Không có điều gì làm kết thúc một buổi sáng tuyệt đẹp bằng việc ngồi trên một chiếc taxi đường dài với một cô gái đang giận dữ.
Tôi cố nói chuyện với Annabeth, nhưng cô ấy đang hành động như thể tôi vừa mới đấm vào người bà cô ấy vậy. Tôi nỗ lực hết mình cũng chỉ moi được ở cô ấy vài thông tin, đại loại như là: mùa xuân lúc nhúc đầy quái vật của cô ấy ở San Francisco; cô ấy đã quay trở lại trại hai lần kể từ khi Giáng sinh nhưng không nói cho tôi biết tại sao (điều này làm tôi hơi bực, vì Annabeth thậm chí còn thèm chẳng nói cho tôi là cô ấy đã ở New York); và cô ấy chẳng có thông tin gì về chỗ ở của Nico di Angelo (một câu chuyện dài).
“Có thông tin gì về Luke không?” tôi hỏi.
Cô ấy lắc đầu. Tôi biết đây là một chủ đề nhạy cảm đối với cô ấy. Annabeth đã luôn ngưỡng mộ Luke, cựu cố vấn cấp cao cho thần Hermes, người đã phản bội chúng tôi đi theo Chúa tể Kronos độc ác. Cô ấy sẽ không thừa nhận, nhưng tôi biết rằng cô ấy vẫn còn thích hắn ta. Khi chúng tôi chiến đấu với Luke trên núi Tamalpais mùa đông năm ngoái, không hiểu bằng cách nào hắn có thể sống sót khi rơi xuống từ vách đá cao mười lăm mét. Giờ đây, như tôi được biết, hắn ta vẫn đang chu du trên con thuyền lúc nhúc quái vật trong khi chờ đợi Chúa tể Kronos bị băm thành từng mảnh nhỏ của hắn tái sinh, từng chút từng chút một, trong một cái quách vàng và chờ đợi cho đến khi hắn đủ sức mạnh để thách thức với các vị thần trên đỉnh Olympus. Trong ngôn ngữ của á thần, chúng tôi gọi nó là một “rắc rối.”
“Núi Tam vẫn đầy quái vật,” Annabeth nói. “Tớ không dám lại gần, nhưng tớ không nghĩ Luke ở trên đó. Tớ nghĩ mình sẽ biết nếu anh ta ở trên đó.”
Điều đó chẳng hề làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. “Còn Grover thì sao?”
“Cậu ấy đang ở trại,” cô ấy nói. “Hôm nay chúng ta sẽ gặp cậu ấy.”
“Cậu ấy có gặp chút may mắn nào không? Ý tớ là, trong việc tìm kiếm thần Pan ấy?”
Annabeth sờ sờ chuỗi vòng cổ, cách cô ấy vẫn thường làm mỗi khi lo lắng.
“Cậu sẽ biết thôi,” Annabeth nói. Nhưng không giải thích gì thêm.
Khi chúng tôi đi qua Brooklyn, tôi lấy điện thoại của Annabeth gọi cho mẹ tôi. Con lai như chúng tôi cố không sử dụng điện thoại di động nếu chúng tôi có thể tránh, vì việc truyền đi tiếng nói của chúng tôi cũng tương tự việc bắn pháo sáng thông báo cho bọn quái vật rằng: Ta ở đây này! Hãy đến ăn ta đi! Nhưng tôi nghĩ cuộc điện thoại này là quan trọng. Tôi để lại một tin nhắn trên hộp thư thoại ở nhà, cố gắng giải thích chuyện đã xảy ra ở Goode. Có lẽ tôi đã làm không tốt. Tôi nói với mẹ rằng tôi ổn, bà không cần phải lo lắng, nhưng tôi sẽ ở lại trại cho đến khi mọi chuyện dịu đi. Tôi bảo bà nói với Paul Blofis rằng tôi xin lỗi.
chúng tôi đi trong im lặng. Thành phố khuất dần cho đến khi chúng tôi rời khỏi đường cao tốc và chạy qua vùng nông thôn phía bắc Long Island, qua những vườn cây ăn quả, các nhà máy rượu vang và các cửa hàng bán sản phẩm tươi.
Tôi chăm chú nhìn số điện thoại mà Rachel Elizabeth Dare đã ghi vội vào tay tôi. Tôi biết điều này là điên rồ, nhưng có gì như thôi thúc tôi phải gọi điện cho cô ấy. Có thể cô ấy sẽ giúp tôi hiểu về những điều mà empousa đã nói – việc trại bị thiêu cháy, bạn bè tôi bị bắt giữ. Và tại sao Kelli nổ tung thành lửa?
Tôi biết lũ quái vật không bao giờ thật sự chết cả. Cuối cùng – có thể sau vài tuần, vài tháng, hoặc vài năm – Kelli sẽ hồi sinh trong hình dáng nguyên thủy xấu xí của nó từ âm phủ. Tuy nhiên, lũ quái vật thường chẳng bao giờ để cho mình bị tiêu diệt một cách dễ dàng. Đó là nếu cô ta đã thật sự bị tiêu diệt.
Chiếc taxi ra khỏi tuyến đường 25A. Chúng tôi đi thẳng xuyên qua các khu rừng North Shore cho đến khi một dãy đồi thấp xuất hiện phía bên trái. Annabeth bảo người lái xe dừng xe tại số 3.141 Farm Road, dưới chân Đồi Con Lai.
Người lái xe cau mày. “Ở đây chẳng có gì cả, cô gái. Cô có chắc là cô muốn xuống xe không?”
“Vâng, đúng ạ.” Annabeth đưa cho anh ta một cuộn tiền mặt, và người lái xe quyết định không tranh luận nữa.
Annabeth và tôi đi bộ lên đỉnh đồi. Chú rồng con bảo vệ đang lơ mơ ngủ, cuộn tròn quanh cây thông, nhưng nó ngẩng cái đầu bằng đồng lên khi chúng tôi tiến đến và để Annabeth gãi gãi bên dưới cằm nó. Hơi nước kêu xì xì từ lỗ mũi của con rồng như một cái ấm nước và nó lim dim mắt đầy sung sướng.
“Chào, Peleus,” Annabeth nói. “Giữ mọi thứ an toàn chứ?”
Lần cuối cùng tôi nhìn thấy con rồng là khi nó dài gần hai mét. Bây giờ nó đã dài ít nhất là gấp đôi rồi, và to như cái cây mà nó đang cuốn quanh vậy. Trên đầu nó, ở nhánh thấp nhất của cây thông, Bộ Lông Cừu Vàng sáng lấp lánh, ma thuật của nó bảo vệ biên giới của trại khỏi bị tấn công. Con rồng dường như đang nghỉ ngơi, như thể mọi thứ đều yên ổn. Dưới kia, Trại Con Lai nhìn có vẻ yên bình – những cánh đồng cỏ, rừng cây, những tòa nhà kiểu Hy Lạp sáng trắng. Căn nhà kiểu trang trại bốn tầng mà chúng tôi gọi là Nhà Lớn tự hào nằm giữa những cánh đồng dâu tây. Về phía bắc, qua bãi biển, Long Island Sound lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời.
Nhưng... có gì đó vẫn không ổn. Khônǵ căng thẳng, như thể ngọn đồi đang nín thở, đợi chờ điều tồi tệ xảy ra.
Chúng tôi đi xuống thung lũng và nhận ra khóa học mùa hè đang bắt đầu rất sôi nổi. Hầu hết các trại viên đã đến từ thứ Sáu tuần trước, vì thế tôi thực sự cảm nhận được điều đó. Các thần rừng đang thổi sáo trên cánh đồng dâu, khiến cho các cây dâu lớn nhanh như thổi với ma thuật của rừng sâu. Các trại viên đang theo học bài học cưỡi ngựa bay, nhào xuống từ bên trên các khu rừng bên trên lưng những con pegasus của họ. Khói bốc lên từ các lò rèn, tiếng búa kêu vang khi bọn trẻ tự tạo vũ khí của mình trong giờ học nghệ thuật và thủ công. Các đội thuộc nhà nữ thần Athena và nữ thần Demeter đang có một cuộc đua xe ngựa quanh đường đua, và phía xa xa ở hồ chứa xuồng, một vài đứa trẻ trên một tàu chiến cổ ba tầng Hy Lạp đang chiến đấu với một con rắn biển lớn màu da cam. Một ngày đặc trưng ở trại.
“Tớ cần nói chuyện với Clarisse,” Annabeth nói.
Tôi nhìn cô ấy chăm chú như thể cô ấy vừa mới nói Tớ cần ăn một chiếc giày ống lớn bốc mùi vậy. “Để làm gì?”
Clarisse ở nhà thần Ares là một trong những người tôi ít ưa nhất. Cô ta là một kẻ hay bắt nạt vô ơn và hèn hạ. Cha cô ta, thần chiến tranh, luôn muốn giết tôi. Còn cô ta lúc nào cũng muốn đánh tôi nhừ tử mới thôi. Ngoài những điều đó, cô ta thật tuyệt.
“Chúng tớ đang làm dở một số việc,” Annabeth nói. “Tớ sẽ gặp cậu sau.”
“Làm việc gì?”
Annabeth nhìn về phía cánh rừng.
“Tớ sẽ nói với bác Chiron là cậu đã đến,” cô ấy nói. “Chắc bác ấy sẽ muốn nói với cậu trước khi nghe được.”
“Nghe cái gì?”
Nhưng cô ấy đã chạy chầm chậm xuống con đường dẫn đến khu vực bắn cung mà không thèm nhìn lại.
“Ừ,” tôi thì thầm. “Tớ cũng rất vui được nói chuyện với cậu.”
Trên đường đi băng qua trại, tôi chào hỏi một vài người bạn. Trên đường lái xe vào Nhà Lớn, Connor và Travis Stoll thuộc nhà thần Hermes đang đấu dây khởi động chiếc SUV của trại. Silena Beauregard, cố vấn trưởng của khu nhà nữ thần Aphrodite vẫy tay chào tôi từ trên lưng ngựa khi cô ấy bay qua. Tôi tìm kiếm Grover, nhưng không thấy cậu ấy đâu cả. Cuối cùng tôi đi tha thẩn vào khu vực đấu kiếm, nơ tôi vẫn thường tới khi tâm trạng không được tốt. Luyện tập luôn làm tôi cảm thấy bớt căng thẳng hơn. Có lẽ do đánh kiếm là điều duy nhất mà tôi thật sự hiểu được.
Tôi bước vào đấu trường, tim tôi như ngừng đập. Ở giữa sàn, ngồi quay lưng lại với tôi là con chó ngao lớn nhất mà tôi từng thấy.
Ý tôi là tôi đã từng nhìn thấy một số con chó ngao to lớn xinh đẹp. Một con to bằng con tê giác đã cố gắng giết tôi khi tôi mười hai tuổi. Nhưng con chó ngao này thì to hơn cả một cái xe tăng. Tôi không hiểu làm sao nó có thể vượt qua ranh giới phép thuật của trại. Giống như đang ở nhà, nó nằm bẹp dí xuống, gầm gừ một cách hài lòng khi nó nhai đứt đầu một chú lính đánh trận giả. Nó vẫn chưa chú ý đến tôi, nhưng nếu tôi gây tiếng động, tôi biết nó sẽ cảm nhận được. Không đủ thời gian để kiếm tìm sự trợ giúp. Tôi lấy cây Thủy Triều ra và mở nắp nó.
“Yaaaaaaah!” Tôi lao tới tấn công. Khi thanh kiếm tiến dần xuống mặt lưng vĩ đại của con quái vật thì một thanh kiếm khác không biết xuất hiện từ đâu đã chặn lưỡi kiếm và hóa giải cú tấn công của tôi.
Con chó vểnh tai lên. “Gâu!”
Tôi nhảy lùi lại phía sau và theo bản năng tấn công người kiếm sĩ kia – một người đàn ông có mái tóc hoa râm trong bộ giáp Hy Lạp. Ông ta dễ dàng tránh được các đòn tấn công của tôi.
“Nào nào!” ông ta nói. “Tạm ngừng!”
“Gâu!” Tiếng sủa của con chó làm rung chuyển cả đấu trường.
“Nó là một con ngao!” tôi gào lên.
“Nó vô hại mà,” người đàn ông nói. “Đó là O’Leary.”
Tôi chớp mắt, “O’Leary?”
Nghe thấy tên mình, con chó lại tiếp tục sủa. Tôi nhận ra nó không giận dữ. Nó đang thích thú. Nó đẩy đẩy cái đầu đẫm nước, đang nhai dở về phía người kiếm sĩ kia.
“Giỏi lắm,” người đàn ông nói. Với tay còn lại ông ấy nắm phần thân của chàng lính ma-nơ-canh ở cổ ném nó về phía khán đài. “Bắt lấy kẻ Hy Lạp đó! Bắt lấy kẻ Hy Lạp đó!”
Con O’Leary nhảy vọt đuổi theo sau con mồi của mình và nện vào hình nộm, khiến lớp áo giáp của nó trở nên bẹp dí. Con chó bắt đầu nhai cái mũ sắt của nó.
Người iếm sĩ cười lạnh nhạt. Ông ta khoảng chừng năm mươi tuổi, tôi đoán vậy, với mái tóc hoa râm ngắn và bộ râu xám được cắt tỉa. Ông ta có ngoại hình đẹp theo tiêu chuẩn của một người đàn ông đứng tuổi. Ông ta mặc quần leo núi màu đen và một tấm giáp che ngực bằng đồng được phủ lên trên chiếc áo cam của trại. Dưới cổ ông ta có một vết lạ, một vết màu đỏ tía giống như vết bớt hoặc một hình xăm, nhưng trước khi tôi kịp nhận ra nó là cái gì, ông ấy kéo dây đai của bộ giáp và cái dấu biến mất đằng sau cổ áo.
“O’Leary là thú cưng của ta,” ông ta giải thích. “Ta không thể để cậu đâm vào mông nó được, đúng không? Điều đó có thể khiến nó sợ hãi đấy.”
“Ông là ai?”
“Hãy hứa không được giết ta nếu ta quăng thanh kiếm đi chứ?”
“Tôi nghĩ vậy.”
Ông tra kiếm vào vỏ và chìa tay ra. “Quintus.”
Tôi bắt tay ông ta. Nó xù xì như tấm giấy nhám vậy.
“Có một con chó ngao làm thú cưng? Một câu chuyện dài, liên quan đến nhiều lần suýt chết và một vài con chó khổng lồ nhai đồ chơi. À, nhân tiện giới thiệu, tôi là thầy dạy kiếm mới, giúp đỡ Chiron khi Ngài D đi vắng.”
“Ồ.” Tôi cố gắng không nhìn chằm chằm khi con O’Leary xé toạc cái áo giáp của người nộm với cánh tay dính lủng lẳng và lắc nó như lắc một cái đĩa ném. “Chờ nào, Ngài D đi vắng à?”
“Đúng vậy, ừm... khoảng thời gian bận rộn mà. Ngay cả Dionysus già nua cũng đã phải giúp đỡ. Ngài ấy đi thăm vài người bạn cũ, để đảm bảo rằng họ vẫn còn ở chung chiến tuyến. Có lẽ tôi không nên nói nhiều hơn nữa nhỉ?”
Nếu thần Dionysus đi vắng thì đó là tin tốt lành nhất mà tôi được nghe trong ngày. Ông ta làm giám đốc của trại chỉ vì thần Zeus muốn trừng phạt ông ta vì dám trêu đùa quá lố với các nữ thần rừng. Ông ta ghét các trại viên và luôn tìm cách làm cho cuộc sống của chúng tôi khốn khổ. Với sự vắng mặt của ông ta, mùa hè này có lẽ thật sự tuyệt vời. Mặt khác, nếu thần Dionysus đã chịu nhấc mông lên và thực sự bắt đầu giúp đỡ các thần tuyển người chống lại sự đe dọa của các thần Titan, thì mọi việc ắt đang trở nên tệ hại.
Phía trái tôi bỗng có một tiếng va lớn. Sáu thùng gỗ có kích cỡ của những chiếc bàn ăn ngoài trời xếp chồng lên nhau, và chúng đang kêu lạch cạch. Con O’Leary hếch mặt lên và nhảy vọt về phía chúng.
“Nào, nào, cô bé!” Quintus nói. “Chúng không phải dành cho mày đâu.” Ông ta làm con chó phân tâm bằng chiếc đĩa bay được làm từ bộ áo giáp bằng đồng.
Những chiếc thùng va đập mạnh và rung chuyển. Có một vài chữ được in ở cạnh thùng, nhưng với chứng khó đọc của tôi thì phải mất vài phút tôi mới giải đoán được:
NÔNG TRẠI BA G
DỄ VỠ
ĐY LÀ CUỐI CÙNG
Dọc theo đáy, có những dòng chữ nhỏ hơn: MỞ C̉N TḤN, NÔNG TRẠI BA G KHÔNG CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ NHỮNG THIỆT HẠI TÀI SẢN, THƯƠNG ṬT HAY NHỮNG CÁI CHẾT Đ̀Y ĐAU ĐỚN.
“Cái gì trong những chiếc thùng đó vậy?” tôi hỏi.
“Một bất ngờ nho nhỏ,” Quintus nói. “Hoạt động huấn luyện dành cho tối mai. Cậu sẽ thích cho mà xem.”
“Vâng, được thôi,” tôi nói, mặc dù tôi vẫn không hiểu rõ về phần “cái chết đầy đau đớn” cho lắm.
Quintus ném cái khiên bằng đồng, và O’Leary chạy ầm ầm đuổi theo sau. “Những người trẻ tuổi như cậu cần nhiều thách thức hơn nữa. Khi tôi còn nhỏ chẳng có những trại thế này để tập luyện đâu.”
“Ông... ông cũng là con lai?” Tôi không định nói với vẻ ngạc nhiên thế này, nhưng từ trước đến nay tôi chưa nhìn thấy một á thần già như vậy bao giờ.
Quintus cười khúc khích. “Một số chúng tôi đã sống được tới tuổi trưởng thành, cậu biết đấy. Không có ai trong chúng tôi phải là đối tượng của những lời tiên tri khủng khiếp.”
“Ông biết lời tiên tri về tôi?”
“Ta có nghe một vài điều.”
Tôi muốn hỏi vài điều đó là gì, nhưng ngay lúc đó bác Chiron lộp cộp bước vào đấu trường. “Percy, cháu đây rồi!”
Chắc hẳn bác ấy vừa từ lớp bắn cung về. Bác ấy có bao đựng tên và cung được đeo ngang chiếc áo phông có dòng chữ: “NHN MÃ SỐ MỘT”. Bác ấy đã cắt bộ tóc quăn màu nâu và bộ râu vì mùa hèa dưới của bác ấy là hình dáng của một con ngựa trắng, lốm đốm bởi bùn và cỏ.
“Bác thấy cháu đã gặp được người hướng dẫn mới của chúng ta.” Bác ấy nói nhẹ nhàng nhưng có một ánh nhìn khó chịu trong mắt bác ấy. “Quintus, ông không phiền nếu ta mượn Percy chứ?”
“Không có gì, Thầy Chiron.”
“Không cần gọi ta là ‘Thầy’ đâu,” bác Chiron nói, mặc dù bác ấy cũng khá khoan khoái với cách gọi đó. “Đi nào Percy. Chúng ta có nhiều điều cần nói đấy.”
Tôi liếc nhìn con O’Leary thêm một lần nữa, nó đang nhai đứt chân con rối.
“Thôi, gặp lại ông sau,” tôi nói với Quintus.
Khi đã đi xa, tôi thì thầm với bác Chiron, “Quintus có vẻ rất...”
“Bí ẩn?” Chiron gợi ý. “Khó hiểu?”
Bác Chiron gật đầu. “Một á thần rất đủ tư cách. Kiếm sĩ tuyệt vời. Bác chỉ ước gì bác hiểu...”
Dù là định nói tiếp điều gì thì rõ ràng là bác ấy đã đổi ý. “Điều đầu tiên, Percy. Annabeth nói với bác cháu đã gặp vài empousai.”
“Vâng.” Tôi nói với bác ấy về vụ đánh nhau ở Goode, và cách Kelli nổ tung thành lửa.
“Ừ,” bác Chiron nói. “Những con quái vật mạnh hơn có thể làm điều đó. Cô ta không chết, Percy. Cô ta chỉ đơn giản là bỏ trốn. Điều tệ hại là những ma nữ đang bắt đầu xôn xao.”
“Bọn chúng đang làm gì ở đó?” Tôi hỏi. “Chờ cháu sao?”
“Có thể.” Bác Chiron cau mày. “Thật bất ngờ là cháu còn sống. Chúng có sức mạnh của sự lừa dối... hầu hết các anh hùng đều bị bùa chú và bị chúng xé xác.”
Bác Chiron gật đầu. “Thật mỉa mai là một người trần lại cứu cháu thoát chết, chúng ta nợ cô ấy một món nợ. Những điều empousai nói về việc tấn công trại – chúng ta phải bàn thêm về điều này. Nhưng bây giờ thì đi thôi, chúng ta phải vào rừng. Grover sẽ cần cháu đấy.”
“Ở đâu hả bác?”
“Ở phiên tòa quan trọng của cậu ta,” bác Chiron nói dứt khoát. “Hội đồng Trưởng lão Cloven đang họp để quyết định số phận của Grover.”
Bác Chiron nói chúng tôi cần khẩn trương, nên tôi để bác ấy cõng tôi trên lưng. Khi chúng tôi phi nước kiệu qua các căn nhà, tôi liếc nhìn sảnh ăn – một cái sảnh ngoài trời kiểu Hy Lạp nằm trên ngọn đồi nhìn thẳng ra phía biển. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn khung cảnh này kể từ mùa hè năm ngoái, và những ký ức buồn lại tràn về.
Bác Chiron lao vào rừng. Các nữ thần cây hé các thân cây ra nhìn trộm khi chúng tôi băng qua. Những hình thù to lớn lao xao trong bóng tối – những con quái vật được thả ở đây để tạo ra thách thức cho các trại viên.
Tôi cứ nghĩ mình đã biết khu rừng này khá rõ sau khi chơi trò cướp cờ ở đây qua hai mùa hè, nhưng bác Chiron đưa tôi đi theo một con đường mà tôi không nhận ra nổi, xuyên qua một đường hầm được tạo ra từ những cây liễu già, qua một thác nước nhỏ và đi vào một chỗ rừng thưa được bao phủ bởi hoa dại.
Một nhóm thần rừng đang ngồi quay tròn trên bãi cỏ. Grover đứng giữa, đối mặt ba thần rừng già và cực kỳ béo đang ngồi trên những chiếc ngai tạo hình từ các bụi hoa hồng. Tôi chưa từng nhìn thấy ba vị thần rừng này trước đây, nhưng tôi đoán họ ắt hẳn là Hội đồng Trưởng lão Cloven.
Grover có lẽ đang kể cho họ nghe một câu chuyện. Cậu ấy xoắn vạt dưới áo phông, bồn chồn chuyển đổi móng guốc dê. Cậu ấy không thay đổi nhiều kể từ mùa đông năm ngoái, có thể bởi vì tốc độ lão hóa của thần rừng chỉ bằng một nửa con người. Mụn của cậu ấy bắt đầu mọc. Cặp sừng đã lớn hơn một chút đủ để chúng thò ra ngoài mái tóc xoăn. Tôi nhận ra tôi giờ đã cao hơn cậu ấy rồi.
Đứng tách rời ra phía bên kia vòng tròn là Annabeth, một cô gái khác tôi chưa từng nhìn thấy, và Clarisse. Bác Chiron để tôi ở cạnh bọn họ.
Mái tóc xơ xác màu nâu của Clarisse được buộc chặt bằng chiếc khăn tay in hoa sặc sỡ. Nếu có thể, cô ta trông rắn chắc hơn, như thể cô ấy đang tập thể hình. Clarisse liếc nhìn tôi và lẩm bẩm “Gã vô dụng,” chứng tỏ cô ta đang có tâm trạng tốt. Thường thì cô ta sẽ chào hỏi bằng cách xông vào định giết chết tôi kia!
Annabeth choàng tay qua người cô gái kia, có vẻ cô ta đang khóc. Cô ta nhỏ – nhỏ nhắn, tôi đoán bạn sẽ gọi như vậy – với mái tóc mỏng lưa thưa màu hổ phách và khuôn mặt yêu tinh xinh xắn. Cô ấy mặc một chiếc áo chiton màu xanh lá và đi xăng đan buộc dây, đang dùng khăn tay dặm dặm vào đôi mắt. “Việc này s trở nên rất tệ,” cô gái sụt sịt.
“Không, không.” Annabeth vỗ vai cô gái. “Cậu ấy sẽ không sao đâu, Juniper.”
Annabeth nhìn tôi và nói không ra tiếng: Bạn gái của Grover.
Ít nhất tôi nghĩ đó là những gì cô ấy nói, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì mấy. Grover có bạn gái? Rồi tôi nhìn Juniper kỹ hơn, tai cô ta hơi nhọn. Mắt cô ta, thay vì có màu đỏ vì khóc lóc, lại có màu xanh nhạt, màu của diệp lục. Cô ta là một nữ thần cây.
“Cậu Underwood!” Một thành viên ngồi phía bên phải hét lên, cắt ngang những gì Grover đang cố nói. “Cậu thực sự muốn chúng tôi tin những điều này à?”
“Như... nhưng, Silenus,” Grover cà lăm. “Đó là sự thật!”
Một thành viên của Hội đồng, Silenus, quay sang phía đồng nghiệp và lẩm bẩm một vài điều gì đó. Bác Chiron chạy nước kiệu nhỏ lên phía trước và đứng bên cạnh họ. Tôi nhớ ra bác ấy là một thành viên danh dự của Hội đồng, nhưng không mấy quan tâm đến điều đó. Hội những bô lão đó không có gì ấn tượng cho lắm với tôi. Họ làm tôi nhớ đến những con dê trong vườn thú dành cho trẻ con – những cái bụng bự, vẻ mặt ngái ngủ, và đôi mắt đờ đẫn không thể nhìn quá một nắm thức ăn dành cho dê. Tôi không hiểu tại sao Grover lại hoảng sợ đến vậy.
Silenus kéo chiếc áo phông polo vàng qua bụng và điều chỉnh lại chỗ ngồi của mình trên cái ngai bằng bụi hoa hồng của ông ta. “Cậu Underwood, trong sáu tháng qua – sáu tháng – chúng tôi đã nghe thấy những tin đồn đáng hổ thẹn rằng cậu nghe thấy giọng nói của thần Pan – vị thần của Thiên nhiên.”
“Nhưng tôi đã nghe thấy mà!”
“Láo xược!” Ông già ngồi bên trái nói.
“Thôi nào, Maron,” bác Chiron nói. “Hãy bình tĩnh.”
“Tôi đang bình tĩnh đấy chứ!” Maron nói. “Tôi đã chán ngấy với những thứ nhảm nhí này rồi. Cứ làm như thần Thiên nhiên sẽ nói chuyện với... với cậu ta vậy.”
Trông Juniper như muốn lao vào lão thần rừng già và đánh ông ta một trận, nhưng Annabeth và Clarisse đã giữ cô ta lại. “Không được đâu cô gái,” Clarisse nói nhỏ. “Chờ đợi.”
Tôi không biết điều gì có thể làm tôi ngạc nhiên hơn: việc Clarisse ngăn người khác khỏi đánh nhau, hay sự thật rằng cô ta và Annabeth, những người luôn khinh tường nhau ra mặt, dường như lại đang hợp tác rất ăn ý với nhau.
“Trong sáu tháng,” Silenus tiếp tục nói, “chúng tôi đã nuông chiều cậu, cậu Underwood. Chúng tôi để cậu đi khắp nơi. Chúng tôi đồng ý cho cậu giữ giấy phép tìm kiếm. Chúng tôi chờ cậu đem về bằng chứng cho những gì cậu nói. Và sau sáu tháng cậu đã tìm được gì?”
“Tôi chỉ cần thêm thời gian,” Grover năn nỉ.
“Không gì cả!” thần rừng già ngồi giữa trả lời. “Cậu chẳng tìm thấy gì cả.”
“Nhưng, Leneus...”
Silenus đưa tay lên. Bác Chiron rướn người nói điều gì đó với mấy vị thần rừng. Trông họ có vẻ không vui vẻ cho lắm. Họ chụm đầu lẩm bẩm rồi lại cãi cọ lẫn nhau, rồi bác Chiron nói thêm câu gì nữa, và Silenus thở dài. Ông ta ngần ngại gật đầu.
“Cậu Underwood,” Silenus tuyên bố, “chúng tôi sẽ cho cậu thêm một cơ hội.”
Grover sáng bừng lên. “Cảm ơn!”
“Một tuần nữa.”
“Cái gì cơ? Nhưng thưa ngài! Điều đó là không thể!”
“Một tuần nữa, cậu Underwood. Và sau đó, nếu cậu không thể chứng minh được lời nói của mình, thì lúc đó cậu nên đi tìm một nghề khác đi. Cái gì đó hợp với khả năng diễn kịch của cậu ấy. Nhà hát múa rối chẳng hạn. Hoặc là nhảy gõ nhịp.”
“Nhưng thưa ngài, tôi... tôi không thể mất giấy phép tìm kiếm được. Cả đời tôi...”
“Buổi họp của Hội đồng ngừng ở đây,” Silenus nói. “Giờ thì chúng ta ăn trưa thôi!”
Vị thần rừng già vỗ tay và một đám các nữ thần cây hiện ra từ những thân cây với những đĩa rau, quả, những hộp thiếc và những cao lương mỹ vị khác của loài dê. Vòng tròn các bô lão tách ra và đi lấy đồ ăn. Grover bước về phía chúng tôi với vẻ chán nản. Chiếc áo phông màu xanh da trời bạc phếch của cậu ta có in hình một thần rừng. Trên áo viết: Có móng không?
“Chào Percy,” cậu ấy chán chường đến nỗi thậm chí không đề nghị bắt tay tôi nữa. “Mọi việc ổn chứ?”
“Mấy lão dê già!” Juniper nói. “Ôi, Grover, họ không hiểu anh đã cố gắng đến thế nào!”
một sự lựa chọn khác,” Clarisse nói một cách cay độc.
“Không. Không.” Juniper lắc đầu. “Grover, em sẽ không để anh làm thế đâu.”
Mặt cậu ta tái đi. “Tớ... tớ phải suy nghĩ đã. Nhưng thậm chí chúng ta còn chẳng biết đi tìm ở đâu.”
“Các cậu đang nói về chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
Ở phía xa, tiếng tù và vang lên.
Annabeth mím môi. “Tớ sẽ kể cho cậu nghe sau, Percy.
Chúng ta quay về nhà của chúng ta thôi. Bắt đầu kiểm tra rồi đấy.”
Thật không công bằng chút nào khi diễn ra cuộc kiểm tra nhà trong khi tôi vừa mới tới trại, nhưng luật là như vậy. Cứ mỗi buổi chiều, một trong những trại viên lâu năm sẽ đi quanh trại với cuộn giấy cói ghi chép trong tay. Nhà nào tốt nhất sẽ được tắm trước, và chắc chắn là có nước nóng. Nhà tệ nhất sẽ phải rửa bát ở nhà bếp sau bữa tối.
Vấn đề của tôi là: tôi là người duy nhất ở nhà thần Poseidon, và tôi thì chắc chắn không thể gọi là gọn gàng được. Các nữ yêu quái mình người cánh chim làm nhiệm vụ dọn dẹp vệ sinh chỉ đến vào những ngày cuối cùng của mùa hè. Vì thế nhà của tôi vẫn còn nguyên hiện trạng trước kỳ nghỉ đông: giấy gói kẹo và túi khoai tây chiên vương vãi trên giường, bộ giáp trong lần chơi cướp cờ rã ra từng mảnh rải rác khắp nhà.
Tôi chạy nhanh về khu sinh hoạt chung, nơi mười hai ngôi nhà – mỗi một cái dành cho một vị thần trên đỉnh Olympus – tạo thành hình chữ U bao quanh một bãi cỏ xanh. Mấy đứa con của nhà nữ thần Demeter đang quét dọn nhà và trồng hoa mới trên bậu cửa sổ. Chỉ cần một cái búng tay, bọn họ có thể khiến những những dây hoa rạng đông vàng nở rộ trên cổng ra vào và hoa cúc dại phủ đầy trên mái. Thật không công bằng chút nào! Chắc bọn họ chẳng bao giờ bị về bét trong cuộc đua dọn dẹp này. Mấy nhóc ở nhà thần Hermes đang bò lổm nhổm đầy lo sợ, giấu đống quần áo chưa giặt dưới gầm giường và đổ tội ăn cắp cho nhau. Bọn họ tuy lười biếng thật nhưng ít ra vẫn còn thuận lợi hơn tôi.
Ở phía nhà nữ thần Aphrodite, Silena Beauregard vừa mới bước ra, kiểm tra danh sách các việc cần làm trên cuộn giấy. Tôi thầm thì chửi rủa. Silena rất tốt, nhưng cô ấy vô cùng gọn gàng, và do đó là vị thanh tra tồi tệ nhất. Cô ấy muốn mọi thứ phải sạch đẹp, còn tôi thì không thể làm “đẹp” được. Tôi có thể gần như cảm thấy được đôi tay tôi dần trở nên nặng tri với tất cả chén bát mà tôi sẽ phải rửa vào tối nay.
Nhà của thần Poseidon nằm ở cuối dãy nhà dành cho các “nam thần” ở bên phải của bãi cỏ. Nó được làm từ đá biển xám và điểm xuyết những vỏ sò. Nó dài và lùn xủn trông như cái boong-ke, chỉ là nó có các cửa sổ nhìn ra biển và luôn luôn có những làn gió nhẹ thổi vào qua đó.
Tôi lao vào trong nhà, tính toán xem có thể giấu giếm được cái gì xuống gầm giường như bên nhà thần Hermes hay không. Và tôi thấy người em cùng cha khác mẹ của tôi – Tyson – đang quét nhà.
“Anh Percy!” cậu ấy rống lên. Tyson vứt chổi và chạy lại phía tôi. Nếu bạn chưa bao giờ bị tấn công bởi một Cyclops đầy nhiệt tình đeo tạp dề hoa và găng tay sao su thì để tôi miêu tả cho các bạn nghe, sẽ tỉnh hẳn ngủ đấy!
Tôi cố chống đỡ cái ôm như gấu vật của cậu ấy. Tyson đặt tôi xuống, cười nhăn nhở như điên, con mắt duy nhất màu nâu ánh lên vẻ vui sướng. Răng cậu ấy vẫn vàng và vặn vẹo như xưa, và tóc vẫn như tổ cú. Bên trong cái tạp dề hoa của cậu ấy là một cái quần jeans cỡ XXXL và chiếc áo sơ mi bằng vải flanen rách rưới, hình ảnh của cậu em tôi thật khiến người ta đau mắt. Đã gần một năm nay tôi không gặp cậu ấy, kể từ khi cậu ấy xuống biển làm việc trong lò rèn của các Cyclops.
“Anh vẫn ổn chứ?” Tyson hỏi. “Chưa bị quái vật ăn thịt à?”
“Chưa, cho dù chỉ là một tẹo.” Tôi giơ chân giơ tay khoe mình vẫn còn đầy đủ tứ chi, trong khi Tyson vỗ tay vui sướng.
“Tuyệt!” cậu ấy nói. “Vậy giờ chúng ta có thể ăn sandwich bơ đậu phộng và cưỡi cá ngựa này! Chúng ta có thể chiến đấu với quái vật, và đi gặp Annabeth và làm mọi thứ nổ BÙM BÙM nữa!”
Hy vọng Tyson không định làm tất cả những việc đó cùng một lúc, nhưng tôi vẫn nói với cậu ấy chắc chắn rằng mùa hè này sẽ có rất nhiều trò thú vị. Tôi không thể không cười, cậu ấy quá hăng hái về tất cả mọi thứ.
“Nhưng đầu tiên,” tôi nói, “chúng ta vẫn còn cuộc kiểm tra đây này. Chúng ta phải...”
Sau đó tôi nhìn quanh và nhận ra Tyson đã phải bận rộn như thế nào. Sàn nhà đã được quét. Giường đã được xếp gọn ghẽ. Cái bể phun nước mặn đặt góc phòng cũng mới được cọ rửa, khiến đám san h sáng lung linh. Trên bậu cửa sổ, Tyson đã đặt những cái lọ đựng đầy nước với hải quỳ và những thứ cây phát sáng kỳ lạ chỉ mọc sâu dưới đáy biển. Chúng đẹp hơn bất cứ loại hoa nào mà nhà nữ thần Demeter biến hóa ra.
“Tyson, nhà của chúng ta... đẹp không thể tin được!”
Mặt cậu ấy rạng rỡ. “Anh thấy lũ cá ngựa chưa? Em để chúng trên trần ấy!”
Một bầy cá ngựa thu nhỏ bằng đồng được treo trên những cái dây mắc lên trần, trông giống như chúng đang bơi trong không khí vậy. Tôi không thể tin nổi Tyson, với đôi tay to cục mịch như thế, lại có thể làm được những thứ tinh tế như vậy. Tôi nhìn lên phía trên chiếc giường của mình, và thấy chiếc khiên cũ của tôi đang được treo trên tường.
“Em đã sửa nó!”
Cái khiên bị hỏng nghiêm trọng sau cú tấn công của con Manticore vào mùa đông năm ngoái, nhưng giờ thì nó đã hoàn hảo như xưa – không một vết xước! Tất cả những bức tranh bằng đồng vẽ cuộc phiêu lưu của tôi với Tyson và Annabeth ở Biển Quái Vật đã được đánh bóng và sáng lấp lánh.
Tôi nhìn Tyson và không biết phải làm sao để cảm ơn cậu ấy nữa.
Rồi một ai đó đằng sau tôi lên tiếng, “Ôi, trời ơi.”
Silena Beauregard đang đứng ở cửa ra vào với cuộn giấy ghi chép trong tay. Cô ấy bước vào nhà, liếc nhanh xung quanh rồi rướn lông mày nhìn tôi. “Hừm, tớ hơi nghi ngờ. Nhưng cậu đã dọn dẹp thật sạch sẽ, Percy. Tớ sẽ nhớ việc này.”
Cô ấy nháy mắt với tôi và rời khỏi phòng.
Tyson và tôi dành cả buổi chiều nói chuyện và đi chơi với nhau, thật tuyệt sau một buổi sáng bị các hoạt náo viên quái vật tấn công.
Chúng tôi xuống chỗ lò rèn và giúp Beckendorf ở nhà thần Hephaestus trong việc tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại. Tyson chỉ cho chúng tôi biết cậu ấy đã học cách tạo ra các vũ khí ma thuật như thế nào. Chỉ một loáng cậu ấy đã chế xong một cái rìu chiến hai lưỡi rực rỡ, làm Beckendorf lác mắt.
Trong khi làm việc, Tyson kể cho chúng tôi nghe về một năm qua của cậu ấy dưới biển. Mắt Tyson sáng lên khi miêu tả các lò rèn của các Cyclops và cung điện của thần Poseidon, nhưng cậu ấy cũng nói với chúng tôi mọi việc trở nên căng thẳng như thế nào. Những vị thần biển già cả, những người đã trị vì trong thời đa của các thần khổng lồ Titan, đang bắt đầu gây chiến với cha chúng tôi. Khi Tyson đi, chiến sự đã rải rác khắp Đại Tây Dương. Nghe điều đó khiến tôi vô cùng lo lắng, tôi muốn tham gia giúp cha, nhưng Tyson nói cha muốn cả hai chúng tôi ở trại.
“Trên bờ cũng có nhiều người xấu lắm,” Tyson nói. “Ta có thể khiến chúng nổ bùm mà!”
Sau khi xong việc ở lò rèn, chúng tôi đã vui chơi ở hồ chứa xuồng với Annabeth. Cô ấy rất vui mừng được gặp lại Tyson, nhưng tôi biết cô ấy vẫn đang bị phân tâm. Annabeth liên tục nhìn về phía cánh rừng, như đang nghĩ ngợi về vấn đề của Grover với Hội đồng. Tôi không thể trách cô ấy. Tôi chẳng thấy Grover ở đâu cả, và tôi cảm thấy vô cùng tồi tệ dành cho cậu ấy. Việc tìm kiếm thần Pan – vị thần mất tích đã lâu – là mục tiêu cả đời của cậu ấy. Cha và chú cậu ấy đều mất tích vì theo đuổi giấc mơ đó. Mùa đông năm ngoái, Grover đã nghe thấy một giọng nói trong đầu: Ta đợi ngươi – một giọng nói mà cậu ấy chắc chắn là của thần Pan – nhưng rõ ràng cuộc tìm kiếm của cậu ấy chẳng đi đến đâu cả. Nếu giờ Hội đồng tước mất giấy phép tìm kiếm, đó sẽ là đòn trí mạng đối với cậu ấy.
“ ‘Cách khác’ ở đây là cách gì vậy?” tôi hỏi Annabeth. “Điều mà Clarisse đề cập ấy?”
Cô ấy nhặt một viên đá và liệng nó nhảy trên mặt hồ. “Một thứ Clarisse đã do thám được. Mùa xuân vừa rồi tớ giúp cô ấy ít việc. Nhưng nó sẽ rất nguy hiểm. Nhất là đối với Grover.”
“Cậu dê đó làm em sợ,” Tyson lẩm bẩm.
Tôi nhìn chằm chằm vào cậu ấy. Tyson đã đối mặt với những con bò thở ra lửa, các con quái vật biển và những tên khổng lồ ăn thịt người rồi cơ mà. “Sao em lại sợ Grover?”
“Móng và sừng,” Tyson lẩm bẩm đầy lo lắng. “Và lông dê làm mũi em ngứa.”
Và điều đó đã làm cuộc hội thoại của chúng tôi về đề tài Grover kết thúc.
Trước buổi ăn tối, Tyson và tôi xuống trường đấu kiếm. Quintus rất vui vì có bạn đồng hành. Ông ta vẫn không nói cho tôi những thùng gỗ kia chứa cái gì, nhưng ông ta dạy tôi vài đường kiếm mới. Ông ta rất giỏi. Ông ta đánh kiếm theo cách mà người ta chơi cờ – đó là ông ta tung ra các đường kiếm liên tiếp và bạn không thể nhìn rõ hướng đi của mũi kiếm, cho đến khi ông ta thực hiện cú tấn công cuối cùng và dành được chiến thắng với thanh kiếm chĩa thẳng vào cổ bạn.
“Tốt lắm,” ông ta bảo tôi. “Nhưng khả năng phòng thủ của cậu kém quá.”
Ông ta tấn công và tôi chặn lại.
“Ông là kiếm sĩ chuyên nghiệp từ lâu rồi sao?” Tôi hỏi.
Ông ta tránh cú chém ngang đầu của tôi. “Tôi từng làm nhiều thứ.”
Quintus đâm mạnh và tôi tránh sang một bên. Dây buộc trên vai ông ta rớt xuống, và tôi nhìn thấy cái dấu đó trên vai ông – một cái nhọt màu đỏ tía. Nhưng đó không phải là một cái nhọt bình thường. Nó có hình dạng hẳn hoi – hình một con chim đang gập cánh – chim cút hay cái gì đó tương tự.
“Trên cổ ông có cái gì vậy?” Tôi hỏi câu đó có lẽ hơi thô lỗ, nhưng bạn có thể đổ cho chứng rối loạn tăng động giảm chú ý của tôi. Tôi có khuynh hướng thốt ra mọi thứ.
Quintus để lỡ mất nhịp. Tôi đánh vào cán kiếm của ông ta và hất thanh kiếm khỏi tay Quintus.
Ông ta xoa xoa các ngón tay, rồi kéo áo giáp để che đi vết bớt. Đó không phải là một hình xăm, tôi nhận ra. Đó là một vết bỏng cũ... giống như ông ta từng bị đóng dấu(3).
“Một lời nhắc nhở.” Ông ta nhặt kiếm lên và cố nở một nụ cười. “Giờ thì chúng ta làm lại chứ?”
Quintus tấn công tôi liên tục, không cho tôi thời gian để hỏi thêm một câu nào.
Khi chúng tôi đấu kiếm, Tyson chơi với O’Leary, con vật mà cậu ấy gọi là “cún con.” Cậu ấy với con chó đánh vật để tranh nhau cái khiên bằng đồng và chơi trò bắt bóng. Một điều lạ lùng là tận khi trời xẩm tối mà Quintus vẫn chưa toát một giọt mồ hôi; trong khi Tyson và tôi thì nóng bức và nhớp nháp, vì thế chúng tôi đi tắm và chuẩn bị sẵn sàng cho bữa ăn tối.
Tôi đang cảm thấy thật tuyệt. Một ngày như bao ngày bình thường ở trại. Rồi sau đó đến giờ ăn tối, tất cả trại viên xếp hàng trước cửa từng ngôi nhà và diễu hành đến sảnh ăn. Hầu hết mọi người đều lờ đi vết nứt được bịt kín trên sàn nhà bằng đá hoa cương ở cửa ra vào – một vết sẹo dài ba mét mà mùa hè năm ngoái vẫn còn chưa xuất hiện. Còn tôi thì cẩn thận bước qua nó.
“Vết nứt to thế,” Tyson nói khi chúng tôi ngồi ở bàn của mình. “Chắc là động đấ
“Không, không phải động đất.” Tôi trả lời.
Tôi không biết có nên nói cho cậu ấy không nữa. Đó là một bí mật chỉ có tôi, Annabeth và Grover biết. Nhưng nhìn vào con mắt lớn của Tyson, tôi biết mình không thể giấu cậu ấy điều gì.
“Nico di Angelo,” tôi hạ thấp giọng và kể cho cậu ấy nghe. “Đó là một cậu nhóc con lai mà bọn anh đưa về trại vào mùa đông năm ngoái. Cậu ta, ừm... cậu nhóc muốn anh bảo vệ chị gái của cậu ấy khi bọn anh làm nhiệm vụ, nhưng anh đã thất bại. Chị gái cậu ấy đã chết. Và giờ thì cậu ấy đổ lỗi cho anh.”
Tyson nhíu mày. “Và vì thế cậu ta vạch lên sàn à?”
“Những bộ xương tấn công bọn anh,” tôi nói. “Nico bảo chúng biến đi, và mặt đất chỉ việc hở ra, nuốt gọn bọn chúng. Nico...” Tôi nhìn quanh để đảm bảo không ai nghe thấy. “Nico là con trai của thần Hades.”
Tyson gật đầu đầy chín chắn. “Vị thần của người chết.”
“Đúng vậy.”
“Vậy giờ cậu bé Nico đó đi rồi à?”
“Anh... anh đoán thế. Anh đã cố tìm kiếm cậu ta. Annabeth cũng vậy. Nhưng may mắn đã không mỉm cười với bọn anh. Đây là bí mật đấy, Tyson. Được không? Nếu mọi người biết cậu bé là con trai thần Hades, cậu bé sẽ gặp nguy hiểm. Kể cả bác Chiron, em cũng không được nói nhé.”
“Lời tiên tri nguy hiểm,” Tyson nói. “Các thần khổng lồ Titan sẽ lợi dụng cậu ta nếu biết sự thật này.”
Tôi nhìn Tyson đăm đăm. Thỉnh thoảng tôi quên khuấy mất cậu ta to xác và trẻ con như thế nào, Tyson thực sự rất thông minh. Cậu ấy biết rằng đứa con tiếp theo của Bộ Tam Vĩ Đại – thần Zeus, thần Poseidon, hay thần Hades – khi lên mười sáu tuổi được tiên đoán hoặc sẽ bảo vệ, hoặc sẽ tiêu diệt đỉnh Olympus. Hầu hết mọi người đều cho rằng đó là tôi, nhưng nếu tôi chết trước khi qua tuổi mười sáu thì lời nguyền sẽ dễ dàng chuyển sang cho Nico.
“Chính xác,” tôi khẳng định. “Vậy...”
“Kín miệng,” Tyson hứa. “Giống như vết nứt trên sàn vậy.”
Tối đó tôi lại không ngủ được. Tôi nằm trên giường và nghe sóng vỗ ngoài bờ biển, và tiếng cú và quái vật trong các cánh rừng. Tôi sợ khi ngủ thiếp đi, tôi sẽ lại gặpcơn ác mộng.
Mà các bạn thấy đấy, đối với các á thần thì giấc mơ không chỉ đơn thuần là giấc mơ. Đó là những thông điệp. Chúng tôi thấy những sự việc xảy ra đối với bạn bè mình hoặc là với kẻ thù. Thỉnh thoảng thậm chí chúng tôi còn thấy lờ mờ quá khứ hoặc tương lai. Và khi ở trại, các giấc mơ của tôi thường xảy ra và sống động hơn rất nhiều.
Vì thế mà đến nửa đêm tôi vẫn còn thức, nhìn chằm chằm vào tấm đệm giường bên trên tôi. Và lúc đó tôi nhận ra có một thứ ánh sáng kỳ lạ trong phòng. Bể phun nước mặn đang phát sáng.
Tôi tung chăn ra và cẩn trọng bước tới gần nó. Hơi nước bốc lên từ dòng nước biển nóng. Màu sắc cầu vồng mờ ảo, mặc dù trong phòng không hề có chút ánh sáng nào, ngoại trừ ánh trăng ở bên ngoài. Một giọng phụ nữ dịu dàng cất lên từ làn hơi nước: Hãy đặt một đồng drachma vào.
Tôi nhìn về phía Tyson, nhưng cậu ấy vẫn còn đang ngáy. Cậu ấy ngủ say như con voi bị bắn thuốc mê vậy.
Tôi không biết phải nghĩ gì nữa. Tôi chưa bao giờ nhận được một thông điệp Iris mà người nhận phải trả tiền nào trước đây. Một đồng drachma sáng lấp lánh dưới đáy bể. Tôi nhặt nó lên và ném nó vào Màn Sương Mù. Đồng xu biến mất.
“Thưa nữ thần Iris, Nữ thần của Cầu vồng,” tôi thì thầm. “Hãy cho tôi thấy... ừm, bất cứ điều gì người muốn cho tôi thấy.”
Màn Sương Mù tỏa sáng lung linh. Tôi nhìn thấy một bờ sông tối đen. Những làn sương trôi lững lờ ngang qua làn nước đen ngòm. Bờ sông được trải một lớp đá núi lửa lởm chởm. Một cậu bé đang ngồi xổm bên bờ sông và đang đốt lửa trại. Ngọn lửa đang cháy có màu xanh khác thường. Rồi sau đó tôi nhìn thấy khuôn mặt cậu bé. Đó là Nico di Angelo. Cậu ta đang ném từng mẩu giấy vào trong ngọn lửa – những quân bài ma thuật trong trò chơi mà cậu ta mê mẩn suốt mùa đông năm ngoái.
Nico mới chỉ mười tuổi, hoặc đến giờ này có lẽ là mười một, nhưng trông cậu nhóc trông già hơn tuổi nhiều. Tóc cậu ta đã dài hơn. Nó bờm xờm và đã gần chạm đến vai. Mắt cậu ta đen sẫm. Làn da ô liu của cậu bé trở nên xanh xao hơn. Nico mặc một chiếc quần jean rách màu đen, áo sơ mi đen và bên ngoài là chiếc jacket sờn và nhăn nhúm to hơn cậu đến vài cỡ. Mặt cậu bé đầy bụi bẩn và đôi mắt hơi dại. Cậu trông giống như một đứa trẻ sống lang thang trên các đường phố.
Tôi chờ đợi cậu ta nhìn tôi. C cậu ta sẽ giận điên lên, bắt đầu buộc tội tôi vì đã để chị cậu ta chết. Nhưng cậu bé dường như chẳng chú ý gì đến tôi.
Tôi vẫn im lặng, không dám cử động. Nếu không phải cậu ta gửi bức thông điệp Iris này, vậy ai đã làm?
Nico vứt một quân bài nữa vào đống lửa màu xanh. “Vô dụng,” cậu lẩm bẩm. “Không thể tin là có thời mình lại thích những thứ này.”
“Một trò chơi rất trẻ con, thưa cậu chủ,” một giọng nói khác đồng tình. Giọng nói đó phát ra gần đống lửa, nhưng tôi không thể nhìn rõ người đang nói là ai.
Nico nhìn sang bên kia sông. Ở bờ phía xa là bờ sông tối đen được bao phủ bởi sương mù. Tôi nhận ra nơi đó: Địa Ngục. Nico đang cắm trại bên bờ sông Styx.
“Ta đã thất bại,” cậu bé lẩm bẩm. “Chẳng có cách nào đưa chị ấy quay trở lại.”
Người kia không nói gì.
Nico quay về phía người đó và hỏi một cách nghi ngờ: “Có còn đó không? Nói đi chứ.”
Cái gì đó mờ ảo hiện ra. Tôi cứ tưởng đó chỉ là ánh lửa. Sau đó tôi nhận ra nó có hình dáng một con người – một làn khói xanh, một cái bóng. Nếu bạn nhìn thẳng thì sẽ chẳng thấy hắn ta đâu, nhưng nếu nhìn qua khóe mắt bạn sẽ nhận ra hình dạng đó. Một con ma.
“Chưa có ai làm được cả,” con ma nói. “Nhưng có lẽ có một cách.”
“Nói cho ta nghe,” Nico ra lệnh. Mắt cậu bé sáng lên với sự mãnh liệt.
“Một sự hoán đổi,” con ma nói. “Một linh hồn đổi lấy một linh hồn.”
“Ta đã đề nghị rồi!”
“Không phải của ngài,” con ma nói. “Ngài không thể đưa cho cha ngài một linh hồn mà cuối cùng thì cũng về tay ông ấy. Ông ấy cũng chẳng lo về cái chết của con trai mình. Ý tôi là một linh hồn đáng lẽ đã phải chết rồi kia. Một người đã chết hụt.”
Mặt Nico tối lại. “Không nói chuyện đó nữa. Ngươi đang nói về việc giết người.”
“Tôi đang nói về công lý,” con ma nói. “Sự báo thù.”
“Đó là hai việc khác nhau.”
Con ma cười gàn. “K ngài lớn lên ngài sẽ nhìn sự việc theo cách khác.”
Nico nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. “Tại sao? Ít nhất thì ta cũng phải triệu tập được chị ấy chứ? Ta muốn nói chuyện với chị ấy. Chị ấy... chị ấy sẽ giúp ta.”
“Tôi sẽ giúp ngài,” con ma hứa hẹn. “Không phải tôi đã cứu ngài rất nhiều lần rồi sao? Không phải tôi đã dẫn ngài qua mê cung và dạy ngài cách sử dụng quyền năng của ngài sao? Ngài có muốn trả thù cho chị gái mình hay không?”
Tôi không thích giọng lưỡi của con ma đó. Hắn làm tôi nhớ đến một gã ở trường cũ của tôi, một kẻ luôn bắt nạt và thuyết phục những đứa trẻ khác làm những điều ngu xuẩn như: ăn cắp thiết bị trong phòng thí nghiệm, phá hoại ô tô của giáo viên. Gã đó chẳng bao giờ gặp chuyện gì rắc rối, nhưng lại luôn khiến những đứa trẻ khác bị phạt.
Nico quay mặt về phía đống lửa vì thế con ma không nhìn thấy được cậu ta, nhưng tôi thì thấy. Một giọt nước mắt chảy xuống má cậu. “Tốt lắm. Ngươi có kế hoạch gì không?”
“Ồ, có chứ,” con ma vui vẻ nói. “Chúng ta có rất nhiều con đường tăm tối để đi. Chúng ta phải bắt đầu...”
Hình ảnh mờ dần. Nico biến mất. Giọng người phụ nữ trong Màn Sương Mù cất lên, Hãy bỏ thêm một đồng drachma để có thêm năm phút nữa.
Chẳng còn đồng vàng nào cạnh đài phun nước nữa. Tôi sờ túi, nhưng tôi lại đang mặc pyjama. Tôi chạy tới chỗ cái bàn đầu giường để tìm tiền lẻ, nhưng thông điệp Iris đã chập chờn và tắt ngúm, căn phòng lại tối tăm trở lại. Việc kết nối đã bị cắt đứt.
Tôi đứng giữa nhà, lắng nghe tiếng nước chảy róc rách từ chiếc bể phun nước mặn và tiếng sóng biển bên ngoài.
Nico vẫn còn sống. Cậu ta đang cố mang chị mình quay trở về từ cái chết. Và tôi có linh cảm tôi biết được linh hồn nào cậu ta muốn trao đổi – người đã từng chết hụt. Sự báo thù.