kỳ lối thoát nào thì mỗi con trưởng thành đã lao tới, mỗi con chặn một lối ra.
Con cao nhất gầm gừ. “Chúng ta có gì đây nhỉ? Một đứa con trai của Poseidon sao?”
“Đúng,” một con khác làu bàu. “Tao có thể ngửi thấy biển trong máu của nó.”
“Chém một trong số chúng ta đi, á thần,” con trưởng thành thứ ba nói, “và tất cả những người còn lại sẽ xé ngươi thành từng mảnh. Cha ngươi đã phản bội chúng ta. Hắn nhận món quà và chẳng thèm nói đỡ một câu khi chúng ta bị ném xuống vực. Sẽ đến lúc chúng ta chứng kiến hắn bị chém thành từng mảnh. Hắn và tất cả bọn thần trên đỉnh Olympus.”
Ước gì tôi có một kế hoạch thật. Tôi ước mình đã không nói dối Annabeth. Tôi chỉ muốn cô ấy chạy thoát ra ngoài an toàn, và tôi hy vọng cô ấy đủ tỉnh táo để làm việc đó. Nhưng giờ tôi chợt nhận ra rằng đây có lẽ là nơi tôi sẽ phải bỏ mạng. Không có lời tiên tri nào cho tôi. Tôi sẽ bị lũ quái vật mặt chó mình sư tử biển giày xéo ở tâm núi lửa này. Những con telekhine con giờ cũng đang ở trên cái bục, gầm gừ và chờ xem bốn con lớn kia sẽ làm gì với tôi
Tôi cảm thấy cái gì đó nóng rực ở một bên đùi. Chiếc còi băng trong túi của tôi càng lúc càng lạnh hơn. Nếu tôi cần sự trợ giúp thì chính là lúc này đây. Nhưng tôi ngần ngại. Tôi không tin vào món quà của Quintus.
Trước khi tôi kịp quyết định thì con telekhine cao nhất đã nói: “Để chúng ta xem hắn mạnh đến cỡ nào nào. Để xem trong bao lâu hắn sẽ bị cháy thành tro!”
Hắn xúc một ít dung nham từ cái lò gần nhất. Nó làm các ngón tay của hắn bốc cháy, nhưng điều đó chẳng mảy may làm hắn lo lắng chút nào. Những con telekhine trưởng thành khác cũng làm như vậy. Con đầu tiên ném một nắm đá nấu chảy vào tôi làm quần tôi bắt đầu bốc cháy. Hai nắm nữa được ném vào ngực tôi. Tôi làm rơi thanh kiếm trong sự khiếp sợ hoàn toàn và hoảng loạn dập lửa cháy trên quần áo trên người. Lửa đang nhấn chìm tôi. Kỳ lạ là, ban đầu tôi chỉ thấy hơi âm ấm, nhưng ngay sau đó nó trở nên nóng rực.
“Bản năng của cha ngươi sẽ bảo vệ ngươi,” một con nói. “Nên ngươi sẽ khó bị đốt cháy. Nhưng không phải là không thể, bạn trẻ ạ. Không phải là không thể.”
Chúng ném thêm dung nham nóng chảy vào người tôi và tôi nhớ mình đã hét lên. Cả người tôi bốc cháy. Nỗi đau này tệ hơn bất cứ nỗi đau nào mà tôi đã từng phải chịu đựng. Tôi đang bị thiêu rụi. Tôi đổ gục xuống nền nhà bằng kim loại và nghe thấy lũ quái vật con hò hét vui sướng.
Sau đó tôi nhớ đến giọng nói của nữ thủy thần lúc ở trại nuôi gia súc: Nước lúc nào cũng có trong người tôi.
Tôi cần biển. Tôi cảm thấy nhói lên trong ruột, nhưng xung quanh chẳng có gì giúp được tôi. Chẳng có một cái vòi nước hay một dòng sông. Thậm chí không có đến một vỏ sò hóa thạch. Hơn nữa, lần trước ở chuồng gia súc tôi thể hiện sức mạnh của mình thì giây phút đó cũng thật kinh khủng vì tôi suýt thì mất nó.
Tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi gọi biển. Tôi chạm đến phần sâu bên trong cơ thể mình và nhớ lại những con sóng, những dòng hải lưu, nguồn năng lượng vô tận của đại dương. Và tôi để năng lượng của mình phát ra trong một tiếng thét hãi hùng.
Sau đấy, tôi không bao giờ có thể diễn tả được chuyện gì đã xảy ra. Một vụ nổ, một cơn sóng triều, một cơn gió xoáy đầy năng lượng đồng thời bắt lấy và cuốn tôi lên cao, sau đó ném tôi vào hồ dung nham. Lửa và nước va chạm vào nhau, hơi nước sôi sùng sục, và tôi bị bắn lên không trung từ tâm núi lửa trong một tiếng nổ kinh hoàng, như một mảnh ván bị đẩy tự do bằng một áp lực hàng triệu pao vậy. Thứ cuối cùng tôi nhớ được trước khi bất tỉnh là tôi đang bay, bay cao đến nỗi thần Zeus sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi, và sau đó thì bắt đầu rơi, khói và lửa và nước bao quanh tôi. Tôi như một ngôi sao chổi đang lao xuống va vào trái đất.