Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung

Chương 4



Bác Chiron cứ khăng khăng bắt chúng tôi nói chuyện đó vào sáng hôm sau, việc đó chẳng khác gì, Này, mạng sống của cậu đang bị nguy hiểm đấy. Ngủ ngon nhé! Đêm đó tôi bị khó ngủ, và khi cuối cùng ngủ được thì tôi lại mơ về một nhà tù.

Tôi trông thấy một cậu bé mặc áo chùng kiểu Hy Lạp, đi xăng-đan đang co ro một mình trong một căn phòng lớn bằng đá. Trần nhà thông ra ngoài trời, nhưng các bức tường cao đến sáu mét và làm bằng đá cẩm thạch được mài bóng, hoàn toàn nhẵn mịn. Rải rác trong phòng là những hộp gỗ. Một vài cái bị nứt vỡ và đổ, giống như chúng đã bị quăng vào đó. Các dụng cụ bằng đồng rơi ra ngoài – một cái compa, một cái cưa và một số thứ khác mà tôi không thể nhận ra.

Cậu bé co ro trong góc phòng, run rẩy vì lạnh, hoặc vì sợ hãi. Trên người cậu đầy những vết bùn bắn tóe tung. Chân, tay và mặt mũi cậu bé trầy xước như thể cậu bị kéo lê đến đây cùng những chiếc hộp này.

Sau đó hai cánh cửa bằng gỗ sồi ì ạch mở ra. Hai tên lính canh gác trong bộ áo giáp bằng đồng bước vào cùng một người đàn ông già nua đi giữa. Chúng quẳng đàn ông già vào đống hỗn độn đó.

“Cha!” Cậu bé chạy đến bên ông. Áo của ông ta rách tả tơi, tóc điểm một vài sợi bạc, râu dài và xoăn. Mũi của ông bị gãy và môi thì đang chảy máu.

Cậu bé lấy tay ôm lấy đầu ông. “Chúng đã làm gì cha?” Sau đó cậu bé hét vào mặt những tên lính gác, “Tao sẽ giết chúng mày!”

“Hôm nay sẽ không có giết chóc gì cả,” một giọng nói vang lên.

Bọn lính canh dạt sang bên. Đứng đằng sau chúng là một người đàn ông mặc áo choàng trắng. Hắn đeo một chiếc vòng nhỏ bằng vàng mỏng trên đầu. Râu của hắn nhọn như một lưỡi giáo. Mắt hắn ánh lên sự tàn ác. “Nhà ngươi đã giúp gã người Athen kia giết chết Minotaur của ta, Daedalus. Ngươi đã khiến con gái ta chống lại ta.”

“Chính ngài đã tự tạo ra điều đó, thưa bệ hạ,” giọng người đàn ông già rên rỉ.

Một tên lính đá vào mạng sườn ông lão. Ông ấy rên rỉ trong đau đớn. Cậu bé kêu lên, “Dừng lại!”

“Nhà ngươi yêu cái mê cung của mình quá,” vị vua nói. “Nên ta đã quyết định cho nhà ngươi ở đây. Đây sẽ là xưởng làm việc của ngươi. Hãy tạo ra cho ta những kì quan mới. Hãy làm cho ta vui. Mọi mê cung đều cần một con quái vật. Nhà ngươi sẽ là con quái vật đó của ta!”

“Tôi không sợ ngài đâu,” người đàn ông già kêu rên.

Vị vua cười lạnh lùng. Mắt hắn nhìn chăm chăm vào cậu bé. “Nhưng một người đàn ông sẽ quan tâm đến con trai của mình, phải không? Cứ làm ta thất vọng đi, lão già, và lần tới lính của ta sẽ trừng phạt thằng bé!”

Vị vua đường bệ đi khỏi cùng bọn lính canh, và hai cánh cửa đóng sầm, bỏ lại hai cha con cậu bé trong bóng tối.

“Chúng ta sẽ làm gì đây?” Cậu bé than vãn. “Cha, chúng sẽ giết cha mất.”

Ông lão chịu đau và cố gắng nở một nụ cười, nhưng miệng ông đầy máu trông thật đáng sợ.

“Can đảm lên con trai của ta.” Ông nhìn lên các vì sao. “Cha-cha sẽ tìm cách.”

Một then chắn hạ xuống ngang cửa cùng âm thanh chết người. Tôi choàng tỉnh, mồ hôi lạnh ngắt.

Sáng hôm sau, khi tôi còn chưa hết run thì bác Chiron triệu tập một hội đồng chiến tranhhúng tôi gặp nhau ở khu đấu kiếm, một điều không được bình thường cho lắm – chúng tôi bàn bạc về số phận của trại trong khi con O’Leary nhai kèn kẹt một con bò bằng cao su màu hồng có kích thước như thật.

Bác Chiron và Quintus đứng ở đằng trước, bên cạnh giá để vũ khí. Annabeth và Clarisse ngồi cạnh nhau và cùng thảo ra chỉ thị quân sự. Tyson và Grover ngồi cách xa nhau hết mức có thể. Cùng ngồi ở bàn còn có nữ thần cây Juniper, Silena Beauregard, Travis và Connor Stoll, Beckendorf, Lee Fletcher, và thậm chí cả Argus, người đứng đầu bộ phận an ninh trăm mắt của chúng tôi. Đó là lý do tại sao tôi biết mọi việc đã trở nên nghiêm trọng. Argus hiếm khi xuất hiện trừ khi có việc gì đó cực kỳ quan trọng đang diễn ra. Trong lúc Annabeth nói, anh ta dồn cả trăm con mắt xanh của mình vào cô ấy, chăm chú đến nỗi cả thân mình anh ta đỏ ngầu lên.

“Chắc chắn Luke đã biết về lối vào Mê Cung,” Annabeth nói. “Hắn biết mọi thứ về trại của chúng ta.”

Tôi nghĩ mình có thể cảm nhận được một chút kiêu hãnh trong giọng nói của Annabeth, như thể cô ấy vẫn kính trọng hắn, cho dù hắn xấu xa đến mức nào.

Juniper hắng giọng. “Đó là điều tớ định nói với cậu tối qua. Lối vào hang đó đã có ở đó từ rất lâu rồi. Luke đã từng dùng nó.”

Silena Beauregard nhíu mày. “Cậu đã biết về lối vào Mê Cung, sao cậu không nói gì?”

Mặt Junifer chuyển sang màu xanh lá. “Tớ không biết điều đó quan trọng. Chỉ là một cái hang thôi mà. Tớ không thích những những cái hang cũ gớm ghiếc.”

“Cô ấy rất tinh tế mà,” Grover nói.

“Tớ sẽ không để ý đâu, nếu đó không phải là... là Luke.” Mặt cô ta trở nên hơi xanh hơn một chút như thể cô ta đang đỏ mặt vậy.

Grover nổi cáu. “Quên cái gì tinh tế mà tớ vừa nói đi nhé.”

“Hay đấy.” Quintus vừa lau bóng thanh kiếm vừa nói. “Và mọi người tin rằng anh chàng đó, Luke, sẽ dám sử dụng Mê Cung như một con đường hành quân để chiếm trại sao?”

“Chắc chắn,” Clarisse nói. “Nếu hắn có thể đưa cả một đội quái vật vào bên trong Trại Con Lai, có thể đột ngột xuất hiện giữa rừng mà chẳng mảy may lo lắng về hàng rào phép thuật của trại, thì chúng ta sẽ chẳng có một cơ may nào đâu. Hắn có thể tiêu diệt chúng ta dễ dàng. Chắc chắn hắn đã chuẩn bị việc này trong nhiều tháng rồi.

“Hắn đang đưa người đi do thám mê cung,” Annabeth nói. “Bọn tớ biết việc này vì... vì bọn tớ đã tìm được một tên.”

“Chris Rodriguez,” bác Chiron nói và ném cho Quintus một cái nhìn đầy ý nghĩa.

“À,” Quintus nói. “Cái tên trong... Được rồi. Tôi đã hiểu.”

“Cái tên trong cái gì?” tôi hỏi.

Clarisse nhìn tôi trừng trừng. “Vấn đề là, Luke đang cố tìm đường đi xuyên qua mê cung. Hắn đang tìm kiếm xưởng của Daedalus.”

Tôi nhớ đến giấc mơ của mình đêm hôm trước – một người đàn ông già đầy máu trong bộ quần áo rách tả tơi. “Người đã tạo ra mê cung đúng không?”

“Phải,” Annabeth nói. “Kiến trúc sư vĩ đại nhất, nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại. Nếu các truyền thuyết hoàn toàn có thật, thì xưởng của ông ấy nằm ở tâm của Mê Cung. Ông ấy là người duy nhất biết cách đi qua mê cung an toàn. Nếu Luke tìm thấy xưởng và thuyết phục được ông ấy giúp hắn, hắn sẽ không phải mò mẫm tìm đường với nguy cơ mất cả đội quân trong những cái bẫy ở mê cung. Hắn có thể đi đến bất kì nơi đâu hắn muốn – nhanh chóng và an toàn. Đầu tiên là đến Trại Con Lai để quét sạch hết tất cả chúng ta. Sau đó... hướng thẳng đến đỉnh Olympus.”

Đấu trường trở nên im lặng trừ tiếng CHÍT! CHÍT! phát ra từ con bò đồ chơi đã bị moi ruột của con O’Leary.

Cuối cùng Beckendorf đặt hai bàn tay lớn lên bàn. “Lùi lại một giây nào. Annabeth, cậu nói ‘thuyết phục Daedalus’ ư? Chẳng phải Daedalus đã chết rồi sao?”

Quintus cằn nhằn. “Tôi cũng hy vọng như vậy. Ông ta sống, bao nhiêu nhỉ, cách đây ba ngàn năm năm phải không? Và thậm chí nếu ông ta còn sống, chẳng phải những câu chuyện cổ nói rằng ông ta đã đi khỏi Mê Cung hay sao?”

Bác Chiron không ngừng gõ lộp cộp móng guốc. “Đó là vấn đề đấy, Quintus thân mến ạ. Chẳng ai biết cả. Có những lời đồn... đúng rồi, có rất nhiều lời đồn gây xôn xao về Daedalus, một trong số đó là ông ta đã quay lại và biến mất vào trong Mê Cung khi về già. Có thể ông ta vẫn còn ở dưới đó.”

Tôi nghĩ về người đàn ông già mà tôi đã thấy trong giấc mơ. Trông ông ta thật yếu đuối, thật khó tin rằng ông ta có thể sống thêm được một tuần nào nữa, chứ đừng nói là tới những ba

“Chúng ta cần vào bên trong,” Annabeth nói. “Chúng ta phải tìm ra xưởng trước Luke. Nếu Daedalus còn sống, chúng ta sẽ thuyết phục ông ấy giúp chúng ta, chứ không phải Luke. Nếu sợi dây của Ariadne vẫn còn, chúng ta phải chắc chắn nó không rơi vào tay hắn.”

“Đợi đã,” tôi nói. “Nếu chúng ta lo sợ về việc tấn công, tại sao không cho nổ tung lối vào và bít đường hầm lại?”

“Sáng kiến đấy!” Grover nói. “Tớ sẽ đi lấy thuốc nổ!”

“Không dễ dàng như thế đâu, đồ đần ạ,” Clarisse càu nhàu. “Bọn tớ đã thử làm điều đó với lối vào tìm thấy ở Phoenix. Nhưng không thành công.”

Annabeth gật đầu. “Mê Cung là một công trình kiến trúc có phép thuật, Percy. Sẽ cần một sức mạnh khổng lồ chỉ để bịt một trong số các lối vào của nó. Ở Phoenix, Clarisse đã phá sập cả một tòa nhà với một quả bóng thép(5), thế nhưng lối vào mê cung cũng chỉ dịch chuyển có một vài phân. Điều tốt nhất chúng ta có thể làm là ngăn Luke khỏi việc tìm được đường đi xuyên qua Mê Cung.”

“Chúng ta có thể chiến đấu,” Lee Fletcher nói. “Giờ chúng ta đã biết lối vào ở đâu. Chúng ta có thể lập một tuyến phòng thủ và đợi chúng. Nếu đội quân của Luke cố đi qua, chúng sẽ thấy ta đang cầm cung tên đợi sẵn.”

“Đương nhiên chúng ta sẽ lập ra các tuyến phòng thủ,” bác Chiron đồng ý. “Nhưng bác sợ rằng Clarisse đúng đấy. Hàng rào phép thuật đã giữ cho trại an toàn hàng trăm năm nay. Nếu Luke thành công trong việc đưa được đội quân quái vật đông đúc đó vào trung tâm trại, bằng cách đi đường vòng để tránh hàng rào phép thuật... chúng ta có thể không đủ người để đánh bại chúng.”

Không ai vui vẻ gì trước tin này. Bác Chiron thường cố tỏ ra lạc quan và vui vẻ. Nếu bác ấy nói chúng tôi không thể ngăn cản được cuộc tấn công, thì điều đó không phải là điều tốt lành gì.

“Chúng ta phải đến được xưởng của Daedalus trước đã,” Annabeth khăng khăng với quyết định của mình. “Tìm ra sợi dây của Ariadne và ngăn Luke sử dụng nó.”

“Nhưng nếu không ai có thể biết lối đi trong mê cung,” tôi nói, “thì làm sao chúng ta có cơ hội chứ?”

“Tớ đã nghiên cứu về kiến trúc nhiều năm,” Annabeth nói. “Tớ biết về Mê Cung của Daedalus nhiều hơn bất kì ai.”

“Qua sách vở à?”

“Ừ, phải.”

“Như thế chưa đủ.”

“Vậy là đủ!”

“Không đủ.”

“Cậu có định giúp tớ không?”

Tôi nhận ra mọi người đang nhìn tôi và Annabeth như xem một trận tennis. Con bò cao su của con O’Leary tạo ra một tiếng KÍT! khi nó xé toạc cái đầu màu hồng của nó ra.

Bác Chiron hắng giọng. “Việc gì cần làm trước sẽ làm trước. Chúng ta cần một cuộc tìm kiếm. Ai đó phải đi vào Mê Cung, tìm ra xưởng của Daedalus, và ngăn cản Luke dùng mê cung để chiếm Trại Con Lai.”

“Tất cả chúng ta đều biết ai sẽ là người dẫn đầu cuộc tìm kiếm này,” Clarisse nói. “Đó là Annabeth.”

Mọi người rì rầm tán thành. Tôi biết Annabeth đã mong chờ một nhiệm vụ do cô ấy dẫn đầu từ khi còn bé xíu, nhưng trông cô ấy không được thoải mái cho lắm.

“Cậu cũng đã làm nhiều điều như tớ mà, Clarisse,” cô ấy nói. “Cậu cũng nên đi.”

Clarisse lắc đầu. “Tớ sẽ không quay lại đó.”

Travis Stoll cười lớn. “Đừng nói với tớ là cậu sợ nhé. Clarisse, cậu mà thỏ đế thế sao?”

Clarisse đứng phắt dậy. Tôi nghĩ cô ta sẽ nghiền nát Travis, nhưng thay vào đó, cô ta nói với giọng run run: “Cậu chẳng hiểu gì cả, đồ thô lỗ. Tớ sẽ không bao giờ quay lại nơi đó. Không bao giờ!”

Clarisse lao ra khỏi đấu trường.

Travis ngượng ngùng nhìn quanh. “Tớ không cố ý...”

Bác Chiron giơ tay lên ra hiệu. “Cô bé tội nghiệp đã có một năm đầy khó khăn rồi. Bây giờ chúng ta có đồng ý để Annabeth dẫn đầu cuộc tìm kiếm này không?”

Chúng tôi đều gật đầu trừ Quintus. Ông ta khoanh tay và nhìn chằm chằm xuống bàn, nhưng tôi không chắc có ai để để ý đến điều này không.

“Rất tốt.” Bác Chiron quay sang Annabeth. “Cháu yêu, giờ là lúc đến thăm Oracle. Khi cháu quay lại, chúng ta sẽ bàn xem nên làm gì tiếp theo

Chờ đợi Annabeth còn khó khăn hơn nhiều so với việc tự mình đi đến chỗ Oracle.

Tôi đã được nghe nó nói hai Lời Sấm Truyền trước đây. Lần đầu tiên là ở gác mái đầy bụi của Nhà Lớn, nơi linh hồn của Delphil ngủ trong xác ướp của một người phụ nữ hippie. Lần thứ hai là khi Oracle ra khỏi gác mái để và dạo một vòng nhỏ trong rừng. Tôi vẫn còn gặp các cơn ác mộng về việc đó.

Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiện diện của Oracle, nhưng tôi đã được nghe các câu chuyện: có những trại viên bị điên hoặc chết vì sợ hãi vì họ đã thấy được hình ảnh thật của bà ta.

Tôi bước tới bước lui trong đấu trường và chờ đợi. Con O’Leary đang ăn bữa trưa bao gồm năm chục ký thịt bò xay và một vài chiếc bánh quy cho chó to bằng nắp đậy thùng rác. Tôi chỉ thắc mắc không biết Quintus lấy những chiếc bánh quy cho chó to thế này ở đâu ra. Tôi không thể hình dung ra được hình ảnh bạn bước vào Pet Zone, chọn chúng và bỏ vào xe đẩy mua hàng.

Bác Chiron đang mải nói chuyện với Quintus và Argus. Theo tôi thấy thì hình như họ đang không đồng ý về một vấn đề gì đó. Quitus cứ lắc đầu liên tục.

Ở phía bên kia của đấu trường, Tyson và anh em nhà Stoll đang chơi trò đua xe ngựa bằng những cỗ xe ngựa bằng đồng thu nhỏ mà Tyson đã làm ra từ các mảnh áo giáp bị vứt bỏ.

Tôi ngừng việc đi lại và đi ra khỏi đấu trường. Tôi liếc nhìn ngang qua các cánh đồng dâu vào cửa sổ gác mái của Nhà Lớn, im lìm và tối tăm. Điều gì khiến Annabeth ở đó lâu đến thế? Tôi khá chắc là tôi sẽ không mất nhiều thời gian như thế này nếu đến lượt tôi dẫn đầu cuộc tìm kiếm.

“Percy,” giọng một cô gái thì thầm.

Juniper đang đứng trong bụi cây. Cách cô ấy trở nên gần như tàng hình khi được bao bọc bởi cây cối xung quanh thật kỳ lạ.

Cô ấy ra hiệu cho tôi một cách cấp bách. “Cậu cần biết điều này: Luke không phải là người duy nhất tớ nhìn thấy ở cạnh cái hang ấy.”

“Ý cậu là gì?”

Cô ấy liếc nhìn lại đấu trường. “Tớ cố gắng nói ra điều đó, nhưng ông ta ở ngay đó.”

“Ai?”

“Thầy dạy kiếm,” cô ấy nói. “Ông ta moẫm xem xét quanh những tảng đá.”

Dạ dày tôi thắt lại. “Quintus ư? Khi nào?”

“Tớ không nhớ. Tớ không để ý đến thời gian. Có thể là cách đây một tuần, khi ông ta xuất hiện lần đầu tiên.”

“Lúc đó ông ta làm gì? Ông ta có vào bên trong không?”

“Tớ... tớ không rõ. Percy, ông ta làm tớ sởn gai ốc. Tớ thậm chí còn không thấy ông ta đi vào khoảng rừng thưa đó. Đột nhiên ông ta xuất hiện ở đó. Cậu phải nói với Grover rằng việc này rất nguy hiểm...”

“Juniper?” Grover gọi từ bên trong đấu trường. “Cậu đi đâu thế?”

Juniper thở dài. “Tớ nên quay vào thôi. Hãy nhớ những gì tớ nói. Đừng tin người đàn ông đó!”

Juniper chạy vào đấu trường.

Tôi nhìn chăm chăm vào Nhà Lớn và cảm thấy bất an hơn bao giờ hết. Nếu Quintus đang âm mưu điều gì... tôi cần lời khuyên của Annabeth. Cô ấy có thể biết cần làm gì với thông tin của Juniper. Nhưng cô ấy đang ở chỗ quái quỉ nào nhỉ? Cho dù có bất cứ điều gì xảy ra với Oracle, cô ấy cũng không thể đi lâu như thế này.

Cuối cùng tôi cũng không thể chịu đựng được việc chờ đợi nữa.

Tôi biết điều mình sắp làm là phạm luật, nhưng rồi vì chẳng có ai ở đó cả. Tôi chạy xuống đồi và băng thẳng qua các cánh đồng.

Phòng khách phía trước của Nhà Lớn yên ắng lạ thường. Tôi đã quen nhìn thấy thần Dionysus ngồi cạnh lò sưởi, chơi bài, ăn nho và phàn nàn với các thần rừng, nhưng hôm nay Ngài D cũng đi vắng.

Tôi đi về cuối hành lang, ván sàn dưới chân kêu kèn kẹt. Khi đến chân cầu thang, tôi hơi lưỡng lự. Phía trên tầng bốn có một cánh cửa sập dẫn lên gác mái. Annabeth sẽ ở đâu đó trên ấy. Tôi đứng yên lặng và nghe ngóng. Nhưng những gì tôi nghe được không phải là những gì tôi mong đợi.

Tiếng ai đó khóc. Và nó phát ra bên dưới chân tôi.

Tôi vòng ra phía sau cầu thang. Cửa tầng hầm đang mở. Tôi thậm chí còn không biết Nhà Lớn có một tầng hầm. Nhìn vào bên trong, tôi thấy hai bóng người ở phía góc tầng hầm, đang ngồi lọt thỏm giữa một lô một lốc những thùng thức ăn thần thánh và mứt dâu dự trữ. Một người là Clarisse. Người kia là anh chàng người Hispanic trong một hiếc quần lính rách tả tơi và một chiếc áo phông màu đen bẩn thỉu. Tóc hắn bóng nhờn và rối bù. Hắn đang ôm ghì lấy hai vai mình và khóc nức nở. Đó là Chris Rodriguez, một con lai đã từng theo phe của Luke.

“Được rồi,” Clarisse nói với cậu ta. “Thử một ít rượu thánh nào!”

“Cô là ảo ảnh, Mary!” Chris lùi ra xa hơn về góc phòng. “Tr... tránh... tránh ra.”

“Tên tớ không phải là Mary.” Giọng của Clarisse nhẹ nhàng nhưng cực kỳ buồn bã. Tôi chưa bao giờ biết Clarisse lại có thể nói chuyện theo cách này. “Tên tớ là Clarisse. Nhớ lại đi. Xin cậu đấy.”

“Ở đó thật tối,” Chris hét lên. “Cực kỳ tối!”

“Đi ra ngoài nào,” Clarisse vỗ về. “Ánh mặt trời sẽ giúp cậu.”

“Một... một nghìn cái đầu lâu. Đất mẹ vẫn đang chữa lành cho hắn.”

“Chris,” Clarisse van nài. Nghe như Clarisse sắp khóc. “Cậu phải khỏe lên. Xin cậu đấy. Ngài D sẽ quay lại ngay thôi. Ông ấy là chuyên gia về bệnh tâm thần. Cậu hãy kiên trì nhé.”

Đôi mắt của Chris trông giống như mắt của một con chuột bị dồn vào chân tường – điên cuồng và tuyệt vọng. “Không có lối ra đâu, Mary. Không thể nào ra khỏi đó.”

Thế rồi cậu ta bất chợt thoáng thấy tôi và kêu lên đầy kinh hãi như thể đang bị ai đó siết cổ. “Con trai của thần Poseidon! Hắn ta thật xấu xa!”

Tôi lùi lại, hy vọng Clarisse không nhìn thấy tôi. Tôi chờ Clarisse nhảy bổ ra và hét vào mặt tôi, nhưng cô ta vẫn tiếp tục nói với Chris bằng giọng cầu xin đầy buồn bã, cố để hắn uống chỗ rượu thánh đó. Có thể cô ta nghĩ đó chỉ là ảo giác của Chris, nhưng... con trai của thần Poseidon ư? Lúc đó Chris đang nhìn tôi, nhưng tại sao tôi có cảm giác hắn không nói về tôi nhỉ?

Và sự nhẹ nhàng của Clarisse – tôi chưa bao giờ biết cô ta lại có thể thích một ai đó, nhưng cái cách cô ta gọi tên Chris... Cô ta đã biết hắn từ trước khi hắn phản bội. Cô ta biết về hắn nhiều hơn tôi nhận thức được. Và giờ hắn đang run rẩy trong tầng hầm tối tăm, sợ đi ra ngoài, và lẩm bẩm về một ai đó tên Mary. Thảo nào Clarisse không muốn liên quan gì đến Mê Cung. Điều gì đã xảy ra với Chris ở đó?

Có tiếng cọt kẹt ở trên – giống như cửa gác mái đang mở – và tôi chạy ra cửa trước. Tôi cần phải ra khỏi ngôi

“Cháu yêu,” bác Chiron nói. “Cháu đã làm được.”

Annabeth bước vào đấu trường. Cô ấy ngồi trên ghế đá và nhìn chằm chằm xuống sàn nhà.

“Thế nào?” Quintus hỏi.

Annabeth nhìn tôi trước. Tôi không biết liệu cô ấy đang cố cảnh báo tôi, hay ánh mắt của cô ấy chỉ đơn thuần là sự sợ hãi. Sau đó cô ấy nhìn chăm chú Quintus. “Cháu đã có được Lời Sấm Truyền. Cháu sẽ dẫn đầu cuộc tìm kiếm xưởng của Daedalus.”

Không ai reo hò. Ý tôi là, tất cả chúng tôi đều yêu mến Annabeth, và chúng tôi đều mong cô ấy tham gia vào một cuộc tìm kiếm, nhưng lần này dường như quá mức nguy hiểm. Sau những gì tôi nhìn thấy ở Chris Rodriguez, tôi thậm chí còn không muốn nghĩ đến việc Annabeth sẽ xuống cái mê cung huyền bí đó một lần nữa.

Bác Chiron quẹt móng guốc xuống nền đất. “Chính xác thì Lời Sấm Truyền đã nói gì, cháu yêu? Cách diễn đạt rất quan trọng.”

Annabeth hít một hơi thật sâu. “Cháu, à... ừm, bà ấy nói là, Ngươi sẽ đi vào bóng tối của một mê cung bất tận...”

Chúng tôi chờ đợi.

“Người chết, kẻ phản bội, và người mất tích sẽ được triệu hồi.”

Grover ngẩng đầu lên. “Người mất tích! Đó là thần Pan! Thật tuyệt!”

“Cả người chết và kẻ phản bội,” tôi thêm vào. “Không hay ho đến thế đâu.”

“Và?” bác Chiron hỏi. “Phần còn lại là gì?”

“Ngươi sẽ đứng lên hoặc ngã xuống dưới bàn tay của ma vương,” Annabeth nói, “và sự kháng cự cuối cùng của đứa con nữ thần Athena.”

Mọi người nhìn quanh lo lắng. Annabeth là con gái của nữ thần Athena, và sự chống cự cuối cùng nghe không không ổn chút nào.

“Này... chúng ta không nên vội kết luận.” Silena nói. “Annabeth không phải là đứa con duy nhất của nữ thần Athena, phải không?”

“Nhưng ai là ma vương?” Beckendorf hỏi.

Không ai trả lời. Tôi nghĩ đến hình ảnh Nico triệu hồi các linh hồn mà tôi đã thấy qua thông điệp Iris. Tôi có cảm giác không hay rằng Lời Sấm Truyền có liên quđiều này.

“Còn gì nữa không?” bác Chiron hỏi. “Lời Sấm Truyền vẫn chưa hoàn chỉnh.”

Annabeth ngập ngừng. “Cháu không nhớ chính xác.”

Bác Chiron nhướn mày. Annabeth nổi tiếng có trí nhớ tốt. Cô ấy không bao giờ quên những gì cô ấy nghe thấy.

Annabeth nhúc nhích người trên ghế. “Một điều gì đó về... Phá hủy với hơi thở cuối cùng của một anh hùng.”

“Và còn gì nữa?” bác Chiron hỏi.

Annabeth đứng lên. “Thực ra, vấn đề là cháu cần phải đi vào mê cung. Cháu sẽ tìm ra xưởng của Daedalus và ngăn cản Luke. Và... cháu cần người giúp đỡ.” Cô ấy quay sang tôi. “Cậu sẽ đi chứ?”

Tôi không chần chừ một giây. “Tớ đi.”

Lần đầu tiên trong ngày Annabeth nở một nụ cười, và điều này đã đền đáp mọi nỗ lực của tôi. “Grover, cậu cũng đi chứ? Thần thiên nhiên đang đợi.”

Dường như Grover quên mất cậu ấy ghét lòng đất như thế nào. Lời tiên tri về “người mất tích” đã tiếp thêm nghị lực cho cậu ấy. “Tớ sẽ mang thêm ít vật dụng tái chế để ăn vặt!”

“Và Tyson,” Annabeth nói. “Tớ cũng cần cậu.”

“Tuyệt! Đã đến lúc cho nổ tung mọi thứ lên rồi!” Tyson vỗ tay mạnh đến nỗi đánh thức cả con O’Leary đang ngủ trong góc.

“Đợi đã, Annabeth,” bác Chiron nói “Điều này trái với các luật lệ cổ xưa. Một anh hùng chỉ được phép có hai người tháp tùng.”

“Cháu cần tất cả các cậu ấy,” Annabeth khăng khăng. “Bác Chiron, điều này thực sự quan trọng.”

Tôi không biết tại sao cô ấy lại chắc chắn đến thế, nhưng tôi mừng vì cô ấy đưa cả Tyson đi cùng. Tôi không thể tưởng tượng được việc để cậu ấy lại. Cậu ấy to lớn, mạnh khỏe và hiểu biết về tất cả các loại máy móc. Không giống các thần rừng, các Cyclops không gặp vấn đề gì dưới lòng đất cả.

“Annabeth.” Bác Chiron vẫy nhẹ đuôi một cách lo lắng. “Hãy cân nhắc cẩn thận. Cháu sẽ phạm các luật lệ cổ, và việc đó luôn để lại hậu quả. Mùa đông năm ngoái, năm người tham gia cuộc tìm kiếm – giải cứu nữ thần Artemis. Chỉ có ba người trở về. Hãy nghĩ về điều đó. Ba là một số thần thánh. Có ba Nữ thần Mệnh, ba Nữ thần Báo thù, và ba người con trai của thần Kronos ở đỉnh Olympus. Đó là một con số mạnh mẽ có thể chống lại mọi nguy hiểm. Bốn... như vậy là liều lĩnh.”

Annabeth lại hít một hơi thật sâu. “Cháu biết. Nhưng tất cả chúng cháu phải đi. Xin bác đấy.”

Tôi cá là bác Chiron không thích điều này. Quintus đang xem xét chúng tôi, như kiểu ông ta đang tính toán xem ai trong số chúng tôi sẽ sống sót trở về.

Bác Chiron thở dài. “Được rồi. Kết thúc cuộc họp ở đây. Các thành viên trong đội tìm kiếm phải tự chuẩn bị cho mình. Ngày mai, vào lúc bình minh, chúng ta sẽ đưa các cháu đi vào Mê Cung.”

Quintus kéo tôi sang một bên khi mọi người trong hội đồng giải tán.

“Ta có linh cảm không hay về việc này,” ông ta nói với tôi.

Con O’Leary đi đến, vẫy đuôi mừng rỡ. Nó thả cái khiên dưới chân tôi, và tôi nhặt lên ném cho nó. Quintus ngắm con chó nô đùa chạy theo cái khiên. Tôi nhớ những gì Juniper đã nói về việc ông ta lùng sục bên ngoài mê cung. Tôi không tin ông ta, nhưng khi ông ta nhìn tôi, tôi thấy rõ sự lo lắng thực sự trong mắt ông ta.

“Ta không thích ý tưởng các cậu đi xuống đó chút nào,” ông ta nói. “Bất kì ai trong các cậu. Nhưng nếu các cậu phải đi, ta muốn các cậu nhớ một điều. Mê Cung tồn tại là để đánh lừa các cậu. Nó sẽ làm các cậu rối trí. Điều đó rất nguy hiểm đối với con lai. Chúng ta rất dễ bị rối trí.”

“Ông đã từng vào đó ư?”

“Cách đây lâu rồi.” Giọng ông ta nghe mệt mỏi. “Ta đã thoát chết trong gang tấc. Phần lớn những người vào đó không may mắn như vậy đâu.”

Ông ta nắm vai tôi. “Percy, hãy tập trung vào những việc quan trọng nhất. Nếu cậu có thể làm được điều đó, cậu có thể tìm thấy đường đi. Và đây, ta muốn cho cậu thứ này.”

Ông ta trao cho tôi một cái ống bằng bạc nhỏ. Nó lạnh đến mức tôi suýt đánh rơi nó.

“Một cái còi ư?” tôi hỏi.

“Một cái còi gọi chó,” Quintus nói. “Để gọi con O’Leary.”

“Ồ, cảm ơn ông, nhưng...”

“Nó sẽ có tác dụng gì trong mê cung? Ta không chắc một trăm phần trăm là nó sẽ có tác dụng. Nhưng O’Leary là một con chó ngao. Nó có thể xuất hiện khi được gọi, dù nó ở xa đến thế nào. Tôi sẽ yên tâm hơn khi biết cậu có nó. Nếu cậu thực sự cần giúp đỡ, hãy dùng nó, nhưng hãy cẩn thận, cái còi được làm từ băng ở sông Styx.”

“Băng gì cơ?”

“Từ dòng sông Styx. Rất khó để làm ra nó. Rất mỏng manh. Không thể tan chảy, nhưng nó sẽ bị phá hủy hoàn toàn khi cậu thổi nó, vì vậy cậu chỉ có thể dùng nó một lần.”

Tôi nghĩ về Luke, kẻ thù cũ của tôi. Ngay trước khi tôi tham gia cuộc tìm kiếm lần đầu của mình, Luke cũng đã tặng tôi một món quà – một đôi giày phép thuật được thiết kế để kéo tôi đến với cái chết. Quintus có vẻ thật tử tế. Thật quan tâm. Và con O’Leary thích ông ta, cái này phải có nguyên nhân gì đó. Con chó nhả cái khiên mỏng xuống chân tôi và sủa một cách hào hứng.

Tôi cảm thấy xấu hổ vì tôi đã tính chuyện không tin tưởng Quintus. Nhưng rồi tôi nhớ ra trước kia mình cũng đã từng tin tưởng Luke.

“Cảm ơn,” tôi nói với Quintus. Tôi nhét cái còi giá lạnh đó vào túi, tự hứa với chính mình rằng tôi sẽ không bao giờ dùng đến nó, và chạy ra khỏi đó đi tìm Annabeth.

Dù đã là thành viên của trại lâu đến thế nhưng tôi chưa bao giờ vào bên trong nhà nữ thần Athena.

Đó là một tòa nhà màu bạc, không có gì khác thường, rèm cửa chỉ toàn một màu trắng và có một con cú tạc bằng đá phía trên cửa ra vào. Đôi mắt bằng mã não của con cú dường như theo dõi tôi khi tôi đến gần.

“Có ai ở nhà không?” tôi gọi vào bên trong.

Không ai trả lời. Tôi bước vào và nín thở. Nơi này là một xưởng làm việc của những đứa trẻ thiên tài. Giường được đẩy vào một bên tường như thể việc ngủ không quan trọng lắm. Phần lớn diện tích căn phòng là để chứa bàn làm việc, các bộ dụng cụ và các loại vũ khí. Phía cuối căn phòng là một thư viện khổng lồ với những cuộn giấy cổ, sách bọc da và sách bìa mềm Có một bàn vẽ của kiến trúc sư với một lô lốc các loại thước kẻ và thước đo góc, và một vài tòa nhà mô hình không gian ba chiều. Những bản đồ chiến tranh cổ khổng lồ được dán lên trần nhà. Những bộ áo giáp treo bên dưới cửa sổ với những mảnh đồng lấp lánh dưới nắng.

Annabeth đang đứng ở phía cuối căn phòng, lục tìm khắp các cuộn giấy cổ

“Cộc cộc?” tôi nói.

Cô ấy giật mình quay lại. “Ồ... chào. Tớ không biết cậu đến.”

“Cậu ổn chứ?”

Cô ấy nhíu mày nhìn vào cuộn giấy trên tay. “Chỉ đang cố thực hiện một nghiên cứu. Mê Cung của Daedalus thật khổng lồ. Chẳng có câu chuyện nào có một chi tiết chắc chắn cả. Những bản đồ không chỉ ra điểm bắt đầu và điểm cần đến.”

Tôi nghĩ về điều Quintus nói, mê cung sẽ làm người ta rối trí như thế nào. Tôi băn khoăn liệu Annabeth đã biết điều đó chưa.

“Chúng ta sẽ tìm ra thôi,” tôi cam đoan.

Tóc Annabeth xõa xuống như một tấm rèm vàng bao quanh khuôn mặt cô ấy. Đôi mắt màu xám của Annabeth giờ trông gần như màu đen.

“Từ khi lên bảy, tớ đã muốn dẫn đầu một cuộc tìm kiếm,” cô ấy nói.

“Cậu sắp làm được một việc vĩ đại.”

Annabeth nhìn tôi biết ơn, nhưng sau đó nhìn chằm chằm xuống tất cả các cuốn sách và cuộn giấy vừa lấy ra từ giá. “Tớ lo lắm, Percy. Lẽ ra tớ không nên yêu cầu các cậu làm việc này. Cả Tyson và Grover nữa.”

“Này, bọn tớ là bạn cậu mà. Bọn tớ sẽ không bỏ lỡ cơ hội này.”

“Nhưng...” Annabeth khựng lại.

“Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi “Lời Sấm Truyền ư?”

“Tớ chắc mọi việc sẽ ổn thôi,” cô ấy nói nhỏ lại.

“Dòng cuối cùng của Lời Sấm Truyền là gì?”

Sau đó Annabeth làm một việc khiến tôi thực sự ngạc nhiên. Cô ấy chớp chớp ngăn dòng nước mắt và dang hai tay ra.

Tôi bước đến và ôm Annabeth. Sự lo lắng khiến dạ dày tôi thắt lại.

“Này, mọi chuyển... sẽ ổn thôi.” Tôi vỗ vào lưng cô ấy.

Tôi nhận rõ được mọi vật trong căn phòng. Tôi cảm thấy như tôi có thể đọc được hàng chữ nhỏ nhất in trên bất cứ quyển sách nào trên các giá sách. Mùi tóc của Annabeth giống như xà bông hương chanh. Cô ấy đang run rẩ

“Có thể bác Chiron đúng,” cô ấy thì thầm. “Tớ đang phạm luật. Nhưng tớ không biết phải làm gì khác. Tớ cần cả ba cậu. Tớ cảm thấy như thế mới ổn.”

“Vậy thì đừng lo lắng về điều đó nữa,” tôi nói. “Chúng ta đã từng có nhiều khó khăn, và chúng ta đã giải quyết được hết.”

“Lần này khác. Tớ không muốn có chuyện gì xảy ra với... bất kì ai trong các cậu.”

Có ai đó hắng giọng sau lưng tôi.

Đó là Malcom, một trong số những người anh em cùng mẹ của Annabeth. Mặt cậu ta đỏ lên. “Ừm, xin lỗi,” cậu ta nói. “Buổi luyện tập bắn cung đã bắt đầu, Annabeth. Bác Chiron bảo em đến gọi chị.”

Tôi buông Annabeth ra. “Bọn tớ chỉ đang nhìn các bản đồ,” tôi giải thích một cách ngu ngốc.

Malcom nhìn tôi chằm chằm. “Được rồi.”

“Nói với bác Chiron là chị sẽ có mặt ngay,” Annabeth nói, và Malcom vội vã bỏ đi.

Annabeth dụi mắt. “Cậu đi trước đi, Percy. Tớ phải chuẩn bị cho buổi luyện tập bắn cung.”

Tôi gật đầu và cảm thấy bối rối hơn bao giờ hết. Tôi muốn chạy nhanh ra khỏi đó... nhưng rồi tôi đã không làm thế.

“Annabeth?” tôi nói. “Về Lời Sấm Truyền của cậu. Cậu nói về hơi thở cuối cùng của người anh hùng...”

“Cậu băn khoăn là người anh hùng nào chứ gì? Tớ không biết.”

“Không, cái khác cơ. Tớ nghĩ câu cuối cùng thường vần với câu đằng trước nó. Nó nói về một điều gì đó – có phải nó kết thúc bằng từ cái chết không?”

Annabeth nhìn chằm chằm vào những cuộn giấy cổ. “Cậu nên đi đi, Percy. Hãy chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tìm kiếm. Tớ... tớ sẽ gặp cậu vào sáng mai.”

Tôi quay đi, bỏ lại Annabeth đang nhìn trân trân vào những chiếc bản đồ không rõ điểm đầu và điểm cuối. Nhưng tôi không thể rũ bỏ cảm giác rằng một trong số chúng tôi sẽ không sống sót trở về từ chuyến đi này.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.