Phương pháp sử dụng đan dược để làm cho pháp lực tiến triển nhanh chóng, thậm chí có ý dùng cấp bậc thánh dược nghịch thiên, có thể tiến triển cảnh giới ngày ngàn dặm.
Tuy nhiên phương pháp này sẽ dẫn đến tình trạng là khi pháp lực đạt đến một trình độ nhất định, lúc đó hiệu dụng của đan dược này cũng dần mất tác dụng.
Bởi vì, đan dược sẽ có tác dụng thúc đẩy và cải tạo cơ thể để hấp thu linh lực một cách nhanh chóng. Đến một giai đoạn phát triển nào đó, tác dụng của đan dược giúp tu sĩ thu nạp linh khí ngang bằng với tốc độ hấp thụ tự nhiên của tu sĩ.
Lúc đó, nói một cách khác, đan dược dần dần mất hiệu quả, trừ phi sử dụng thêm linh đan phụ trợ khác.
Đây cũng chính là nguyên nhân Hàn Lập sử dụng đan dược của Trúc Cơ Kỳ không có tác dụng cho Kết Đan Kỳ.
Có điều trước đây, phải vượt qua một cảnh giới thì tình huống này mới xuất hiện. Nhưng bây giờ còn chưa tiến vào Nguyên Anh Kỳ mà đan dược đã mất đi tác dụng.
Đây chính là vấn đề mà Hàn Lập trước đó không tính đến
Bởi vì, bất kể là các sách cổ hay ghi chú tâm đắc của các tu sĩ Nguyên Anh Kỳ đều nói, sử dụng Yêu đan cấp sáu để luyện chế đan dược sẽ không mang lại tác dụng gì. Nhưng sử dụng Yêu đan cấp bảy làm đan dược thì kể cả trước khi ngưng kết Nguyên Anh vẫn có tác dụng, mặc dù có thể hiệu dụng quả thực giảm sút rất nhiều.
Điều này nhất thời làm cho Hàn Lập có cảm giác kỳ lạ.
Hắn cẩn thận suy xét, cũng chỉ sử dụng thêm đan dược một lần nữa nhưng cũng không thấy có tác dụng.
Chắc hẳn vấn đề đáng ngờ này liên quan tới việc uống Bích Diễm Tửu hoặc việc thu được Thông Linh khí với Mai Ngưng ngày nào.
Hai thứ này, một cái bản chất không phải là thứ để con người dùng, một cái là một trong bảy tinh túy của thế gian. Do đó một chút di chứng cũng là bình thường.
Hàn Lập không có ý định truy tìm nguyên nhân tại sao đan dược mất đi tác dụng.
Bởi vì chuyện cũng đã xảy ra rồi, không có cách nào thay đổi được nữa, hắn không muốn phí phạm sức lực cho việc vô ích.
Hắn bắt đầu xem xét cách khác.
Trong tay hiện đang có một yêu đan cấp tám của Độc Giao Yêu, nhưng vật này không phải cứ dùng linh thạch mà mua được, chính vì thế hắn không nỡ luyện chế thành đan dược. Bởi vì tỷ lệ thất bại trong luyện đan là rất lớn, hơn nữa cho dù luyện chế thành thì cũng chỉ được một đến hai hoàn đan dược cũng không đủ số lượng cần thiết.
Như vậy, cũng như các tu sĩ khác, hắn cũng không còn cách nào khác là phải dựa vào chính khổ tu của mình để đạt tới cảnh giới mới. Đã lâu lắm rồi hắn không trải nghiệm loại tu luyện với tốc độ của sên này.
Hàn Lập ngẫm nghĩ tới đó không khỏi cười khổ.
Cũng may, hôm nay tu vi của hắn đã gần tới cảnh giới viên mãn, nếu linh khí dồi dào thì mười năm tu luyện cũng đạt tới đích. Bởi lý do đó, hắn phải tìm một chỗ tốt để tu luyện mới được.
Nếu linh khí ít ỏi sẽ dẫn đến thời gian tu luyện dài hơn. Hàn Lập tự nhiên không muốn làm một việc xuẩn ngốc như vậy.
Nhưng nói đến chỗ có linh mạch, Thiên Nam và Loạn Tinh Hải có chút bất đồng.
Loạn Tinh Hải là vùng có diện tích vô cùng lớn, người ít đảo nhiều. Các đảo có linh mạch nhiều không kể xiết. Ngược lại, Thiên Nam là vùng có số lượng người đông chen chúc mà diện tích thì cũng có giới hạn.
Nói là giới hạn nhưng diện tích cũng không nhỏ. Tuy nhiên, không cần nói linh khí ít ỏi mà chỉ cần tồn tại linh mạch đã có các đại môn phái hoặc các gia tộc tu sĩ chiếm hết không sót lại địa điểm nào.
Thậm chí các địa điểm linh khí quá kém còn sót lại cũng bị các tán tu chiếm lấy làm chỗ tu luyện. Về căn bản là không tồn tại nơi có linh khí mà chưa có chủ.
Về tài nguyên linh khí để tu tiên, thật lòng mà nói giới tu tiên của Thiên Nam còn lâu mới bằng vùng Loạn Tinh Hải!
Từ đó suy ra, Hàn Lập chỉ có con đường trà trộn vào các gia tộc tu sĩ hoặc các môn phái để tiếp tục con đường tu luyện của mình.
Tất nhiên bằng khả năng của mình, Hàn Lập có thể đánh chiếm các vị trí có linh mạch của các gia tộc tu tiên hoặc các môn phái nhỏ. Nhưng nếu làm vậy sẽ gây sự chú ý của các Nguyên Anh Kỳ tu sĩ.
Hàn Lập quả thực không thể chịu nổi phiền toái cả ngày bị người truy đuổi, mà chỉ muốn một lòng ngưng kết Nguyên Anh mà thôi.
Sau khi cân nhắc một hồi, Hàn Lập từ bỏ ý định chọn các gia tộc tu sĩ.
Bởi vì bằng lực lượng của một gia tộc không thể nào mà chiếm được vùng có linh mạch tốt. Hơn nữa, gia tộc tu sĩ luôn chỉ lấy đệ tử trong tộc, người ngoài đơn giản là không thể chen chân vào.
Các môn phái tu tiên thì khác hẳn, đặc biệt là các môn phái lớn, chẳng những chiếm cứ chỗ có linh mạch tốt mà số lượng môn đồ đông đảo. Hơn nữa, trong tông cũng có rất nhiều tu sĩ cấp cao, nếu xảy ra chuyện gì thì cũng không cần đến sự lộ diện của Hàn Lập làm bại lộ tu vi và dẫn đến sự chậm trễ tu luyện của bản thân. Hắn hoàn toàn có thể nương nhờ bóng mát để chăm chú cho việc tu luyện.
Mà khi đã ngưng kết được Nguyên Anh thì lúc đó cũng chẳng phải e ngại chuyện gì. Biết đâu với thân phận lúc đó các tông phái không phải trăm phương nghìn kế để lôi kéo hắn cùng hợp tác chứ dại gì gây thù chuốc oán với một tu sĩ Nguyên Anh Kỳ.
Cứ như vậy, Hàn Lập ôm ý tưởng muốn chọn cho mình môn phái ở nơi có nhiều linh khí nhất. Xuất hiện ngay trong đầu Hàn Lập chính là thánh mạch "Vân Mộng Sơn", nơi hiện tại đang được ba môn phái tu tiên lớn cư ngụ, linh khí của vùng này nổi tiếng nhất cả Thiên Nam, thậm chí khi còn ở Việt Quốc, Hàn Lập cũng đã nghe tiếng.
Để gia nhập vào một trong ba môn phái này, Hàn Lập đương nhiên phải so sánh đặc thù và quan hệ của từng môn phái.
Nói đến chỗ này, nhân tiện phải nhắc tới, từ lúc Hàn Lập còn ở một tiểu phường thị cho tới lúc đến tu tiên giới Thiên Nam cũng đã gần một trăm năm rồi.
Lúc đó, Hàn Lập và hai chị em Tử Linh đang còn chưa rời nhau, cùng nhau thu thập thông tinh tình báo. Dù sao so sánh với Hàn Lập, hai chị em Tử Linh còn quen thuộc các thế lực của Thiên Nam hơn nhiều.
Bây giờ thế cục Thiên Nam đã có biến đổi rất lớn so với khi Hàn Lập rời đi rồi.
Đầu tiên, không còn lấy ranh giới của quốc gia làm nơi phân chia các thế lực. Thiên Nam lúc này cả ma đạo, chính đạo, Thiên Đạo Minh và cả Cửu Quốc Minh cùng tồn tại và thống trị Thiên Nam.
Chính đạo, ma đạo và Cửu Quốc Minh thì trước đây Hàn Lập đã biết. Nhưng Thiên Đạo Minh thì mới thành lập sau khi Hàn Lập đã đến Loạn Tinh Hải. Đó là do tu sĩ của mười mấy quốc gia liên minh lại thành lập lực lượng để đối chọi với hai tổ chức ma giáo và chính giáo. So sánh về mặt thế lực của chánh đạo hay ma đạo thì liên minh này lớn hơn, nhưng nếu chính giáo và ma giáo liên kết lại thì tổ chức này dĩ nhiên không phải là đối thủ.
Mặc dù trước đây chính giáo và ma giáo hợp tác âm thầm thôn tính các quốc gia xung quanh, nhưng quan hệ vẫn như lửa với nước, tuy đã có hợp tác nhưng không cách nào phối hợp được
Mà trong nội bộ chính ma hai đạo cũng có những xung đột mới về lợi ích, chính vì vậy mà không lâu sau đã tập trung vào tranh chấp lẫn nhau dẫn đến không còn tâm trí gây khó dễ cho Thiên Đạo Minh.
Về phần Thiên Đạo Minh, chỉ là một liên minh lỏng lẻo, các thế lực ma giáo và chính giáo không chủ động công kích thì họ cũng chẳng mong gì hơn.
Chứ đừng nói để họ chủ động công kích đối phương, dường như cũng không đủ lực.
Vì vậy, ba thế lực này đạt được một trạng thái cân bằng xảo diệu.
Có điều sự cân bằng này tồn tại hơn một trăm năm qua không có đại chiến nào phát sinh là còn có quan hệ đến thế lực lớn còn lại – Cửu Quốc Minh.
Cửu Quốc Minh ngoại trừ các tu sĩ của bảy phái Việt Quốc ban đầu thành lập nên, còn có không ít các tông phái nhỏ và các tán tu đã bị hai đạo ma giáo và chính giáo xua đuổi, gia nhập vào làm cho thế lực phát triển mạnh lên không ít. Cứ tưởng rằng với thế lực như vậy, Cửu Quốc Minh có thể đè bẹp được các Pháp sĩ của Mạc Lan bộ lạc.
Nhưng không biết do ý trời hay thuần túy chỉ là sự trùng hợp.
Mạc Lan bộ lạc giằng co đã lâu với Cửu Quốc Minh bỗng nhiên nhận được tiếp viện đến từ các tộc Mạc Lan đệ nhị và Mạc Lan đệ tứ, số lượng các Pháp sĩ đã tăng lên gấp bội.
Hai bên đánh nhau ngày càng kịch liệt, sau mỗi trận đại chiến, cả đôi bên đều rất nhiều tu sĩ phải tử trận. Cửu Quốc Minh lúc này đang ở vào thế bị áp đảo, thậm chí một vài vùng lãnh thổ đã bị cướp đi.
Bất đắc dĩ, Cửu Quốc Minh phát ra tín hiệu cầu cứu các thế lực còn lại đồng thời uy hiếp, nếu các thế lực còn lại không cho người tham chiến cùng thì bọn họ lập tức bỏ mặc cuộc chiến để các pháp sĩ của Mạc Lan tự do tiến vào lãnh thổ.
Sau khi nghe được tin tức này, ba thế lực còn lại mặc dù không tình nguyện nhưng cũng biết để các pháp sĩ Mạc Lan tiến vào thì cuộc sống của họ cũng không yên ổn được, đành phải cử các nhân thủ đến tăng viện cho Cửu Quốc Minh.
Cuối cùng phải sau một cuộc đại chiến quyết định, hơn ngàn tu sĩ tử trận mới có thể ngăn chặn được cuộc tiến công của các pháp sĩ Mạc Lan, ổn định lại tình hình.
Có điều kể từ đó, Cửu Quốc Minh cũng yêu cầu các thế lực khác phải thay phiên phái tu sĩ của mình để chống đỡ các cuộc tấn công của các pháp sĩ Mạc Lan. Chứ nếu không, một nhà thì hết sức chống đỡ, các nhà khác thảnh thơi thoải mái thì chẳng ai chịu cả.
Vì vậy, trải qua một thời gian dài hiệp thương, bốn thế lực rốt cuộc đã đạt được hiệp nghị, để Cửu Quốc Minh làm chủ, ba nhà còn lại cùng nhau giúp đỡ đối kháng lại Mạc Lan.
Cũng bởi vì sự tồn tại của hiệp nghị này, hơn trăm năm qua, bất kể các kết quả phân chia địa bàn chánh ma đạo trước đây như thế nào, nhưng do sự uy hiếp của người Mạc Lan với Cửu Quốc Minh nên cũng không dám tranh đấu nhau nữa.
Về phần Khê quốc và hai quốc gia lân cận đều là phạm vi của Thiên Đạo Minh.
Mà Cổ Kiếm Môn, Lạc Vân Tông, Bách Xảo, thậm chí còn chính là trung tâm của thế lực đó.