Lúc hoàng hôn, Ly Nô đã nấu xong bữa tối và bảo Nguyên Diệu lên lầu gọi Bạch Cơ xuống ăn cơm.
Nguyên Diệu bỏ cuốn sổ xuống lên lầu gọi Bạch Cơ nhưng không thấy nàng trong phòng ngủ, kho chứa hay phòng tạp vật, không biết nàng đã đi đâu.
Nguyên Diệu gãi đầu, cảm thấy kỳ lạ. Chiều nay hắn bận rộn ở sảnh chính, không thấy Bạch Cơ ra ngoài.
Nguyên Diệu có hơi lo lắng.
Ly Nô lại nói: "Không sao đâu, chủ nhân lớn như thế sao có thể bị lạc được? Nàng ấy chắc chắn có việc gì đó, chúng ta ăn trước. Mọt sách đi gọi con rái cá ngừng khóc, ăn cơm xong hãy tiếp tục khóc." Nguyên Diệu vào trong gọi A Y, con rái cá ngồi khóc suốt buổi chiều bên bàn ngọc xanh.
Nguyên Diệu, Ly Nô và A Y ngồi dưới mái hiên trong sân ăn cơm tối. Sau bữa ăn, Ly Nô dọn dẹp bát đũa trong bếp, A Y đứng trong sân nhìn cỏ héo ngây người, Nguyên Diệu lo lắng cho Bạch Cơ lại lên lầu tìm vài lần nhưng không thấy nàng về.
Trời dần tối, đến giờ thắp đèn, Nguyên Diệu cầm đóm lửa, thắp đèn đồng bảy lá trong phòng.
Ánh đèn lay động, Nguyên Diệu quay đầu lại thì thấy Bạch Cơ từ cầu thang đi xuống.
Nguyên Diệu cười nói: "Bạch Cơ về rồi. Chiều nay ngươi đi đâu vậy?"
Bạch Cơ cười nói: "Ta đi Địa phủ hái hoa Hoàng Tuyền."
Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Ngươi hái hoa Hoàng Tuyền làm gì?"
Bạch Cơ đi đến bên cạnh Nguyên Diệu, ngồi xuống, nói: "Tối nay sẽ dùng đến."
Nguyên Diệu nói: "Thường thì ngươi đi Địa phủ hái hoa Hoàng Tuyền, cùng lắm chỉ mất một canh giờ là về, sao hôm nay lâu vậy?"
Bạch Cơ thở dài và nói: "Đừng nhắc nữa. Ta hái xong hoa Hoàng Tuyền ở bờ sông Tam Đồ, tiện đường đến Miên Xuyên Tân nhờ Quỷ Hoa Nương làm phấn từ hoa Hoàng Tuyền. Ai ngờ đám quỷ xanh của Quỷ Hoa Nương làm được nửa chừng thì đình công đòi tăng lương để về quê ăn Tết. Quỷ Hoa Nương không đồng ý tăng lương, chúng bèn cãi nhau không ai làm việc nữa. Ta cần gấp hoa Hoàng Tuyền, không thể chờ đành tự mình làm nên mới tốn thời gian..."
Nguyên Diệu mở to miệng, ngạc nhiên nói: "Quỷ xanh về quê ăn Tết? Quỷ hồn cũng về quê ăn Tết sao?!"
Bạch Cơ nói: "Quỷ hồn cũng có quê hương. Mỗi dịp lễ Tết chúng cũng về thăm quê thăm người thân và con cháu của chúng..."
"...Thôi được. Bạch Cơ đã ăn tối chưa?"
"Bận cả buổi chiều, chưa ăn gì."
"Ly Nô để phần bữa tối cho ngươi ở trong bếp, để ta đi lấy cho."
"Được."
Trăng lên cao, mây xoáy mỏng nhẹ.
Bạch Cơ triệu hồi ba con ngựa trời từ trong "Bách Mã Đồ," chuẩn bị cùng Nguyên Diệu và A Y ra ngoại thành.
A Y có hơi khó xử, chân của nó chưa lành hẳn sau cú ngã, dù đã bôi thuốc Bồ Đề giảm bớt đau đớn nhưng việc cưỡi ngựa đi lại vẫn có phần khó khăn. A Y nhìn ngựa trời, do dự nói: "Bạch Cơ, phải cưỡi ngựa đi sao? Chân đau thì không sao, ta chỉ sợ sẽ ngã xuống..."
Bạch Cơ chưa kịp trả lời, Ly Nô đã tự nguyện nói: "Chủ nhân để Ly Nô đi cùng. Ly Nô sẽ cưỡi ngựa cùng con rái cá này, đảm bảo nó không ngã xuống."
A Y nhìn Ly Nô với vẻ khó chịu, không muốn cùng cưỡi một ngựa với Ly Nô nhưng việc cứu đồng tộc quan trọng hơn nên nó đành cắn răng gật đầu.
Bạch Cơ thấy A Y không phản đối, cũng đồng ý để Ly Nô đi cùng: "Rất tốt."
Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: "Ly Nô, bình thường ngươi lười ra ngoài, không thích đi đêm với Bạch Cơ, sao hôm nay lại tình nguyện ra ngoài?"
Ly Nô xoa tay, cười nói: "Hề hề, ta chưa từng thấy xưởng lột da nên muốn đi xem cho biết."
Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh.
A Y nghe vậy thì giận dữ muốn cãi nhau với Ly Nô, nhưng nghĩ đến việc cứu đồng tộc bèn nhẫn nhịn.
Bạch Cơ cưỡi ngựa đi trước, Nguyên Diệu vội vã theo sau.
A Y còn đang do dự không biết lên ngựa trời thế nào, Ly Nô đã không nói lời nào bế nó lên và cùng leo lên ngựa.
Ba con ngựa trời đón gió mọc ra đôi cánh, bay lên bầu trời đêm.
Ly Nô gặp A Y trên đường đi mua than ở núi Chung Nam, nên trang viên Tam Đông Các chắc chắn nằm ở ngoại ô tây nam Trường An. Ba con ngựa trời theo ánh trăng mờ ảo, lướt qua đêm đông tĩnh lặng, bay qua một trăm mười phường đi về phía tây nam.
Vì sợ A Y ngã xuống, Ly Nô một tay giữ dây cương một tay giữ chặt A Y trong lòng. Mặt A Y lúc xanh vì tức, lúc đỏ vì ngại, ngựa chạy nhanh khiến nó khó thở nhưng nó vẫn nhẫn nhịn.
Nguyên Diệu quay đầu lại, kinh ngạc nói: "Ly Nô muốn siết chết A Y sao? Thả lỏng một chút đi."
Ly Nô nói: "Đêm đông gió lớn, rái cá này lại trơn bóng, không giữ chặt sợ nó rơi xuống. Mọt sách yên tâm, ta có chừng mực."
Nguyên Diệu đành nói: "A Y, ngươi hãy nhẫn nhịn một chút, sắp ra khỏi thành rồi." A Y gật đầu.
Ba con ngựa trời bay lên ra khỏi cổng An Hóa đến ngoại thành.
Dưới sự chỉ dẫn của A Y, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đến một trang viên nằm trong núi.
Nguyên Diệu nhìn từ trên cao xuống thì thấy trang viên quay mặt về hướng nam, diện tích rất rộng, có ba khu: trái, giữa và phải. Hai khu trái phải ở phía trước, bố trí tương tự, đều có sân lớn và dãy nhà thông nhau, chắc là xưởng chế biến động vật. Khu giữa nhỏ hơn lùi về phía sau, có một vòng nhà xếp theo hình chữ Tỉnh còn có một sảnh và sân sau. Hai khu trái phải tối om, khu giữa có đèn sáng ở các phòng bên và sân sau.
Khu trang viên Tam Đông Các, hai khu trái phải là xưởng lột da, phòng bên khu giữa là nơi ở của thợ, sảnh và nội viện là nơi chủ nhân ở khi đến trang viên. Từ đèn sáng có thể thấy xưởng đã ngừng làm việc, thợ đang nghỉ ngơi trong phòng bên. Sân sau cũng có đèn chứng tỏ ông chủ Ngu cũng ở đây tối nay.
Ba con ngựa trời hạ cánh, im lặng.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và A Y xuống ngựa, đứng trước cổng lớn của trang viên Tam Đông Các.
Cổng trang viên đóng chặt, không có đèn.
Trong gió đêm, lờ mờ nghe thấy tiếng thú vật rên rỉ và kêu than.
Bạch Cơ hỏi: "A Y, đồng tộc của ngươi bị giam ở khu trái hay khu phải?" A Y nhắm mắt, lắng nghe.
Một lát sau, A Y mở mắt, buồn bã nói: "Cả hai bên rất nhiều. Chúng dường như mới đến, ít nhất hai trăm con rất sợ hãi, tuyệt vọng và rất yếu..."
Bạch Cơ nói: "Vậy thì đi khu phải trước rồi sang khu trái."
Nguyên Diệu hỏi: "Bạch Cơ định làm gì?"
Bạch Cơ nói: "Tất nhiên là lợi dụng trời tối để lẻn vào trang viên, mở lồng rồi thả rái cá đi."
Nguyên Diệu nghĩ một lúc, nói: "Đó chẳng phải là trộm cắp sao? Ngươi nên tìm ông chủ Ngu, mua lại rái cá rồi thả đi."
"Hiên Chi điên rồi sao? Mua lại tất cả rái cá, tốn bao nhiêu bạc đây?!"
"Những rái cá này là tài sản của ông chủ Ngu, chúng ta lén thả đi là trộm cắp đấy! Trộm cắp trái với lời dạy của Thánh nhân."
Bạch Cơ mắt sáng lên, nói: "Phật tổ nói, trời có đức hiếu sinh. Dù nói trộm cắp là sai nhưng người và phi nhân đều có lòng trắc ẩn. Hiên Chi tối nay hãy tạm gác Thánh nhân lại và nghe theo Phật tổ."
Nguyên Diệu đang do dự, Bạch Cơ đã bước về phía cổng trang viên.
Lần này, Bạch Cơ không để Ly Nô vào trước mở cổng cũng không cần thư sinh trèo tường, ngươi giơ tay phải chạm vào cổng lớn đóng chặt.
Một ngọn lửa vàng đỏ bùng lên cổng sắt lập tức tan chảy, dần biến thành tro rồi tan vào đêm tối hóa thành hư vô.
Nguyên Diệu cúi đầu suy nghĩ một lúc mới nhận ra. Không đúng lời của Thánh nhân và Phật tổ không mâu thuẫn không cần phải chọn một. Không trộm cắp cũng có thể có lòng trắc ẩn, mua rái cá thả đi là được, con rồng ki bo này cãi lý quanh co lừa hắn vào bẫy để không phải tốn bạc.
Nguyên Diệu ngẩng đầu định tiếp tục tranh luận với Bạch Cơ, đúng lúc thấy cổng sắt trang viên trong tay Bạch Cơ tan chảy thành tro, lòng hắn chợt lạnh, từ bỏ ý định tranh luận tiếp.
Bạch Cơ bước vào trang viên rẽ sang khu phải.
Ly Nô và A Y cũng theo sau.
Nguyên Diệu vội vàng theo kịp.
Trang viên Tam Đông Các là nơi giết mổ động vật, lột da và chế biến da thuộc, cũng là nơi thợ may vá da lông thành áo khoác. Thông thường, da thu mua từ thợ săn ở các nơi là sản phẩm bán thành phẩm rất ít khi có động vật sống. Nhưng năm nay, ông chủ Ngu muốn bán nhiều áo lông rái cá, rái cá rất nhạy cảm, chế biến đòi hỏi công đoạn tỉ mỉ, thợ săn xử lý vụng về không được nên phải vận chuyển động vật sống đến, để thợ chuyên nghiệp xử lý.
Thời gian đã rất muộn, những người thợ bận rộn cả ngày đã vào phòng bên nghỉ ngơi, không ai ở lại hai xưởng để canh gác. Bạch Cơ đẩy cửa gỗ hờ của khu vườn bên phải.
Dưới ánh trăng, trong sân có hơn mười sợi dây treo ngang qua từ đầu này đến đầu kia, trên đó treo dày đặc những tấm da rái cá đẫm máu. Một mùi tanh của máu xộc vào mặt, pha lẫn hương thơm kỳ lạ của hoa sen nước.
Nguyên Diệu rùng mình rồi cảm thấy buồn bã. Ly Nô mở to mắt, có lẽ vì đồng cảm với đồng loại, trong mắt nó thoáng qua một tia buồn bã. A Y toàn thân run rẩy, gần như đứng không vững. Ly Nô vội đỡ lấy nó.
A Y chỉ vào xưởng không xa, giọng run run nói: "Đồng tộc của ta đều bị nhốt ở trong đó, ta cũng trốn ra từ đó, bên trong chất đầy lồng sắt."
Sắc mặt Bạch Cơ bình tĩnh, nói: "Đi thôi, chúng ta đi cứu đồng tộc của ngươi." Bạch Cơ đi về phía xưởng, Ly Nô và A Y cũng vội vàng theo sau.
Nguyên Diệu cũng muốn đi theo. Bạch Cơ quay đầu lại, nói: "Hiên Chi không cần vào xưởng, ở lại đây."
Nguyên Diệu hỏi: "Tại sao phải để ta ở lại đây?"
Bạch Cơ mắt dịu dàng, nói: "Ngươi ở lại đây giúp chúng ta canh gác, lỡ có người tới, ngươi hô to một tiếng. Dù sao ăn trộm cũng cần một người canh gác."
Nguyên Diệu hiểu, Bạch Cơ không muốn hắn thấy cảnh tượng máu me như địa ngục trong xưởng, sẽ khiến hắn gặp ác mộng và buồn bã trong thời gian dài.
Nguyên Diệu gật đầu, nói: "Được. Các ngươi cẩn thận."
Bạch Cơ, Ly Nô và A Y cùng đi về phía xưởng.
Những tấm da rái cá đẫm máu đung đưa theo gió như bóng ma từ vực sâu địa ngục, chúng kêu than đau đớn, rít lên giận dữ, tràn đầy oán hận với loài người.
Nguyên Diệu đứng trong sân, lòng rất đau khổ.
"Tiểu huynh đệ..."
Một giọng nam trầm vang lên.
Bỗng có người nói, Nguyên Diệu giật mình, vội vàng nhìn quanh.
"Đừng nhìn xung quanh nữa là gọi ngươi đấy, tiểu huynh đệ."
Nguyên Diệu hoảng hốt, nghĩ là bị thợ trong trang viên phát hiện, định kêu lên để báo cho Bạch Cơ.
"Đừng kêu! Sẽ làm kinh động đám côn đồ tàn nhẫn kia, không… là loài người." Giọng nam vội nói.
Nguyên Diệu nghe vậy, vội ngậm miệng. Làm kinh động loài người? Chẳng lẽ người nói chuyện không phải là loài người?!
"Ngươi là ai? Ngươi ở đâu thế?" Nguyên Diệu hỏi.
"...Ta ở ngay bên cạnh ngươi, tiểu huynh đệ, ngươi nhìn sang bên trái nhìn kỹ một chút, dưới tường viện có một cái lồng sắt, ta ở trong đó."
Nguyên Diệu nhìn theo, quả nhiên thấy dưới tường viện bên trái có một cái lồng sắt lớn. Vì cái lồng nằm trong bóng tối của tường viện, không nhìn kỹ thì không thấy.
Nguyên Diệu đi tới cái lồng sắt, bên trong tối om không nhìn rõ có gì.
"Tiểu huynh đệ, ta thấy ngươi trông hiền lành khác với đám người tàn nhẫn kia. Ngươi và các bạn vừa nói chuyện, ta đều nghe thấy, dù sao các ngươi cũng đến cứu rái cá thế thì hãy tiện tay mở lồng này, thả cho ta một con đường sống." Nguyên Diệu nghe vậy lại nhìn cái lồng sắt, biết người nói chắc cũng là động vật chờ bị lột da. Có lẽ là một con rái cá bị nhốt bên ngoài?
Nguyên Diệu cúi đầu nhìn vào lồng sắt, vì ánh sáng tối om nên chỉ thấy một bóng đen, không thấy có động vật.
"Ngươi thực sự ở trong lồng sao? Sao ta không thấy ngươi? Ta có thể mở lồng nhưng ít nhất cũng phải biết ngươi là gì chứ?"
Giọng nam vội nói: "Ta ở trong lồng. Tiểu huynh đệ, đừng mãi cúi đầu tìm, ngẩng đầu lên nhìn."
Nguyên Diệu ngẩng đầu.
Vừa lúc mặt trăng trượt ra khỏi mây đen, thay đổi góc chiếu sáng bức tường và cái lồng sắt.
Một con gấu nâu khổng lồ đang đứng trong lồng sắt, cúi đầu nhìn Nguyên Diệu.
Gấu nâu cao hơn hai mét, thân hình vạm vỡ, vai lưng uốn cong, lông dày màu nâu đen như thép. Đầu nó to lớn, tai nhỏ, mắt sáng rực, miệng lộ ra hai chiếc răng nanh sắc nhọn.
"Ôi trời ơi…" Nguyên Diệu hoảng sợ, lùi lại.
Lúc này, bên xưởng có tiếng động.
Một đàn rái cá từ xưởng chạy ra, mắt chúng lấp lánh niềm vui sướng vì thoát chết, vội vàng chạy trốn.
Rái cá lần lượt chạy qua Nguyên Diệu, có con nhảy tường, có con yếu ớt không đủ sức nhảy tường bèn chạy qua cửa gỗ và cổng lớn để thoát thân.
Bộ lông rái cá dưới ánh trăng lấp lánh như nước, chúng chạy qua, tụ lại thành dòng sông sự sống, đẹp đẽ vô cùng.
Gấu nâu thấy rái cá chạy thoát, vội nói: "Tiểu huynh đệ, thả ta một con đường sống! Đám người tàn nhẫn kia sẽ mổ lấy mật gấu còn sống và chặt bàn tay gấu, họ nói bàn tay gấu phải chặt ngay mới tươi ngon. Hai huynh đệ của ta đều chết thảm như vậy đấy." Nguyên Diệu nghe vậy, động lòng trắc ẩn.
Cửa của chiếc lồng sắt giam giữ con gấu nâu bị quấn bởi một sợi xích sắt, trên đó treo một ổ khóa. Có lẽ vì sợ rằng gấu nâu có sức mạnh lớn, có thể dùng sức để kéo đứt xích sắt, nên sợi xích đó to bằng cánh tay người lớn. Xem ra chỉ có cách dùng chìa khóa mới có thể mở khóa và mở cửa lồng sắt.
Nguyên Diệu nói: “Gấu đại ca, tiểu sinh phải làm sao mới có thể mở lồng sắt này cho huynh? Chìa khóa ở đâu thế?”
Gấu nâu nói: “Chìa khóa ở trong tay bọn kẻ trộm kia, cụ thể là ở tay ai thì ta cũng không biết.”
Nguyên Diệu buồn bã nói: “Vậy làm sao mở được lồng sắt?”
Gấu nâu chỉ vào chỗ chất củi không xa, nói: “Ngươi thấy cái rìu bổ củi kia không? Làm ơn cầm lấy nó giúp ta, ta sẽ có cách tự thoát.” Nguyên Diệu đi đến góc sân nơi chất củi, cầm lấy chiếc rìu bổ củi.
Cái rìu rất nặng, khoảng sáu bảy cân.
Nguyên Diệu vác chiếc rìu đi đến bên lồng sắt, đưa chiếc rìu qua khe hở của lồng sắt cho gấu nâu.
Gấu nâu nhận lấy rìu, nói: “Tiểu huynh đệ, ngươi lùi lại một chút.” Nguyên Diệu lùi lại vài bước.
Đám rái cá lần lượt chạy qua Nguyên Diệu, im lặng chạy xa.
Gấu nâu hít một hơi sâu, cơ bắp nổi lên, nó vung rìu mạnh mẽ chém vào xích sắt.
“Keng! Rầm...”
Cái rìu làm hở một mảnh, sợi xích to bằng cánh tay người cũng bị chém đứt.
Gấu nâu ném cái rìu đi đẩy cửa lồng, bước ra ngoài với dáng vẻ oai phong.
Gấu nâu đi đến trước mặt Nguyên Diệu, nói: “Tiểu huynh đệ, cảm ơn ngươi.”
Nguyên Diệu nói: “Gấu đại ca, không cần khách sáo. Nhân lúc không ai để ý, ngươi mau trốn đi.”
“Cáo từ.”
Gấu nâu nói xong, quay người đi.
Lúc này, Bạch Cơ, Ly Nô, A Y cũng đã thả hết rái cá, từ trong xưởng đi ra.
Nguyên Diệu vội vàng tiến tới.
Ly Nô từ xa nhìn thấy một cái bóng đen to lớn như ngọn núi đang rời đi, ngạc nhiên nói: “Có phải mắt ta bị hoa không? Sao nhìn thấy một con rái cá còn to hơn cả người thế?”
Bạch Cơ cũng thấy, nói: “Đó là một con gấu, không phải rái cá. Lúc nãy vào sân, ta đã thấy nó bị nhốt trong lồng sắt dưới tường, chắc là Hiên Chi thả đó.”
Nguyên Diệu gãi đầu, nói: “Đúng vậy là tiểu sinh thả.”
Bạch Cơ nói: “Hì hì, Hiên Chi cũng vi phạm lời dạy của thánh hiền, đi ăn trộm rồi đấy.”
“Ừ.” Nguyên Diệu không thể phản bác.
A Y nói: “Bạch Cơ, nhân lúc không ai phát hiện, chúng ta nhanh chóng đi đến xưởng khác đi.”
“Chờ một chút.”
Bạch Cơ nói.
Bạch Cơ lấy ra một chiếc bình sứ bụng tròn cao khoảng hai tấc. Nàng mở nắp bình sứ, thổi nhẹ một hơi vào miệng bình, một làn khói vàng nhè nhẹ bay ra.
Đây là bột hoa Hoàng Tuyền.
Làn khói vàng lan tỏa trong đêm tối, bám lên từng tấm da rái cá treo trong sân.
Một cơn gió thổi qua, Nguyên Diệu cảm thấy hương hoa sen nước dường như nồng nàn hơn.
“Xong rồi. Chúng ta đi thôi.”
Bạch Cơ nói.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô, A Y đi đến khu vườn bên trái.
Bố trí của khu vườn bên trái giống hệt khu vườn bên phải, chỉ có điều trong sân không có cọc tre cũng không có những tấm da rái cá đẫm máu phơi khô, chỉ có nhiều lồng sắt.
Xưởng bên trái là nơi các thợ thuộc da và may áo lông, không phải nơi giết mổ động vật nên không có mùi tanh nồng nặc gây buồn nôn. Vì số lượng rái cá mang đến khá nhiều, xưởng bên phải không đủ chỗ để đặt hết lồng sắt nên đã đặt một phần ở sân bên này.
Nguyên Diệu nhìn vào sân, chỉ thấy sân đầy lồng sắt, mỗi lồng nhốt chục con rái cá, con nào cũng bị thương hoặc ốm yếu, sống dở chết dở, có con thì cuồng loạn, có con thì tuyệt vọng, cam chịu số phận, có con thì sợ hãi run rẩy. Ngoài ra còn có một số lồng sắt nhốt không phải rái cá, mà là cáo, cầy hương, chồn tuyết và các loài động vật khác. Chắc là mới được thu mua từ thợ săn gần đó, chưa kịp giết mổ chế biến.
A Y thấy tình cảnh thê thảm của đồng loại thì không kìm được nước mắt.
“Mọi người đừng sợ, chúng ta đến để cứu các người. Mọi người sắp được trở về quê hương rồi.”
Đám rái cá nhìn thấy hy vọng sống đôi mắt u ám tuyệt vọng lập tức sáng lên, chúng nhìn A Y và nhóm người với ánh mắt rạng rỡ đầy phấn khích.
Nguyên Diệu như nhìn thấy cả bầu trời đầy sao trong sân, đẹp đẽ vô cùng.
Bạch Cơ đưa tay vuốt qua lồng sắt, một làn ánh sáng vàng bao phủ tất cả các lồng sắt.
Các lồng sắt lần lượt mở ra, rái cá lần lượt chui ra, từng con một chạy trốn. Những con cáo, cầy hương, chồn tuyết bị nhốt cùng rái cá cũng chạy theo để thoát thân.
Sự sống trỗi dậy, những con vật bị giam cầm trong lồng sắt chờ chết đều chạy trốn rất nhanh, chỉ có một cái lồng sắt gần đống củi dường như có một con vật không động đậy.
Nguyên Diệu chăm chú nhìn xem con vật chưa trốn thoát là gì.
Ly Nô lên tiếng: “Lạ nhỉ, cửa lồng đã mở mà con mèo ngốc kia sao vẫn không chạy?”
Nguyên Diệu kinh ngạc hỏi: “Hóa ra là mèo sao? Thật sự có mèo à? Chưa từng nghe nói mèo có thể làm áo lông, cũng chưa thấy ai mặc áo lông mèo.”
Ly Nô không vui, chống nạnh nói: “Đồ mọt sách, ngươi xem thường mèo sao? Tại sao mèo lại không thể làm áo lông? Chẳng lẽ chỉ có rái cá, cáo mới quý giá còn mèo thì không đáng tiền sao?”
A Y đang khóc, nghe vậy càng khóc to hơn.
“Ta thà rằng rái cá không đáng tiền, không ai mưu đồ lông của chúng ta, chúng ta sẽ không phải chịu đựng những đau khổ này, chịu đựng số phận tàn khốc như thế này.”
Ly Nô vốn muốn tranh cãi vài câu nhưng nghĩ đến cảnh tượng địa ngục trong xưởng bên phải cùng với sân đầy lông rái cá đẫm máu bèn im lặng không nói nữa.
Nguyên Diệu nói: “Tiểu sinh qua đó xem thử, có lẽ con mèo đó bị thương không thể chạy được. Vậy chúng ta phải nghĩ cách mang nó đi.”
Bên cạnh đống củi, trong lồng sắt, một con mèo trắng đen đang nằm lười biếng. Nó thấy Nguyên Diệu đi tới, nhưng chỉ nhấc mắt nhìn một chút rồi lại tiếp tục nằm.
Nguyên Diệu nói: “Này mèo đại ca, huynh có bị thương không mà sao vẫn chưa chạy?”
Con mèo trắng đen ngáp một cái, nói: “Chạy để làm gì? Bên ngoài lạnh giá, không có thức ăn, ở đây ít ra còn có hơi cơm thừa để no bụng.”
Nguyên Diệu nói: “Ở lại đây, ngươi không sợ bị giết mổ lột da sao?”
Con mèo trắng đen nhìn Nguyên Diệu như nhìn một kẻ ngốc.
“Lông mèo dễ rụng, một khi lột da thì trở nên trụi lủi, không thể làm áo lông, không có giá trị gì, chẳng ai nghĩ đến việc lấy da mèo cả. Ta được nuôi ở đây để bắt chuột đã hai năm rồi. May mắn thì có phòng nào có chuột ta được ngủ trong phòng. Không thì ta ở cái lồng rách bên cạnh đống củi này.”
Nguyên Diệu hiểu ra, nói: “Hóa ra là vậy. Nếu không có nguy hiểm, mèo huynh cứ tiếp tục nghỉ ngơi, tiểu sinh không làm phiền nữa.”
Con mèo trắng đen hơi xúc động, nói: “Hóa ra ngươi lo lắng cho an nguy của ta nên cố ý qua đây. Lâu rồi không có ai quan tâm đến ta như vậy, ta thấy rất cảm động.”
Nguyên Diệu cười nói: “Mèo huynh nói quá rồi, huynh cứ nghỉ ngơi. Tiểu sinh xin cáo từ.”
“Khoan đã.” Con mèo trắng đen gọi Nguyên Diệu lại, nói: “Ngươi quan tâm ta, mà ta lại không có gì báo đáp, chỉ tốt bụng nhắc ngươi một câu.”
Nguyên Diệu ngạc nhiên.
Con mèo trắng đen giơ chân lên, chỉ về phía A Y đang đứng cạnh Bạch Cơ khóc thương, hạ giọng nói: “Cẩn thận đề phòng con rái cá đó.”
Nguyên Diệu kinh ngạc nói: “Gì cơ?”
Con mèo trắng đen định trả lời nhưng bên ngoài vang lên một trận hỗn loạn, dường như có chuyện xảy ra ở phía sau sân.
“Grrrr...”
“Cứu mạng...”
“Gấu giết người rồi...”
“Aaaaaa...”
Tiếng gầm của một con gấu vang trời dậy đất, xen lẫn tiếng la hét thảm thiết của con người. Ngay sau đó, vài thợ thủ công ăn mặc lôi thôi từ phía sau chạy ra, rõ ràng là bị đánh thức từ giấc ngủ, có người thậm chí còn đi chân trần vì chưa kịp đi giày.
Đám thợ thủ công phát hiện cửa hai khu sân trái phải mở toang, người gan dạ chạy vào kiểm tra thì thấy rái cá trong xưởng bên phải đều đã chạy hết rồi lại vào xưởng bên trái thì gặp ngay nhóm Bạch Cơ và những chiếc lồng trống rỗng.
Các thợ thủ công sợ hãi kêu lên: “Có trộm, rái cá bị trộm hết rồi...”
“Mau bắt trộm...”
Phía sau sân cũng vang lên tiếng kêu khóc: “Chạy mau, con gấu điên rồi...”
“Cứu mạng...”
Sơn trang Tam Đông lập tức trở nên hỗn loạn.
Con mèo trắng đen thấy sơn trang hỗn loạn thì sợ hãi chạy khỏi lồng sắt, trốn đi lánh nạn.
Nguyên Diệu đầy nghi ngờ, định hỏi kỹ về chuyện của A Y nhưng con mèo trắng đen vừa chớp mắt đã biến mất, chỉ để lại Nguyên Diệu đứng đờ đẫn bên cạnh chiếc lồng trống rỗng.