Cuối cùng chúng tôi dừng lại ở một phòng đầy thác nước. Sàn nhà là một cái hố lớn bao quanh bởi một lối đi bộ bằng đá trơn. Trên bốn bức tường xung quanh chúng tôi, nước tuôn ra từ những đường ống khổng lồ. Nước chảy xuống cái hố mà ngay cả khi soi đèn vào tôi cũng không nhìn thấy đáy đâu cả.
Briares ngồi sụp xuống dựa vào bức tường. Khoảng một chục bàn tay của anh ta múc nước lên và rửa mặt. “Cái hố này nối thẳng đến Tartarus,” anh ta lẩm bẩm, “Có lẽ tôi nên nhảy xuống đó để tránh phiền toái cho mọi người.”
“Đừng nói như thế,” Anabeth nói với anh ta. “Anh có thể trở về trại với chúng tôi. Anh có thể giúp chúng tôi chuẩn bị. Anh biết rõ việc chiến đấu với các thần Titan hơn bất cứ ai mà.”
“Tôi không có gì để giúp các bạn cả, tôi đã mất tất cả.” Briares nói.
“Còn những người anh em của anh?” Tyson hỏi. “Hai người họ vẫn đứng vững như núi! em sẽ mang anh đến với họ.”
Sắc mặt Briares trở nên buồn bã hơn: khuôn mặt đau buồn của anh ta. “Họ không còn nữa. Họ đã tan biến đi.”
Các thác nước chảy ầm ầm. Tyson nhìn chằm chằm vào cái hố và nước mắt cậu rơi xuống.
“Chính xác thì anh muốn nói gì khi nói, họ đã tan biến đi? ” Tôi hỏi. “Tôi tưởng quái vật không chết, giống như các vị thần chứ.”
“Percy,” Grover nói một cách yếu ớt, “ngay cả sự trường sinh cũng có giới hạn. Đôi khi... đôi khi các con quái vật bị lãng quên và mất hết nghị lực để sống.”
Nhìn Grover, tôi băn khoăn có phải cậu ấy đang nghĩ đến thần Pan. Tôi nhớ đến một vài điều mà Medusa có lần đã nói với chúng tôi: các chị em của bà ta, hai nữ thần tóc rắn khác, đã chết và để lại bà ta một mình như thế nào. Sau đó, vào năm ngoái, thần Appollo cũng nói đến việc vị thần già nua Helios biến mất và để lại cho ông nhiệm vụ của thần mặt trời như thế nào. Tôi chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về điều này, nhưng giờ đây, nhìn Briares, tôi mới cảm nhận được sự kinh khủng khi phải sống tới hàng nghìn tuổi trong cảnh lạnh lẽo, cô đơn.
“Tôi phải đi,” Briares nói.
“Đội quân của Kronos sẽ chiếm trại, bọn em cần được giúp đỡ.” Tyson nói.
Briares cúi đầu xuống. “Anh không thể, Cyclops ạ.”
“Anh rất mạnh mà.”
“Không còn như vậy nữa rồi.” Briares đứng lên.
“Này,” tôi lôi một tay Briares và kéo anh ta sang một bên, nơi tiếng ầm ầm của thác nước át đi giọng nói của chúng tôi. “Briares, bọn em cần anh. Anh không thấy Tyson rất tin tưởng anh sao. Cậu ấy đã liều mạng vì anh.”
Tôi nói cho Briares mọi chuyện – kế hoạch xâm chiếm của Luke, lối vào Mê Cung ở trại, xưởng của Daedalus và chiếc quan tài bằng vàng của Kronos.
Briares chỉ lắc đầu. “Anh không thể, á thần ạ. Tay anh không chỉ có một cây súng ngón tay để thắng trong trò chơi này.” Và để minh chứng, anh ta làm một trăm khẩu súng bằng ngón tay.
“Có lẽ đó chính là lý do vì sao quái vật lại tan biến đi,” tôi nói. “Có lẽ không phải phụ thuộc vào việc người thường tin vào những gì. Mà có lẽ là do bọn anh đã tự mình bỏ cuộc mà thôi.
Đôi mắt toàn một màu nâu của Briares nhìn tôi. Khuôn mặt anh ta chuyển sang một sắc thái mà tôi có thể nhận ra – sự xấu hổ. Sau đó anh ta quay người lại và lê bước chậm chạp về phía cuối hành lang cho đến anh ta hoàn toàn chìm trong bóng tối.
Tyson khóc nức nở.
“Mọi việc sẽ ổn cả thôi,” Grover ngần ngại vỗ nhẹ vào vai Tyson, có lẽ Grover đã lấy hết can đảm để làm điều này.
Tyson hắt xì. “Không ổn tẹo nào, anh bạn dê. Briares là người anh hùng trong tớ.”
Tôi muốn giúp Tyson cảm thấy khá hơn, nhưng tôi không chắc nên nói gì.
Cuối cùng, Annabeth đứng lên và khoác ba lô lên vai. “Đi thôi nào mọi người. Cái hố này khiến tớ thấy căng thẳng. Hãy tìm một nơi thích hợp hơn để cắm trại qua đêm nay.”
***
Chúng tôi dừng lại ở một hành lang làm bằng những tảng đá cẩm thạch khổng lồ. Trông nó giống như một phần của một ngôi mộ Hy Lạp, với những giá đuốc bằng đồng được gắn vào tường. Chắc hẳn đây là phần lâu đời hơn của mê cung, và Annabeth quả quyết đây là một dấu hiệu tốt.
“Chúng ta hẳn phải ở rất gần xưởng của Daedalus rồi,” cô ấy nói. “Nghỉ ngơi nào mọi người. Chúng ta sẽ tiếp tục đi vào buổi sáng.”
“Làm sao chúng ta biết được khi nào trời sáng?” Grover hỏi.
“Cứ nghỉ ngơi đi,” Annabeth khăng khăng.
Grover chẳng cần được nhắc tới hai lần. Cậu ấy kéo ra một đống rơm từ ba lô, ăn một ít, rồi dùng chỗ còn lại làm gối, và ngay lập tức ngáy khò khò. Tyson khó ngủ hơn. Cậu ấy mày mò với những mẩu kim loại vụn trong túi dụng cụ một lúc, nhưng cho dù cậu ấy có đang làm gì đi chăng nữa, cậu ấy chẳng vui vẻ gì với nó. Chốc chốc cậu lại gỡ chúng ra.
“Anh xin lỗi đã làm mất tấm khiên,” tôi nói với Tyson. “Em đã rất vất vả để sửa nó.”
Tyson nhìn lên. Mắt cậu ấy đỏ ngầu vì khóc. “Đừng lo, anh trai. Anh đã cứu em. Đáng lẽ anh đã không phải làm thế nếu Briares chịu giúp.”
“Chỉ vì anh ta sợ thôi mà,” tôi nói. “Anh chắc anh ta sẽ vượt qua được thôi.”
“Anh ấy không còn mạnh mẽ nữa,” Tyson nói. “Anh ấy không còn quan trọng nữa.”
Tyson thở dài sườn sượt và nhắm mắt lại. Những mảnh kim loại rời rạc rơi khỏi tay cậu ấy, và Tyson bắt đầu ngáy.
Tôi cũng cố gắng ngủ nhưng không được. Việc bị một mụ rồng khổng lồ truy đuổi cùng các thanh kiếm có độc khiến tôi khó mà thoải mái được. Tôi vớ lấy túi ngủ của mình và lôi nó ra chỗ Annabeth đang ngồi canh gác.
Tôi ngồi xuống cạnh cô ấy.
“Cậu nên ngủ đi,” Annabeth nói.
“Không ngủ được. Cậu ổn chứ?”
“Chắc chắn rồi. Ngày đầu tiên dẫn đầu cuộc tìm kiếm. Thật tuyệt.”
“Chúng ta sẽ đến được đó,” tôi nói. “Chúng ta sẽ tìm thấy xưởng của Daedalus trước Luke.”
Annabeth đẩy những sợi tóc ra khỏi mặt mình. Có một vết bẩn trên cằm cô ấy, và tôi tưởng tượng ra hình ảnh cô ấy khi còn nhỏ, lang thang khắp đất nước với Thalia và Luke. Một lần cô ấy đã cứu họ khỏi nhà của một tên Cyclops độc ác khi chỉ mới bảy tuổi. Ngay cả khi cô ấy trông có vẻ sợ hãi, như hiện tại, tôi biết cô ấy rất dũng cảm.
“Tớ chỉ ước cuộc tìm kiếm hợp lý hơn một chút,” cô ấy than thở. “Ý tớ là, chúng ta đang đi nhưng lại không biết nơi chúng ta đang đến. Làm thế nào chúng ta có thể đi bộ từ New York đến California chỉ trong một ngày nhỉ?”
“Trong mê cung không gian đâu giống như ở ngoài.”
“Tớ biết, tớ biết. Chỉ là...” Annabeth nhìn tôi ngần ngại. “Percy, tớ đã tự đánh lừa bản thân mình. Tất cả kế hoạch và sách vở đã đọc chẳng giúp được gì, tớ chẳng biết chúng ta đang đi đâu nữa.”
“Cậu đang làm rất tốt mà. Hơn nữa, chúng ta sẽ không bao giờ biết chúng ta đang làm gì. Mọi việc luôn tốt đẹp mà. Cậu nhớ đảo Circe chứ?”
Annabeth cười ha hả. “Cậu đã là một con chuột lang dễ thương.”
“Và cả Waterland nữa, cậu làm thế nào khiến chúng ta khỏi miệng cống ở đó?”
“Tớ làm cho chúng ta bị ném ra khỏi miệng cống? Đó hoàn toàn là lỗi của cậu!”
“Thấy chưa? Mọi việc
Annabeth cười, một nụ cười khiến tôi rất vui mỗi khi nhìn thấy nó, nhưng nụ cười nhanh chóng vụt tắt.
“Percy này, ý của nữ thần Hera là gì khi bà ấy nói rằng cậu biết đường đi qua mê cung?”
“Tớ không biết,” tôi thú nhận. “Thật đấy.”
“Nếu cậu biết cậu sẽ nói cho tớ chứ?”
“Chắc chắn rồi. Có lẽ...”
“Có lẽ gì cơ?”
“Có lẽ nếu cậu nói cho tớ dòng cuối cùng của Lời Sấm Truyền, điều này sẽ có ích gì chăng.”
“Annabeth rùng mình. “Không phải ở đây. Không phải ở trong bóng tối.”
“Còn sự lựa chọn mà Janus nói đến thì sao? Nữ thần Hera đã nói...”
“Ngừng lại,” Annabeth ngắt lời, rồi hít một hơi trong run rẩy. “Tớ xin lỗi, Percy. Tớ thấy căng thẳng quá. Nhưng tớ không... Tớ phải suy nghĩ về điều đó.”
Chúng tôi ngồi trong im lặng, lắng nghe những tiếng kèn kẹt và rên rỉ trong mê cung, tiếng vọng của đá chạm vào nhau khi những đường hầm thay đổi, lớn dần lên và mở rộng. Bóng tối khiến tôi nghĩ đến những hình ảnh tôi đã nhìn thấy về Nico di Angelo, và đột nhiên tôi nhận ra một điều gì đó.
“Nico đang ở một nơi nào đó dưới này,” tôi nói. “Đó là cách cậu nhóc biến mất khỏi trại. Cậu ta đã tìm ra Mê Cung. Rồi cậu ấy đã khám phá ra được một con đường có thể dẫn cậu ấy xuống sâu hơn – đến Địa Ngục. Nhưng bây giờ cậu ta đã quay lại mê cung. Cậu ta đang đuổi theo tớ.”
Annabeth im lặng một hồi. “Percy, tớ hy vọng cậu nhầm. Nhưng nếu cậu nói đúng...” Cô ấy nhìn chằm vào ánh đèn pin tỏa bóng tròn mờ trên bờ tường đá. Tôi có cảm giác cô ấy đang nghĩ đến Lời Sấm Truyền của mình. Tôi chưa bao giờ thấy Annabeth mệt mỏi hơn thế.
“Tớ sẽ gác trước nhé?” Tôi nói. “Tớ sẽ đánh thức cậu nếu có chuyện gì xảy ra.”
Trông Annabeth có vẻ muốn phản đối, nhưng cô ấy chỉ gật đầu, nằm xuống túi ngủ và nhắm mắt lại.
Khi tới lượt tôi được ngủ, tôi mơ thấy mình quay trở lại với nhà tù trong mê cung của người đàn ông già.
Giờ thì trông nó giống như một cái xưởng hơn. Những cái bàn để đầy những dụng cụ đo lường. Một cái lò rèn cháy đỏ rực ở một góc. Cậu bé mà tôi nhìn thấy trong giấc mơ lần trước đang kéo bễ, nhưng giờ cậu ta đã cao hơn, và trạc tuổi tôi. Một cái ống khói kỳ dị được gắn vào ống khói của lò rèn, giữ lại tất cả khói và nhiệt, sau đó truyền chúng qua một cái ống dẫn xuống nền nhà, bên cạnh một cái nắp cống lớn bằng đồng.
Lúc này đang là ban ngày. Bầu trời trên đầu xanh ngắt, nhưng những bức tường trong mê cung đổ bóng xuống khắp xưởng. Sau khi đã ở trong đường hầm quá lâu, tôi thấy vô cùng ngạc nhiên vì một phần của đường hầm có thể thông với không gian bên ngoài. Điều đó khiến mê cung còn kinh khủng hơn nhiều.
Người đàn ông già trông vô cùng ốm yếu. Ông ấy gầy trơ xương, bàn tay gân guốc và đỏ lên vì làm việc quá độ. Mái tóc trắng rủ xuống che phủ cả mắt của ông, và chiếc áo tunic đầy dầu mỡ. Ông ấy đang cúi lom khom trên bàn và làm việc với một mảnh kim loại dài chắp vá – trông giống như mẫu vải áo giáp làm từ những vòng kim loại đan vào nhau. Ông nhặt một vòng kim loại mảnh dẻ bằng đồng lên và đặt vào đúng chỗ của nó.
“Xong,” ông nói như thông báo. “Nó đã được làm xong.”
Ông cầm sản phẩm lên. Nó đẹp đến nỗi làm tôi giật mình – một đôi cánh kim loại được tạo từ hàng ngàn chiếc lông vũ bằng đồng khóa lại với nhau. Có hai đôi như vậy. Một đôi vẫn đang nằm trên bàn. Daedalus trải rộng bộ cánh, và nó trải dài đến sáu mét. Tôi biết nó sẽ chẳng bao giờ bay được. Nó quá nặng, và sẽ không đời nào cất cánh khỏi mặt đất được. Nhưng tay nghề của ông ấy thật đáng kinh ngạc. Những chiếc lông vũ bằng đồng bắt ánh sáng và tỏa ra ba mươi luồng ánh sáng màu vàng khác nhau.
Cậu bé bỏ ống thổi xuống mà chạy đến xem. Cậu ta cười vui sướng, mặc dù cậu đang nhễ nhại mồ hôi và đầy bụi bẩn. “Cha! Cha đúng là một thiên tài!”
Người đàn ông già mỉm cười. “Hãy nói câu gì mà ta không biết ấy chứ, Icarus. Giờ thì nhanh lên. Phải mất ít nhất một tiếng mới gắn được nó lên đấy. Lại đây nào.”
“Cha trước đi,” Icarus nói.
Ông già không đồng ý, nhưng Icarus vẫn cứ khăng khăng: “Cha tạo ra chúng mà. Cho nên cha phải được vinh dự đeo nó trước.”
Cậu bé gắn bộ áo giáp da vào ngực cha cậu, trông giống như thiết bị leo núi, với những dây đai kéo từ hai vai đến cổ tay. Sau đó cậu bắt đầu buộc chúng vào đôi cánh, sử dụng một dụng cụ bằng kim loại trông như chiếc súng bắn keo nóng khổng lồ.
“Hỗn hợp sáp này chỉ có thể dính được trong một vài giờ,” Daedalus nói với vẻ lo lắng khi cậu con trai đang làm việc. “Chúng ta phải để nó khô trước. Và chúng ta phải tránh không bay quá cao hoặc quá thấp. Biển sẽ làm ướt mối nối bằng sáp...”
“Và sức nóng của mặt trời sẽ làm chúng tan chảy,” cậu bé nói chen vào. “Đúng, thưa cha. Chúng ta đã nói điều này hàng triệu lần rồi mà!”
“Cẩn thận cũng không thừa đâu con.”
“Con hoàn toàn tin tưởng vào những phát minh của cha! Chưa có ai trên đời này thông minh bằng cha.”
Mắt người đàn ông già sáng lên. Rõ ràng là ông ấy yêu con trai mình hơn bất cứ thứ gì trên đời. “Giờ cha sẽ đeo cánh cho con và cũng để đôi cánh của cha được khô nữa. Đến đây nào!”
Mọi việc chậm chạp diễn ra. Bàn tay của người đàn ông già lóng ngóng với những sợi dây. Ông ấy phải cố gắng lắm mới giữ được cho đôi cánh ở đúng vị trí để gắn chúng lại. Đôi cánh kim loại của chính ông dường như cũng đè nặng ông xuống, làm ông vướng víu khi ông cố làm việc.
“Chậm chạp quá,” người đàn ông già lẩm bẩm. “Cha chậm chạp quá.”
“Cứ từ từ thôi cha,” cậu bé nói. “Bọn lính canh chưa tới...”
BÙM!
Các cánh cửa ra vào của xưởng rung chuyển. Daedalus đã dùng một thanh giằng gỗ để chắn ở bên trong, nhưng các bản lề của chúng vẫn rung lên bần bật.
“Nhanh lên cha!” Icarus nói.
BÙM! BÙM!
Một cái gì đó rất nặng đang thúc vào cánh cửa. Cây chống vẫn giữ lại, nhưng một vết nứt xuất hiện ở cánh cửa bên trái.
Daedalus hối hả làm tiếp. Một giọt sáp nóng nhỏ vào vai Icarus. Cậu bé nhăn nhó nhưng không kêu lên. Khi chiếc cánh bên trái đã được đính vào quai, Daedalus chuyển sang cánh bên phải.
“Chúng ta cần có thêm thời gian,” Daedalus lẩm bẩm. “Chúng đến sớm quá! Chúng ta cần thêm thời gian để mối n*ng lại.”
“Sẽ ổn thôi,” Icarus nói trong khi cha cậu đang làm nốt cánh bên phải. “Giúp con mở nắp cống...”
R̀M! Cánh cửa vỡ tung thành từng mảnh và phần đầu bọc đồng của thanh gỗ phá cửa hiện ra qua lỗ thủng. Những cái rìu phá tung cánh cửa và hai tên lính được trang bị vũ khí bước vào phòng, theo sau là vị vua với vương miện bằng vàng và bộ râu nhọn có dáng ngọn mác.
“Nào, nào,” vị vua nói với nụ cười hung ác. “Đang định đi đâu à?”
Daedalus và con trai đứng như trời trồng, với đôi cánh bằng kim loại sáng lóa trên lưng họ.
“Chúng ta rời khỏi đây, Minos,” người đàn ông già nói.
Vua Minos cười khùng khục. “Ta rất tò mò muốn xem ngươi tiến bộ như thế nào với công trình nhỏ bé này trước khi ta bóp nát hy vọng của ngươi. Phải nói là ta rất ấn tượng đấy.”
Vị vua nhìn những cái cánh với vẻ mặt đầy ngưỡng mộ. “Trông các ngươi như những con gà kim loại ấy,” ông ta nói. “Có lẽ chúng ta nên vặt hết lông và dùng các ngươi làm món súp.”
Những tên lính canh ngu ngốc cũng bắt chước cười theo.
“Những con gà kim loại,” một gã lặp lại. “Súp.”
“Câm mồm,” vị vua nói. Rồi sau đó ông ta quay sang Daedalus. “Ngươi để con gái ta chạy trốn, lão già. Ngươi làm cho vợ ta phát điên. Ngươi giết con quái vật của ta và biến ta thành trò cười cho bọn dân Địa Trung Hải. Ngươi sẽ không bao giờ thoát khỏi tay ta đâu!”
Icarus vớ khẩu súng bắn sáp và phụt vào vị vua, hắn giật mình lùi lại. Mấy tên lính canh lao lên, nhưng mỗi tên đều bị bắn sáp nóng vào mặt.
“Lỗ thông khí!” Icarus hét to với cha.
“Bắt lấy chúng!” Vua Minos ra lệnh.
Người đàn ông già và cậu con trai cùng nhau mở nắp cống, và một cột hơi nóng phụt lên mặt đất. Vị vua đứng nhìn, đầy ngờ vực, khi thấy nhà phát minh và con trai ông bay lên không trung cùng với đôi cánh bằng đồng trên lưng nhờ dòng khí nóng.
“Bắn chúng!” vị vua hét lên, nhưng lính của hắn chẳng ai mang theo cung tên cả. Một gã ném mạnh thanh kiếm của mình lên trong tuyệt vọng, nhưng Daedalus và Icarus đã ra ngoài tầm với. Họ bay một ng phía trên mê cung và cung điện của nhà vua, sau đó bay qua thành phố của Knossos và vượt qua bờ biển đầy đá của Crete.
Icarus cười lớn. “Tự do rồi, cha ơi! Cha đã làm được.”
Cậu bé xoải cánh hết mức có thể và để gió đẩy mình đi.
“Chờ đã!” Daedalus gọi. “Cẩn thận đấy!”
Nhưng Icarus đã bay ra ngoài biển lớn, thẳng tiến về phía bắc và cười sung sướng vì sự may mắn của họ. Cậu bé bay lên và dọa một con chim đại bàng khiến nó chệch đường bay, rồi lao thẳng xuống mặt biển như thể cậu sinh ra để bay, ngừng động tác bổ nhào đó ở những giây cuối cùng. Đôi xăng đan của cậu lướt trên các con sóng.
“Dừng lại!” Daedalus gọi với theo. Nhưng gió đã thổi bạt cả tiếng nói của ông. Con trai ông đang say trong tự do của cậu.
Người đàn ông già cố gắng đuổi theo, bay vụng về đằng sau cậu bé.
Họ đã bay cách đảo Crete hàng dặm và ra tít ngoài khơi, thì Icarus ngoái đầu lại và nhìn thấy nét mặt lo lắng của cha mình.
Icarus mỉm cười. “Đừng lo cha ơi! Cha là một thiên tài! Con tin tưởng những gì do tay cha làm ra...”
Chiếc lông kim loại đầu tiên lỏng ra, rơi khỏi chiếc cánh và bay đi. Rồi một chiếc khác. Icarus loạng choạng giữa không trung. Đột nhiên những chiếc lông bằng đồng đồng loạt rơi ra, và bay xa khỏi cậu như một đàn chim bay đang hoảng sợ.
“Icarus!” người cha hét lên. “Hãy lượn đi! Dang rộng cánh ra. Giữ cho cơ thể con bất động càng tốt!”
Nhưng Icarus vung vẫy hai tay mình trong nỗ lực tuyệt vọng kiểm soát đôi cánh.
Cánh bên trái là cánh đầu tiên bị xé toạc khỏi những sợi dây đai và rơi xuống nước.
“Cha ơi!” Icarus la lên. Và rồi cậu rơi xuống, đôi cánh bị xé toạc dần dần cho đến khi trên cơ thể cậu chỉ còn sót lại một đống dây dợ và một chiếc áo tunic trắng, hai tay cậu sải rộng trong một nỗ lực bay lượn đầy vô vọng.
Tôi giật mình tỉnh dậy với cảm giác như thể tôi đang rơi xuống. Hành lang vẫn tối tăm. Trong tiếng rên rỉ xa xa của Mê Cung, tôi nghĩ tôi có thể nghe thấy tiếng kêu khóc thống thiết của Daedalus, vì Icarus là niềm vui duy nhất của ông đã rơi thẳng xuống mặt biển, sáu mươi
Trong mê cung chúng tôi không thể biết khi nào là buổi sáng, nhưng khi mọi người thức dậy và ăn một bữa sáng ngon lành với những thanh ngũ cốc và các hộp nước hoa quả, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình. Tôi không nói gì về giấc mơ của mình. Có một điều gì đó về giấc mơ khiến tôi hoảng sợ, và tôi nghĩ rằng những người khác không cần biết về nó.
Những đường hầm bằng đá cũ chuyển thành một nơi không được sạch sẽ lắm với các thanh dầm bằng gỗ tuyết tùng, như một mỏ vàng hoặc cái gì đó tương tự. Annabeth bắt đầu bối rối.
“Không đúng,” cô ấy nói. “Đáng lẽ nó vẫn phải là đá chứ.”
Chúng tôi vào một cái hang đầy thạch nhũ rủ xuống thấp từ trần hang. Ở giữa nền hang là một cái hố hình chữ nhật, trông như một ngôi mộ.
Grover run rẩy. “Ở đây có mùi như là mùi Địa Ngục ấy.”
Sau đó tôi thấy một vật gì đó phát sáng ở miệng hố – một miếng giấy nhôm. Tôi chiếu đèn pin vào cái hố và thấy một chiếc bánh hamburger pho mát bị ăn dở đang nổi lềnh bềnh trong đống bùn có màu mâu carbonat.
“Nico,” tôi nói. “Cậu ta lại gọi hồn người chết.”
Tyson rên rỉ. “Những con ma đang ở đây. Em không thích chúng.”
“Chúng ta phải tìm ra cậu ta.” Tôi không biết tại sao, nhưng đứng bên miệng hố này khiến tôi có cảm giác cấp bách. Nico đang ở gần đây. Tôi cảm thấy được điều này. Tôi không thể để cậu ta lang thang dưới này một mình cùng với người chết. Và tôi bắt đầu chạy.
“Percy!” Annabeth gọi theo.
Tôi cúi người chạy nhanh vào một đường hầm và trông thấy ánh sáng ở phía trước. Khi Annabeth, Tyson và Grover đuổi kịp tôi, tôi chỉ đứng nhìn trân trân vào ánh sáng ban ngày đang chiếu qua một loạt thanh xà trên đầu tôi. Chúng tôi đứng dưới một tấm lưới thép làm bằng những ống kim loại. Tôi có thể nhìn thấy cây và bầu trời xanh trong ở phía trên.
“Chúng ta đang ở đâu đây?” Tôi tự hỏi.
Sau đó một cái bóng phủ khắp cái lưới và một con bò cúi xuống nhìn chằm chằm vào tôi. Nó trông như một con bò bình thường trừ màu lông rất lạ – màu đỏ tươi như một quả anh đào. Tôi chưa bao giờ biết bò lại có mà
Con bò rống lên, ngập ngừng đặt một cái móng lên tấm lưới, sau đó bỏ đi.
“Đây là tấm lưới ngăn gia súc,” Grover nói.
“Cái gì cơ?” tôi hỏi.
“Người ta đặt nó ở cửa nông trại vì thế những con bò không thể ra ngoài. Chúng không đi được trên các tấm lưới này.”
“Sao cậu biết điều đó?”
Grover gắt lên đầy phẫn nộ. “Tin tớ đi, nếu cậu có móng guốc, cậu sẽ biết về cái này. Chúng rất đáng ghét!”
Tôi quay sang Annabeth. “Chẳng phải nữ thần Hera đã nói gì đó về một nông trại sao? Chúng ta cần kiểm tra xem sao. Nico có thể đang ở đó.”
Annabeth ngần ngại. “Được rồi, nhưng chúng ta thoát ra bằng cách nào bây giờ?”
Tyson giải quyết vấn đề này bằng cách đập hai tay vào tấm lưới ngăn gia súc. Nó bật ra và văng đi đâu mất. Chúng tôi nghe thấy một tiếng KENG! và tiếng “Ụm bò!” do giật mình. Mặt Tyson đỏ lên.
“Xin lỗi, bò!” cậu ấy kêu lên.
Sau đó Tyson nâng chúng tôi lên khỏi đường hầm.
Thật ra thì chúng tôi hiện đang ở trong nông trại. Những quả đồi trải rộng tới đường chân trời, điểm xuyết một vài cây sồi, xương rồng và đá cuội. Một hàng rào dây thép gai từ cổng chạy theo hai hướng. Những con bò màu anh đào đang nhởn nhơ gặm cỏ xung quanh.
“Gia súc đỏ,” Annabeth nói. “Gia súc của mặt trời.”
“Chúng là bò thần của thần Apollo.”
“Bò thần ư?”
“Chính xác. Nhưng chúng đang làm gì...”
“Đợi đã,” Grover nói. “Nghe đi!”
Đầu tiên mọi thứ đều yên ắng... nhưng sau đó tôi nghe thấy tiếng chó sủa từ đằng xa. m thanh đó ngày càng trở nên lớn hơn. Rồi có tiếng sột soạt trong bụi cây, và hai con chó nhảy ra. Nhưng đó không phải là hai con chó – nó là một con chó hai đầu. Trông nó như một con chó săn thỏ với thân hình dài, cong và có một màu nâu mượt mà, nhưng cổ nó mọc ra hai cái đầu, và cả hai cái đều đang gầm gừ, hằm hè và nhìn chung là không vui vẻ gì k chúng tôi.
“Con chó của Janus xấu xa!” Tyson kêu lên.
“Gâu!” Grover nói với nó và giơ một tay lên chào.
Con chó hai đầu nhe răng ra với Grover. Tôi đoán nó chẳng thấy gì ấn tượng về việc Grover có thể nói chuyện với động vật. Sau đó chủ của con chó ì ạch đi ra khỏi rừng, và tôi nhận ra con chó chỉ là phần nhỏ nhất trong những gì chúng tôi sắp phải đối mặt.
Anh ta là một tay cao bồi to lớn với mái tóc bạc hoàn toàn, đội một cái mũ rơm dành cho cao bồi, và râu cũng màu trắng nốt, kiểu như Thần Thời Gian, nếu Thần Thời Gian biến thành một anh chàng da trắng nghèo nàn và đang say thuốc. Anh ta mặc quần jeans và một cái áo phông có hàng chữ Đừng lôi thôi với Texas và một cái áo khoác denim không tay để lộ cơ bắp. Trên bắp tay bên phải có một hình xăm hai thanh kiếm bắt chéo. Anh ta cầm một cây dùi cui có kích thước bằng đầu tên lửa hạt nhân, với những chiếc gai nhọn dài 15cm ở đầu.
“Nằm xuống, Orthus,” anh ta nói với con chó.
Con chó gầm gừ với chúng tôi một lần nữa như để tỏ thái độ rõ ràng, sau đó đi vòng tròn quanh chân ông chủ. Người đàn ông nhìn lên nhìn xuống trong khi vẫn lăm lăm cây dùi cui trong tay.
“Chúng ta có gì đây nhỉ?” anh ta hỏi. “Ăn trộm gia súc ư?”
“Chỉ là du khách thôi,” Annabeth trả lời. “Chúng tôi đang đi làm nhiệm vụ.”
Mắt anh ta nheo lại. “Các con lai à?”
Tôi bắt đầu nói, “Sao anh biết...”
Annabeth chạm vào cánh tay tôi. “Tôi là Annabeth, con gái nữ thần Athena. Đây là Percy, con thần Poseidon, thần rừng Grover và Tyson...”
“Cyclops,” người đàn ông kết thúc câu nói của Annabeth. “Đúng vậy, ta có thể thấy được điều đó.” Anh ta quắc mắt nhìn tôi. “Ta biết các ngươi là con lai bởi ta cũng thế, nhóc con. Ta là Eurytion, người chăn bò ở trang trại này. Ta là con trai thần Ares. Các ngươi cũng đi qua Mê Cung như người kia, ta cho là thế.”
“Người kia?” Tôi hỏi. “Ý anh là Nico di Angelo?”
“Chúng ta nhìn thấy rất nhiều khách đến từ Mê Cung,” Eurytion nói một cách mơ hồ. “Và không mấy ai có thể rời khỏi đây.”
“Òa,” tôi nói. “Tôi thấy mình được chào đón nồng hậu đấy chứ.”
Anh chàng chăn bò liếc ra phía sau lưng mình như có ai đang theo dõi. Sau đó anh ta hạ giọng. “Ta chỉ nói một lần này thôi, các á thần. Quay lại mê cung ngay. Trước khi quá muộn.”
“Chúng tôi không đi đâu cả,” Annabeth khăng khăng. “Cho đến khi chúng tôi trông thấy á thần kia. Làm ơn!”
Eurytion làu bàu. “Vậy cô đã không cho ta sự lựa chọn nào khác. Ta phải đưa các ngươi đến gặp ông chủ.”
Tôi không có cảm giác chúng tôi là con tin hay cái gì tương tự. Eurytion đi bên cạnh chúng tôi với cây dùi cui trên vai. Con chó hai đầu Orthus gầm gừ suốt, ngửi chân Grover và thỉnh thoảng lại bắn nhanh vào các bụi cây để đuổi theo con gì đó, nhưng Eurytion ít nhiều vẫn kiểm soát nó.
Chúng tôi đi xuôi xuống một con đường đất mà dường như cứ kéo dài vô tận. Nhiệt độ lên gần 39 độ C, đúng là một cú sốc sau San Francisco. Hơi nóng bốc lên từ mặt đất. Côn trùng kêu rì rầm trên cây. Chưa đi được bao xa thì tôi đã đổ mồ hôi như tắm. Ruồi bâu xung quanh chúng tôi. Trên đường, cứ thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy một bãi quây đầy bò đỏ và những con vật còn kỳ lạ hơn thế. Chúng tôi đã băng qua một bãi quây được bao bọc bằng amiăng. Bên trong là một đàn ngựa phun lửa. Cỏ khô trong máng của chúng đang bốc cháy. Đất bốc khói quanh chân chúng, những con ngựa có vẻ được thuần hóa. Một con ngựa giống nhìn tôi và hí lên, những cột lửa đỏ rực cuồn cuộn từ mũi nó phun ra. Tôi băn khoăn liệu như vậy nó có đau xoang mũi không nhỉ.
“Chúng được nuôi làm gì vậy?” tôi hỏi.
Eurytion cau có. “Chúng tôi nuôi cho nhiều khách hàng khác nhau. Thần Apollo, thần Diomedes, và... những người khác nữa.”
“Là ai ạ?”
“Không hỏi nữa.”
Cuối cùng chúng tôi cũng ra khỏi rừng. Ở trên một ngọn đồi bên trên chúng tôi là một ngôi nhà trệt lớn – được làm từ đá trắng, gỗ và các cửa sổ lớn.
“Trông như một công trình của Frank Lloyd Wright(11)ấy!” Annabeth thốt lên.
Tôi đoán cô ấy đang nói về một thứ gì đó liên quan đến kiến trúc. Với tôi, nó giống một nơi có thể gây rắc rối cho một vài á thần hơn. Chúng tôi bắt đầu leo lên đồi.
“Không được phá cảnh báo khi chúng tôi leo bậc thềm dẫn đến mái hiên trước. “Không đánh nhau. Không sử dụng vũ khí. Và không được bình luận về vẻ ngoài của ông chủ.”
“Tại sao?” tôi hỏi. “Trông ông ta như thế nào?”
Trước khi Eurytion kịp trả lời, một giọng nói lạ cất lên, “Chào mừng đến Nông trại BA G.”
Người đàn ông đứng ở mái hiên có một cái đầu bình thường, thật là nhẹ cả người. Mặt ông ta dãi dầu mưa nắng và rám nắng do nhiều năm ở dưới ánh nắng mặt trời. Ông ta có mái tóc đen bóng và bộ ria con kiến đen như những nhân vật phản diện trong các bộ phim xưa. Ông ta mỉm cười với chúng tôi, nhưng đó không phải là nụ cười thân thiện; mà là một nụ cười thích thú, kiểu như Ồ trời, lại có thêm nhiều người nữa để tra tấn đây!
Mặc dù vậy, tôi không mất nhiều thời gian suy nghĩ, bởi ngay sau đó tôi chú ý đến cơ thể ông ta... không, là những cơ thể của ông ta. Ông ta có ba cơ thể. Các bạn có thể nghĩ rằng tôi đã quen với những cơ thể kì lạ sau khi gặp Janus và Briares, nhưng người đàn ông này có đến ba cơ thể hoàn chỉnh. Cổ ông ta gắn với ngực ở giữa một cách bình thường, nhưng ông ta có thêm hai bộ ngực nữa, nối vào hai vai, cách phần ngực giữa chỉ một vài phân. Tay trái của ông ta mọc ra từ ngực trái, và tay phải từ ngực phải, như vậy ông ta có hai tay nhưng tới bốn nách, nếu điều đó mang lại một ý nghĩa nào đó. Cả ba bộ ngực đều nối với một thân mình đồ sộ, hai chân bình thường nhưng rất lực lưỡng, và ông ta mặc một chiếc quần jeans hiệu Levis cỡ lớn nhất tôi từng thấy. Mỗi bộ ngực mặc một cái áo phông khác nhau – xanh lá cây, vàng, đỏ – trông như đèn hiệu giao thông. Tôi băn khoăn về cách ông ta mặc áo cho bộ ngực ở giữa, bởi không có cánh tay nào mọc ra từ đó cả.
Anh chàng chăn bò Eurytion huých vào tôi. “Hãy chào ngài Geryon đi.”
“Xin chào,” tôi nói. “Ngực đẹp đấy – woa, nông trại! Ông có một nông trại thật tuyệt!”
Trước khi người đàn ông có ba cơ thể kịp trả lời, Nico di Angelo bước ra từ cửa kính đi ra mái hiên. “Geryon, ta sẽ không đợi...”
Nico sững lại khi nhìn thấy chúng tôi. Sau đó cậu ta rút kiếm ra. Lưỡi kiếm giống như cái tôi đã nhìn thấy trong giấc mơ: ngắn, sắc, và đen như bóng đêm.
Geryon hầm hè khi nhìn thấy thanh kiếm. “Cất nó đi, cậu di Angelo. Tôi sẽ không để các vị khách của mình chém giết lẫn nhau“Nhưng đó là...”
“Percy Jackson,” Geryon nói. “Annabeth Chase. Và hai người bạn quái vật của họ. Ta biết.”
“Những người bạn quái vật ư?” Grover lặp lại đầy phẫn nộ.
“Ông kia đang mặc ba chiếc áo phông,” Tyson nói, như thể cậu ấy chỉ vừa mới nhận ra điều này.
“Chúng đã để chị gái tôi chết!” Giọng của Nico run lên vì giận dữ. “Chúng đến đây để giết tôi!”
“Nico, bọn anh không đến đây để giết em.” Tôi đưa hai tay lên. “Những gì đã xảy ra với Bianca là...”
“Không được gọi tên chị ấy! Ngươi thậm chí không xứng đáng để nói về chị ấy!”
“Chờ một phút.” Annabeth chỉ vào Geryon. “Sao ông biết tên chúng tôi?”
Người đàn ông có ba cơ thể nháy mắt. “Việc của ta là cần phải biết rõ mọi việc, cô bé ạ. Thỉnh thoảng lại có một số người xuất hiện thình lình ở nông trại. Mọi người đều cần một cái gì đó từ lão Geryon này. Giờ thì, cậu di Angelo, cất thanh kiếm xấu xí đó đi trước khi ta gọi Eurytion tước nó khỏi tay cậu.”
Eurytion thở dài, nhưng vẫn nâng cây dùi cui đầy gai lên. Dưới chân anh ta, con Orthus cất tiếng gầm gừ.
Nico do dự. Trông cậu ta gầy và xanh hơn so với cậu ấy trong bức thông điệp Iris. Tôi băn khoăn liệu cậu ta có ăn uống gì suốt tuần qua hay không. Bộ quần áo đen bám đầy bụi từ việc đi lại trong Mê Cung, và đôi mắt đen đầy rẫy sự hận thù. Cậu ta còn quá trẻ để trông có vẻ giận dữ đến vậy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh của đứa trẻ vui vẻ chơi với những quân bài ma thuật.
Cậu nhóc miễn cưỡng tra kiếm vào vỏ. “Percy, nếu ngươi dám lại gần ta, ta sẽ gọi người giúp đỡ. Ngươi sẽ không muốn gặp những người giúp đỡ ta đâu, ta hứa đấy.”
“Anh tin mà,” tôi nói.
Geryon vỗ vào vai Nico. “Đấy, ổn cả rồi. Đi nào, mọi người. Tôi muốn mọi người đi thăm một vòng quanh nông trại.”
Geryon có chiếc xe điện – giống một trong số những chiếc tàu tí hon đưa bạn đi vòng quanh vườn thú. Nó được sơn màu đen và trắng với họa tiết da bò. Người lái xe có một cặp sừng dài gắn trên capo, và tiếng còi xe nghe như tiếng chuông đeo ở cổ bò vậy. Tôi nghĩ có thể đây là cách ông ta hành hạ mọi người. Ông ta làm người ta xấu hổ đến chết khi đi dạo quanh trên một chiếc xe có hình dáng một con bò.
Nico ngồi tụt lại ở ghế sau cùng, để có thể canh chừng chúng tôi. Eurytion bò vào ngồi bên cạnh cậu ta với chiếc dùi cui đầy gai và kéo cái mũ cao bồi qua mắt như thể đang tranh thủ chợp mắt một lát. Con Orthus nhảy vào đằng trước ngồi cạnh Geryon và hai cái đầu bắt đầu cùng nhau sủa một cách vui vẻ.
Annabeth, Tyson, Grover và tôi ngồi vào hai hàng ghế giữa.
“Chúng tôi là một doanh nghiệp khổng lồ!” Geryon khoe khoang khi chiếc xe hình con bò lắc lư tiến về trước. “Phần lớn là ngựa và gia súc, nhưng còn có tất cả các loài kỳ dị khác nữa.”
Chúng tôi băng qua một ngọn đồi, và Annabeth há hốc miệng kinh ngạc, “Hippalektryon ư? Tôi tưởng chúng đã tuyệt chủng rồi!”
Dưới chân đồi là một bãi cỏ được rào chắn, bên trong có khoảng một chục con vật kì lạ nhất mà tôi từng thấy. Phần đầu của chúng là ngựa và phần sau là gà trống. Chân sau của chúng là những móng vuốt màu vàng khổng lồ. Chúng có lông đuôi và cánh màu đỏ. Tôi trông thấy hai con đang đánh nhau để tranh giành một đống hạt. Chúng đứng bằng chân sau, hí lên và đập cánh vào nhau đến khi con nhỏ hơn chịu thua chạy đi với đôi chân sau hơi khập khiễng.
“Kê mã bé nhỏ,” Tyson thốt lên đầy ngạc nhiên. “Chúng có đẻ trứng không?”
“Mỗi năm một lần!” Geryon cười toét miệng trong gương chiếu hậu. “Người ta rất thích lấy trứng này làm món ốp lết đấy!”
“Kinh khủng!” Annabeth kêu lên. “Hẳn là chúng sắp bị tuyệt chủng!”
Geryon vẫy tay. “Vàng là vàng chứ cô bé. Và cô bé cũng chưa nếm thử món ốp lết mà.”
“Nhưng điều đó không đúng,” Grover lẩm bẩm, nhưng Geryon tiếp tục thuyết trình chuyến đi.
“Giờ thì ở đằng kia,” ông ta nói, “chúng ta có những con ngựa phun lửa, có lẽ mọi người đã nhìn thấy trên đường vào trang trại. Đương nhiên, chúng được nhân giống để dùng trong chiến tranh.”
“Chiến tranh nào?” Tôi hỏi.
Geryon cười toét miệng một cách quỷ quyệt. “À, bất cứ cuộc chiến tranh nào xảy ra. Và ở đằng xa kia, tất nhiên là những con bò đỏ quý giá.”
Phải rồi, hàng trăm con bò màu anh đào đang gặm cỏ ở sườn đồi.
“Nhiều quá,” Grover nói.
“Đúng vậy, ừm, thần Apollo quá bận để chăm lo cho chúng,” Geryon giải thích, “vì thế ngài ấy đã trao việc đó cho chúng tôi. Chúng tôi nuôi dưỡng cho chúng thật mạnh khỏe vì người ta cũng có nhu cầu.”
“Về điều gì?”
Geryon nhướn mày. “Tất nhiên là thịt! Quân đội cần ăn thịt.”
“Ông giết những con bò thiêng của thần mặt trời để làm món thịt cho món bánh hamburger sao?” Grover nói. “Như vậy là phạm vào các điều luật cổ.”
“Đừng tức giận như vậy, thần rừng. Chúng chỉ là động vật thôi mà.”
“Chỉ là động vật!”
“Phải, và nếu Apollo quan tâm, hẳn là ông ta đã lên tiếng rồi.”
“Nếu ông ta biết được điều đó,” tôi lẩm bẩm.
Nico chồm người lên phía trước. “Tôi không quan tâm đến những điều này, Geryon. Chúng ta có chuyện cần bàn, và không phải là những thứ này.”
“Còn sớm mà, cậu di Angelo. Nhìn ra đằng này này: một vài trò chơi tuyệt vời của ta.”
Cánh đồng tiếp theo được bọc dây thép gai, nơi những con bọ cạp khổng lồ bò lổm ngổm trên cả một vùng rộng lớn.
“Nông Trại Ba G,” tôi nói, và đột nhiên nhớ đến một điều gì đó. “Dấu hiệu của ông có trên những cái thùng ở trại. Quintus đã lấy những con bọ cạp từ chỗ ông.”
“Chưa bao giờ nghe về ông ta,” Geryon nói. “Nào, bây giờ là những chuồng ngựa quý giá của ta! Các bạn phải thấy chúng!”
Tôi không cần trông thấy chúng, bởi ngay khi chúng tôi đến gần trong khoảng cách gần ba trăm mét, tôi đã ngửi thấy mùi của chúng. Gần bờ của một con sông màu xanh lục là một bãi quây ngựa có kích cỡ một sân bóng. Các chuồng ngựa nằm về một bên. Khoảng một trăm con ngựa đang ăn trên một đống phân chuồng – và khi tôi nói là phân chuồng, ý tôi là phân ngựa. Đó là thứ đáng ghê tởm nhất mà tôi từng thấy, giống như một một cơn bão phân vừa đi qua và để lại một lượng hơn một mét những thứ bẩn thỉu này chỉ trong một đêm. Những con ngựa thực sự gớm guốc khi lội qua đó, và những cái chuồng ngựa cũng tệ không kém. Bạn không thể tin được nó bốc mùi nồng nặc như thế nào – còn kinh hơn những con thuyền chở rác trên Sông Đông.
Ngay cả Nico cũng nôn khan. “Cái gì đấy?”
“Chuồng ngựa của ta!” Geryon nói. “À, thực ra chúng thuộc về Aegeas, nhưng chúng ta trông chừng chúng và được trả một khoản phí nhỏ hàng tháng. Chúng không đáng yêu sao?”
“Chúng thật tởm lợm!” Annabeth nói.
“Nhiều phân quá,” Tyson nhìn và nói.
“Sao các người có thể nuôi gia súc kiểu như thế này?” Grover kêu lên.
“Các cậu đang làm ta phát cáu đấy,” Geryon nói. “Chúng là ngựa ăn thịt, hiểu không? Chúng thích sống như thế này!”
“Hơn nữa, ngài quá keo kiệt nên không muốn thuê người rửa chuồng cho chúng,” Eurytion lẩm bẩm bên dưới cái mũ của anh ta.
“Im ngay!” Geryon gắt lên. “Được rồi, có lẽ những chuồng ngựa thế này hơi khó rửa sạch. Có lẽ chúng cũng khiến ta buồn nôn khi gió thổi ngược chiều. Nhưng thế thì có sao? Khách hàng của ta vẫn trả ta hậu hĩnh.”
“Khách hàng nào?” Tôi hỏi.
“Ồ, cậu sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu người muốn trả tiền để có một con ngựa ăn thịt. Chúng là những cái máy nghiền rác tuyệt vời. Một cách hay để dọa nạt kẻ thù. Rất tuyệt trong các bữa sinh nhật! Chúng được thuê thường xuyên đấy.”
“Ông đúng là quỷ dữ,” Annabeth kết luận.
Geryon cho dừng chiếc xe bò lại và quay sang nhìn Annabeth. “Cái gì đã nói lên điều đó? Là ba cơ thể ư?”
“Ông phải thả những con vật này ra,” Grover nói. “Làm thế này là không đúng!”
“Và những khách hàng mà ông khoe khoang,” Annabeth nói. “Ông làm việc cho Kronos đúng không? Ông cung cấp cho quân đội của Kronos ngựa, thịt, và bất kỳ cái gì họ cần.”
Geryon nhún vai. Điều này thật kì dị bởi ông ta có đến ba đôi vai. Trông như ông ta đang tự mình làm những đợt sóng. “Ta làm việc cho người nào có tiền, quý cô ạ. Ta là một thương nhân. Và ta bán cho họ bất kì cái gì ta có để bán.”
Ông ta trèo ra khỏi chiếc xe và đi bộ đến chỗ chuồng ngựa như để hít thở không khí trong lành. Đáng lẽ đó đã là một khung cảnh đẹp, với dòng sông, những quả đồi, cây xanh, nếu không có bãi lầy phân ngựa kia.
Nico ra khỏi phía sau xe và nhào đến chỗ Geryon. Tay chăn bò Eurytion thực sự không buồn ngủ như vẻ ngoài. Hắn nhấc cây dùi cui lên và theo sau Nico.
“Tôi đến đây có việc, Geryon,” Nico nói. “Và ông chưa trả lời tôi.”
“Ừm,” Geryon ngắm nghía tỉ mỉ một cây xương rồng. Cánh tay trái của ông ta với ra và gãi ngực giữa. “Phải, chúng ta sẽ thỏa thuận, được rồi.”
“Con ma của tôi nói rằng ông có thể giúp. Hắn nói ông có thể dẫn chúng tôi đến linh hồn chúng tôi cần.”
“Đợi một chút,” tôi nói. “Tôi tưởng tôi là linh hồn cậu cần.”
Nico nhìn tôi như một kẻ tâm thần. “Ngươi? Tại sao ta lại cần ngươi? Linh hồn của Bianca đáng giá gấp ngàn lần linh hồn của ngươi! Giờ thì, Geryon, ông có giúp tôi được hay không?”
“Ồ, ta nghĩ là ta có thể,” tên chủ nông trại nói. “Nhân đây, con ma bạn cậu, nó đâu rồi?”
Nico tỏ vẻ khó chịu. “Hắn ta không thể hiện hình dưới ánh sáng ban ngày. Điều đó rất khó. Nhưng hắn chỉ ở quanh đây thôi.”
Geryon cười. “Ta chắc là vậy. Minos thích biến mất khi mọi việc trở nên... khó khăn.”
“Minos?” Tôi nhớ lại người đàn ông tôi trông thấy trong giấc mơ, với một chiếc vương miện vàng, râu nhọn, và ánh mắt độc ác. “Ý cậu là ông vua tàn bạo đó ư? Đó là con ma đã cho cậu lời khuyên à?”
“Không phải việc của ngươi, Percy!” Nico quay lại phía Geryon. “Và ý ông là gì khi nói mọi việc khó khăn hơn?”
Người đàn ông có ba cơ thể thở dài. “À, cậu thấy đấy, Nico – ta gọi cậu là Nico được chứ?”
“Không.”
“Cậu thấy đấy, Nico, Luke Castellan đã treo thưởng rất nhiều tiền để lấy mạng các á thần. Đặc biệt là các á thần có sức mạnh. Và ta chắc rằng khi hắn ta biết được bí mật nh của cậu, rằng cậu thật sự là ai, thì hắn ta sẽ trả rất, rất hậu hĩnh đấy.”
Nico rút kiếm ra, nhưng Eurytion đập nó rơi khỏi tay cậu ta. Trước khi tôi kịp đứng lên, con Orthus vồ lấy ngực tôi và gầm gừ, hai cái đầu của nó chỉ cách mặt tôi có vài phân.
“Nếu là các cậu, tôi sẽ ngồi nguyên trong xe,” Geryon cảnh cáo. “Nếu không con Orthus sẽ xé toạc họng của Jackson ra đấy. Giờ thì, Eurytion, phiền cậu vui lòng, giam Nico lại.”
Gã chăn bò nhổ nước bọt xuống bãi cỏ. “Tôi phải làm như vậy sao?”
“Đúng vậy, thằng ngốc ạ!”
Eurytion trông có vẻ chán chường, nhưng anh ta quàng một bàn tay lớn qua người Nico và nhấc bổng cậu ta lên như một tên đô vật.
“Nhặt cả thanh kiếm lên nữa,” Geryon nói với vẻ ghê tởm. “Chẳng có thứ gì khiến ta ghét hơn là thép lấy từ sông Styx.”
Eurytion nhặt thanh kiếm lên, cẩn thận để không chạm vào lưỡi của nó.
“Giờ thì,” Geryon hồ hởi, “chúng ta đã kết thúc chuyến thăm nông trại. Bây giờ sẽ quay về nhà nghỉ, ăn trưa và gửi một thông điệp Iris đến những người bạn trong đội quân Titan của chúng ta.”
“Ông là quỷ sứ!” Annabeth kêu lên.
Geryon cười với cô ấy. “Đừng lo, cô gái trẻ yêu quý ạ. Một khi ta giao ra di Angelo, cô và đám bạn mình có thể đi. Ta không can thiệp vào các cuộc tìm kiếm. Hơn nữa, ta được trả hậu hĩnh để mọi người đi qua đây an toàn, nhưng ta e là giao dịch đó không kèm theo phần cậu Angelo.”
“Ai trả tiền cho ông?” Annabeth nói. “Ý ông là gì?”
“Không có gì hết, cô gái ạ. Chúng ta đi thôi chứ?”
“Đợi đã!” Tôi nói, và con Orthus thì gầm ghè. Tôi ngồi bất động để tránh việc nó sẽ xé toạc cổ họng tôi. “Geryon, ông nói ông là một thương nhân. Cùng tôi giao kèo nhé!”
“Ngài có thể bảo cậu ta quét dọn chuồng ngựa.” Eurytion gợi ý một cách “hồn
“Tôi sẽ làm việc này!” tôi nói. “Nếu tôi thất bại, ông được tất cả chúng tôi. Ông có thể bán chúng tôi cho Luke lấy vàng.”
“Cứ cho là lũ ngựa sẽ không ăn thịt cậu,” Geryon nhìn quanh.
“Dù thế nào ông cũng đã có những người bạn của tôi rồi,” tôi nói. “Nhưng nếu tôi thành công, ông phải thả tất cả chúng tôi, kể cả Nico.”
“Không!” Nico hét lên. “Ta không cần ngươi làm ơn làm phước, Percy. Ta không cần ngươi giúp!”
Geryon cười khùng khục. “Percy Jackson, những chuồng ngựa kia không được cọ rửa hàng ngàn năm nay rồi... mặc dù đúng là ta có thể có bán được nhiều không gian hơn trong chuồng ngựa nếu tất cả đống phân kia được dọn đi.”
“Vậy ông có gì để mất nào?”
Lão chủ trang trại ngập ngừng. “Được rồi, ta chấp nhận lời đề nghị của cậu, nhưng cậu phải làm xong trước khi mặt trời lặn. Nếu cậu thất bại, bạn cậu sẽ bị bán, và ta sẽ trở nên giàu có.”
“Xong!”
Ông ta gật đầu. “Ta sẽ mang các bạn cậu về nhà nghỉ. Chúng ta sẽ đợi ở đó.”
Eurytion ném cho tôi một cái nhìn hài hước. Đó có thể là sự cảm thông. Hắn huýt sáo, và con Orthus nhảy khỏi người tôi rồi leo lên đùi Annabeth. Cô ấy la lên oai oái. Tôi biết Tyson và Grover sẽ chẳng dám làm gì chừng nào Annabeth còn là con tin.
Tôi ra khỏi xe và khóa mắt với cô ấy một lúc.
“Tớ hy vọng cậu biết mình sẽ làm gì,” cô ấy nói khẽ.
“Tớ cũng hy vọng như thế.”
Geryon ngồi sau vô lăng. Eurytion lôi Nico vào ghế sau.
“Trước khi mặt trời lặn,” Geryon nhắc lại với tôi. “Không được muộn hơn.”
Ông ta cười với tôi một lần nữa, bấm chiếc còi có âm điệu như tiếng chuông lục lạc trên cổ bò và chiếc xe bò rầm rầm chạy xuống khỏi con đường mòn.