Phong Hoa Tuyết Nguyệt Túy Mộng Sinh

Chương 13: Võ hội



Lần này A Tư Mạc theo sơn đạo chạy lên, trong tay hắn còn có mang theo một cặp lồng, bên trong có chứa mấy cái bánh bao. Một năm nay luyện thể, hiệu quả vô cùng rõ rệt, hắn bây giờ lên xuống núi một hai lần lặp đi lặp lại, đều rất bình thường. Đến khi hắn lên đến nơi, đã thấy Chu Đường Mộng khoanh tay đứng lườm.

- Đồ chậm chạp.

Chu Đường Mộng chỉ bật ra ba tiếng, rồi lại phụng phịu. Nhìn tiểu cô nương trước mặt rất giống mấy bà già hàng chợ ở Cận Mạc, A Tư Mạc chỉ có thể nín cười, rút từ trong áo ra một chiếc khăn lớn trải ra đất, rồi đặt mình ngồi xuống, mở chiếc cặp lồng ra, hơi nước trắng liền bay lên. Bánh bao bên trong đều rất to, mỗi cái đường kính tới ba tấc (12cm), đều là tự tay A Tư Mạc làm.

- Hừ, chỉ là mấy cái bánh bao, ngươi cũng thật keo kiệt.

Dẫu miệng nói vậy, song Chu tỷ cũng vẫn đưa tay vào lấy một cái ra, rồi ngồi xuống cạnh A Tư Mạc. Bản thân A Tư Mạc sáng nay ngủ dậy hơi muộn, cũng chưa ăn sáng, hiện tại cũng lấy một cái, hai người cùng sóng vai ngồi ăn.

- Tay nghề của ngươi, cũng không tệ lắm.

- Chỉ không tệ thôi sao? Ai da, là ai nấu món cháo…

- Ê ê ê ê…

- …mà người khác ăn xong…

- a a a a…

- …còn lăn ra…

A Tư Mạc một bên cứ nói, còn một bên Chu Đường Mộng tỷ tỷ, trong lòng là chiếc bánh bao còn chưa kịp cắn, hai tay ôm tay, miệng ngâm nga thật to để át đi tiếng hắn. Hai người họ cứ gặp nhau, có cơ hội là trêu đùa cãi vã, thật sự vô cùng ầm ĩ, nhất là ở chốn Dược Đường vốn quanh năm vắng tiếng người.

Về tu hành đạo pháp, A Tư Mạc chẳng tỏ ra có chút tài hoa nào, nhưng khả năng bếp núc thì đúng là trời phú, nấu nướng chẳng cần thầy dạy mà tự vỡ vạc, cơm canh đưa ra thơm ngon tươi ngọt, tới hiện tại đã vượt xa tất thảy mọi người, ngay cả sư phó cũng nhận xét, về nấu ăn, hắn thật sự đã vượt qua bà.

Món bánh bao này, hồi ở Cận Mạc A Tư Mạc còn chưa bao giờ biết đến, vậy mà chỉ một hôm Mẫu Đơn tỷ tỷ chỉ qua cho hắn, mẻ bánh đầu tiên hắn xuất ra, còn hơi vụng; mẻ thứ hai, đã chuẩn hợp cách; mẻ thứ ba, là đã vượt qua chỉ dạy của “sư phó” Mẫu Đơn; mà từ mẻ thứ tư trở đi, thì lại càng biến hóa nghiêng trời lệch đất, quả thật rất ngon.

Vỏ bánh cần ba lạng bột mì, mười đồng bột nở (10g), ngoài ra còn đường và muối. Bột nở cho vào nước ấm, bột mì cho vào bát lớn cùng muối. Lại đổ từ từ men nở vào bột, dùng tay nhào thật kĩ cho đến khi bột mịn là được, sau đó ủ khoảng nửa canh giờ cho bột nở phồng. Nhân bánh chay bằng mộc nhĩ, nấm hương, cà rốt, miến cùng củ đậu cắt nhỏ. Mấy thứ đó trộn lại với nhau rồi xào qua, nêm nếm gia vị cho vừa ăn. Phần bột đã nở, liền đem vo thành từng viên tròn, cán dẹp rồi cho nhân vào giữa. Bánh hấp khoảng hai khắc là được, A Tư Mạc còn phát hiện ra, nếu cho thêm một ít giấm vào phần nước hấp, bánh sẽ trắng hơn thường một chút, chính hắn cũng không biết tại sao nữa.

Ẩm thực của Trung Thổ, đối với A Tư Mạc vô cùng mới lạ cùng độc đáo. Hắn mỗi lần thử một công thức mới, đều cảm thấy vô cùng hiếu kì lẫn thích thú; cảm giác ấy, có lẽ chỉ có đọc sách là có thể so sánh được. A Tư Mạc theo đó rất thích nói chuyện nấu nướng, như hiện tại, hắn vừa ăn vừa kể công đoạn làm bánh ra thật tỉ mỉ cho Chu tỷ, người thật sự chẳng biết nấu ăn là gì. Sau một thời gian dài quan sát, A Tư mạc đưa ra kết luận, nếu khi ăn mà giới thiệu về món ăn thật chi tiết, vị giác sẽ được kích thích, món ăn lại càng ngon hơn bình thường vậy.

Đương nhiên, với tài nghệ của Chu tỷ mà so, chuyện ấy cũng là thừa thãi.

Hai người bọn hắn cứ thế ăn hết năm cái bánh bao lớn, Chu tỷ ăn hết hai cái, A Tư Mạc lại hết tận ba. Kể từ ngày bắt đầu luyện thể đến nay, A Tư Mạc càng ngày ăn càng nhiều, hắn hiện tại đã ăn gấp hai gấp ba trước đây, song như vậy cũng chưa là gì so với Thương Hùng sư huynh. Huynh ấy ăn như hổ như beo, một bữa đều bằng bốn người đàn ông trưởng thành, mà đó cũng chỉ là lưng bụng.

- Ngươi thời gian gần đây tập trung vào luyện thể, cảm giác thế nào?

- Có hơi nhọc một chút, bất quá rất nhanh đệ đã đạt được tiểu thành tựu rồi. Mới tháng trước, sau khi tỷ bế quan được mấy ngày, đệ đã bắt đầu chuyển sang luyện Tẩy Trần Võ Kinh tầng thứ hai. Có vẻ đệ hợp với luyện thể hơn là luyện linh lực, cùng là tầng thứ hai, song tiến triển luyện Chung Nhật Thượng Thanh Đạo của đệ, chậm hơn luyện Tẩy Cốt Quyết đến tận hai thành rưỡi. Cũng thật là xấu hổ a.

- Ngươi biết xấu hổ là tốt. Để người ngoài biết được, ngươi là đệ tử Ngọc Tiết cung, vậy mà tâm pháp trấn phái của bổn môn ngươi không học, lại đi học môn pháp phái khác, cũng thật là xấu hổ đi. Bất quá, dẫu sao đến cuối vẫn quan trọng là ngươi hợp với đường nào. Cũng như luyện pháp bảo vậy, tuy bổn môn chủ yếu là phi kiếm, song cũng không gượng ép, đạo lý ở đây giống nhau cả thôi.

Đường Mộng tỷ tỷ ôm gối gật gù nói, ngón tay đeo nạp hư giới khẽ động, thanh Chu Lăng kiếm đỏ rực liền hiện bên cạnh nàng, phiêu phù giữa không trung. A Tư Mạc nhìn vào phi kiếm, trong lòng tự hỏi, bản thân không biết đến ngày tháng năm nào mới có thể thôi động pháp bảo của riêng mình đây. Song đầu óc hắn suy nghĩ miên man phiêu hốt thế nào, lại nhớ một chuyện, liền hỏi:

- Nhị tỷ à, lục đường luận võ hội cuối cùng là cái gì vậy? Hôm đầu tiên ở Chính Đường, đệ cũng nghe trưởng môn chân nhân nhắc tới. Vừa lúc nãy tỷ cũng nhắc tới nó nữa… à, mà ở Khí Đường, hình như đệ cũng loáng thoáng nghe đến cái tên này, song chính xác nó là gì thế?

A Tư Mạc hỏi xong mới quay ra, chỉ thấy Chu Đường Mộng hai tay mở hờ về phía trước, Chu Lăng tiên kiếm trước mặt nàng như sống dậy, giống hết ngân dao ngư ở Hải Thượng viện của sư phó, thân kiếm linh hoạt như cá quẫy, bay lượn qua lại trong không khí. Tốc độ cũng không tính là nhanh, song quỹ đạo biến hóa vô cùng kì diệu, khiến A Tư Mạc không thể không thừa nhận, cảm giác trước mặt thật giống là một đóa lụa đỏ bay trong gió.

Chu tỷ mắt nhìn theo kiếm đang càng lúc bay càng cao, quỹ đạo càng thêm biến hóa, cái miệng nhỏ thoăn thoắt nói:

- Ngươi nghe tên như vậy, chẳng nhẽ không thể đoán ra sao? Lục đường luận võ hội, cứ sáu mươi năm lại tổ chức một lần, là để tuyển chọn từ trong đám đệ tử ra những ngôi sao triển vọng nhất tập trung bồi dưỡng. Đương nhiên, các đấu thủ dù thua song biểu hiện tốt, cũng sẽ được lưu tâm. Ừm, mấy kì lục đường luận võ hội này, cũng rất quan trọng, tỷ như…

Chu Đường Mộng tỷ tỷ giảng giải về lục đường luận võ hôi vô cùng kỹ lưỡng, A Tư Mạc nghe đến đâu liền hiểu đến đó, trong lòng khẽ thoáng nghĩ, tiểu cô nương này xem ra dạy học cũng không tệ như nấu nướng. Suy nghĩ đó lướt qua rất nhanh, hắn chỉ khẽ mỉm cười, rồi lại nhập tâm nghe tiểu sư tỷ giảng giải.

Đối với đám đệ tử mà nói, tham gia lục đường luận võ hội, chỗ quan trọng có thể tóm gọn tại mấy điểm:

Thứ nhất, ấy là phần thưởng. Điểm này là dễ hiểu nhất, cũng là điểm thiết thực nhất mà phần lớn đệ tử tham gia đều quan tâm. Để khuyến khích đệ tử, mỗi kì đều có phần thưởng, bao gồm chủ yếu là đan dược, bảo bối, pháp quyết,… Như viên Đại Lam Đan mà Thiết sư thúc từng lôi ra, có thể dùng làm phần thưởng cho những ai thắng vòng một. Nạp Hư giới như Đường Mộng hay A Tư Mạc đang đeo trên tay, đại khái là dành cho những ai thắng vòng ba.

Thứ hai, chính là cọ xát. Đệ tử Ngọc Tiết cung chủ yếu luyện phi kiếm, đều là kiếm tu. Mà ở tu chân giới, kiếm tu nổi tiếng đều là loại người hiếu cường, bọn họ cao ngạo thuần túy, bọn họ chỉ tin tưởng kiếm trong tay họ. Là tu giả có lực công kích cường đại nhất, kiếm tu đích xác có đầy đủ tư bản để kiêu ngạo. Càng là danh môn đại phái, khí chất này càng thể hiện rõ ràng. Chính bởi vậy, càng tạo ra cơ hội cọ xát cho họ với nhau, càng thúc đẩy bọn họ ganh đua tu luyện. Ngọc Tiết cung mấy ngàn năm, đào tạo ra các nhân tài kiệt xuất, phần lớn là nhờ hệ thống tư tưởng suy nghĩ này in sâu trong tâm trí đám đệ tử nối truyền hương hỏa.

Điểm thứ ba với điểm thứ hai, có quan hệ với nhau, là chuyện biểu hiện thực lực, nói thẳng ra chính là sĩ diện. Việc tu luyện thần tốc như Chu tỷ mà nói, chỉ là biểu hiện dạng tiềm lực. Loại biểu hiện này tuy cũng là một thang điểm đánh giá, song xa xa không bằng biểu hiện thực lực. Tiềm lực ngươi có thể biểu hiện ra rất mạnh, nhưng tiềm lực nếu không thể biến thành thực lực vậy vĩnh viễn nó chỉ là tiềm lực. Mà thiếu niên có tiềm lực ở Ngọc Tiết cung, các vị trưởng lão có thể chụp ra cả đống. Bọn họ theo đó bồi dưỡng chủ yếu là cao thủ, không phải thiếu niên có tiềm lực.

Chính ở điểm này mà Thương Hùng sư huynh ăn đứt những người cùng trang lứa; huynh ấy trong hai kì lục đường luận võ hội đã đánh bại các đối thủ tiềm lực vượt xa mình, mới có thể đứng vào hàng ngũ đệ tử nổi danh nhất hiện nay. Đương nhiên, thể hiện với trưởng bối là một truyện, mà thể hiện với đồng môn bằng hữu, cũng là một vấn đề quan trọng khác. Quan hệ giữa Mẫu Đơn tỷ tỷ và Thương Hùng sư huynh, chính là một truyện như thế.

Điểm thứ tư, là việc hạ sơn. Nói chung, hầu hết đệ tử Ngọc Tiết cung, đều không đoạn tuyệt hết nhân duyên trần tục, chín phần rưỡi đều có mong muốn được hạ sơn. Yêu cầu của Ngọc Tiết cung theo đó, chính là tham gia được đủ bốn kì lục đường luận võ hội sẽ có thể hạ sơn, thắng thua không quan trọng. Bốn kì lục đường luận võ hội, chí ít cũng hết gần hai trăm năm, đệ tử có thể đạt con số này, đều là người có thể đạt được thành tựu Kim Đan, tài năng đều không làm sư môn hổ thẹn. Như Chu Thái Nghĩa sư huynh ở Khí Đường, chính là đã hợp cách hạ sơn, song huynh ấy là đại đệ tử, sau này sẽ kế thừa Thiết sư thúc làm chủ tọa Khí Đường, nên mới quyết định không hạ sơn.

Điểm cuối cùng, đấy là nếu có thể tiến vào vòng tám người cuối cùng, sẽ có cơ hội được giao lưu với bốn môn phái còn lại trong Ngũ Gia Minh, gồm: Đông Gia Minh Hiên Giáo ở Dương Căn Quốc, Tây Gia Hỏa Diệm Ngũ Quang Tự, là một nhánh của Cửu Đại Thiền Môn Đại Phật Tự, Nam Gia Trường Sinh Đường ở khu rừng rậm Nam Man, Bắc Gia Hạo Kiếm Gia ở biên giới giữa Bắc Nguyên và Trung Thổ, cùng Trung Gia Ngọc Tiết cung. Hơn bảy trăm năm trước, năm nhà này trong cơn đại loạn của thiên hạ, quần yêu nổi lên tứ phương, lập một minh ước hỗ trợ lẫn nhau, hiệu lực vẫn còn cho đến ngày nay.

Thiên hạ tu chân, hiện tại có bốn đại tông phái đứng đầu, gồm Chánh Nhất Giáo ở Trung Thổ, Tây Thiên Lôi Âm Tự ở Ma Ha La, Bái Hỏa Giáo rải rác khắp các thành phố Cận Mạc, cùng Thánh Thiên Giáo ở Tây Giới, giáo chúng tu chân mỗi nhà lên tới hơn chín ngàn người. Xếp sau đó là lũ tà ma ngoại đạo, có ba thế lực mạnh nhất, là Tam Tuyệt Quán, Hoạt Phật Tự và Hỗn Thế Ma Tông, tuy bị chánh đạo truy bắt sát sao, song mỗi môn phái cũng đều có tới hơn bốn nghìn rưỡi tu chân giả dưới trướng. Tiếp theo là Cửu Đại Thiền Môn, phân chia khắp vùng Trung Thổ và Dương Căn Quốc, tăng ni phật tử mỗi nhà có gần hai nghìn người. Sau chót là Hạo Gia Kiếm Phái, Ngọc Tiết cung, Minh Giáo, Trường Sinh Đường và các nhà khác, mỗi nhà cũng có đến khoảng sáu trăm bảy trăm đệ tử. Mà những tiểu môn phái nhỏ hơn nữa, tự nhiên nhiều không kể xiết.

Đương nhiên, đây là các môn phái tồn tại độc lập, không có ràng buộc với thế tục nhiều. Bên cạnh các tông đạo này, còn cần nhắc đến Chính Thống Giáo là quốc giáo của Hách Lăng đế quốc, vốn cùng một gốc với Thánh Thiên Giáo, song kéo theo sự phân chia Đông Tây của Đại Lợi đế quốc, sự sụp đổ của Đại Lợi Tây đế quốc và việc Đại Lợi Đông đế quốc trở thành Hách Lăng đế quốc, Chính Thống Giáo và Thánh Thiên Giáo cũng dần dần xuất hiện những sự khác biệt về giáo lý và phân tách thành hai nhánh riêng rẽ. Hay lực lượng Hộ Thiên Phủ của triều đình Đại Viên bây giờ, cũng có tới gần năm nghìn rưỡi người, đều là những thế lực có nhiều tu giả, tầm ảnh hưởng tương đối rộng, song gắn liền với thế tục nhiều hơn.

Hầu hết các đại môn phái này, tuổi đời đều rất lâu, phải đến hơn vạn năm, theo đó giao du với nhau cũng không ít, đều thường hay tổ chức các hoạt động qua lại thành truyền thống. Ngũ Gia Minh cũng không ngoại lệ, năm nhà cứ sáu mươi năm lại cử các đệ tử tinh anh nhất tới thi đấu cọ xát với nhau; đợt võ hội tiếp theo, chính là tổ chức ở Ngọc Tiết cung. Theo thông lệ, mỗi môn phái cử sáu người, riêng môn phái “chủ nhà” cử thêm hai người nữa, là ba mươi hai người, thi đấu năm vòng, chọn ra người chiến thắng cuối cùng. Trước khoảng thời gian đó khoảng một năm thời gian, tám người mạnh nhất của môn phái “chủ nhà” sẽ chia bốn cặp hai người, chia nhau đến bốn môn phái còn lại sinh hoạt để tạo mối quan hệ.

Tham gia Lục Đường luận võ hội, nếu có thể tiến vào Lục Cường hoặc Bát Cường, không chỉ nổi danh ở trong môn phái, mà còn có thể gây ấn tượng với các môn phái khác, những tu giả trẻ tuổi vốn cao ngạo cùng ham thích thể diện, nhìn tới cái viễn cảnh ấy, tất nhiên vô cùng thèm thuồng, đều gắng sức tu luyện chuẩn bị.

- Lục Đường luận võ hội chủ yếu là vì năm điểm ấy mà trở thành tâm điểm chú ý đối với đám hậu bối chúng ta. Ừm, ngoài ra còn có một số lý do cá nhân như thách đấu, như gặp mặt bằng hữu ở môn đường khác, như gặp mặt người mong nhớ. Còn với các vị đường chủ, biểu hiện ở mỗi kỳ luận võ hội cũng là thước đo giúp bọn họ đánh giá môn hạ đệ tử của mình, nên bọn họ cũng rất chú trọng việc này.

Đường Mộng tỷ tỷ cứ thế giảng giải, A Tư Mạc cứ thế ở bên cạnh gật gù lắng nghe, chuyện trong đó, hắn đại khái có thể hiểu được. Bất quá, hắn khi đó chỉ thấy, bản thân đều không ưa mấy việc tranh đấu này lắm. Ngay từ bé, A Tư Mạc luôn dễ thấy đủ, hắn không có lý tưởng vĩ đại gì. Những việc như xưng hùng thiên hạ hay võ lâm minh chủ các loại, hắn thậm chí trong những lúc điên cuồng của tuổi trẻ cũng không nghĩ tới. Suy nghĩ của hắn thật sự rất đơn giản, ngày ngày gắng sức tu luyện, đạt được tiểu thành tựu nào đó để sư phó có thể an lòng, ngày sau chắc cũng không hạ sơn, đại sư huynh nối nghiệp làm chủ tọa Dược Đường, hắn có khi cũng có thể ở lại làm sư bá cho đám hậu bối sau này. Nếu mọi chuyện tốt đẹp, có lẽ sẽ kết hôn, cưới một đồng môn trong môn phái làm vợ…

A Tư Mạc dù mới mười ba tuổi, song mấy việc quan trọng ở đời như công danh, sự nghiệp, kết hôn,… hắn cũng đại khái hiểu, cũng đưa ra suy nghĩ của riêng mình. Chỉ là nghĩ đến chuyện cuối kia, liền quay ra nhìn nhị tỷ, trong đầu chợt có xuy nghĩ, sư tỷ trông cũng rất xinh đẹp, không biết nếu mặc áo tân nương của Trung Thổ, trông sẽ thế nào. Chu Đường Mộng chợt thấy tên tiểu đệ ngốc của mình đưa mắt nhìn mình như vậy, liền quay ra nhướn mày hỏi:

- Ngươi nhìn cái gì? Bộ trên mặt ta có gì sao?

- Không có gì. Đệ chỉ đang nghĩ, sư tỷ vốn bình thường toàn mặc đồ đỏ rồi, không biết đến ngày cưới, mặc áo tân nương, thực sự có khác gì ngày thường không?

A Tư Mạc khi đó vẫn còn chưa có thói quen uốn lưỡi bảy lần trước khi nói, suy nghĩ trong đầu cứ thế tuồn tuột trôi ra cả. Chỉ thấy nhị tỷ nghe hắn nói thế thì mặt đỏ lựng lên, bật đứng dậy quay lưng lại với A Tư Mạc, lóng nga lóng ngóng nạt nộ hắn, giọng run run:

- Ngươi… ngươi nói lăng nhăng cái gì thế? Ta… ta không biết…

Nàng vừa dứt lời, từ trên cao liền có một quả thông rơi xuống trúng đầu A Tư Mạc, khiến hắn không kịp phản ứng, chỉ thấy đầu lại nhói lên, đau ơi là đau. A Tư Mạc nén đau nhìn lên, chỉ thấy ở một cành cây tương đối cao, hình như thiếu mất một quả thông, mà đến khi hắn cúi xuống, lại thấy Chu Lăng Kiếm vừa hạ xuống, liền ngay lập tức hiểu ra. Song hắn chưa kịp nói gì, Chu tỷ đã tế khởi phi kiếm bay xuống sơn đạo, bỏ mặc hắn ở lại. A Tư Mạc theo đó cũng chỉ có thể chép miệng, cầm lấy quả thông lên xoay xoay giữa hai ngón tay, thì thầm nói:

- Năm quả trúng ba, đến cuối vẫn là tỷ thắng.

Hắn than thở một câu như vậy, rồi đứng dậy, phần bài tập hôm nay tuy hắn có thể làm không đủ, song chí ít cũng nên gắng sức một chút, không nên bỏ qua a. Song đến khi hắn rút sài đao ra chặt, mới phát hiện ra một vấn đề mới: sài đao của hắn, đã quá cùn rồi.

Bình thường không có việc gì làm, A Tư Mạc vẫn để sài đao trong phòng, mỗi khi rảnh rang liền đưa ra mài dũa cẩn thận. Bá bá hắn từng dạy, một người đàn ông, luôn phải giữ cho con dao của mình sắc bén. Bất quá những ngày gần đây, hắn luyện thể bị vắt kiệt sức, về đến phòng đọc sách xong liền đặt mình xuống giường ngủ vùi, hiếm khi dành thời gian ra mài đao, bị cùn cũng là chuyện tất nhiên. Chỉ là giờ nếu hắn lại lần thứ ba chạy xuống đổi đao, thực sự là quá chán rồi.

- Ai da, biết làm sao đây?

A Tư Mạc đi đi lại lại ở khoảng rừng ấy, nghĩ ngợi lung tung một hồi, cuồi cùng đành thờ thẫn ngồi xuống, thở dài im lìm, lặng lẽ rút con dao bên hông ra. Một năm nay, hắn chẳng còn dùng đến con dao này nữa, ngoại trừ hàng ngày vẫn mang theo bên người, ngoài ra chẳng bao giờ để ý đến. Hiện tại hắn mới rút ra, lưỡi dao sắc lạnh, chất thép bóng loáng phản chiếu chút ánh sáng vượt qua được tán lá rừng lên mặt A Tư Mạc. Nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trên lưỡi dao, A Tư Mạc tự nhủ:

- Thôi, đằng nào lúc đầu bá bá cũng chẳng cấm việc này. Dao gì chẳng là dao, tao dùng mày hay dùng thanh đao kia, cũng thế cả.

Rồi không nghĩ ngợi gì nữa, trong lòng thoải mái, A Tư Mạc người đứng dậy đi về thân cây chặt giở, lựa lựa một chút vào vết cắt mấy ngày hôm nay, rồi vung dao lên chém vào thân cây một nhát.

- Úi.

A Tư Mạc khẽ thốt lên một câu, bản thân vô cùng không tin tưởng cảm giác từ trong tay truyền đến, liền vội vàng rút lưỡi dao ra, kiểm tra thật kĩ lưỡng, rồi lại nhìn lưỡi dao trong tay vô cùng hiếu kì.

Một nhát dao vừa nãy của A Tư Mạc, phải bằng công sức hắn bình thường nửa canh giờ cực khổ mới đạt được.

Tuy không đến nỗi như chém đậu hũ, song lưỡi dao này, thực sự sắc đến kinh người, thân cây Hắc Kim Tùng cứng không kém gì thép nguội, song bị lưỡi dao này chém một phát, lại không khác gì thứ cây bình thường. A Tư Mạc không khỏi kinh ngạc, liền vung dao lên chém xuống thật lực một nhát nữa.

Kết quả tương tự, lưỡi dao ăn vào thân cây một vết rất rõ. Với tốc độ này, A Tư Mạc chỉ mất vài ngày, liền có thể có kết quả của mấy tháng trời, nhanh hơn không chỉ mười lần. Hắn theo đó trong lòng vừa vui mừng vừa kinh ngạc, liền vung dao lên xuống không biết mệt, trong chốc lát, liền hoàn thành bài tập của mấy ngày liền. Xong việc, hắn ngắm lại lưỡi dao trong tay, thực sự không hề cùn đi chút nào, cảm giác hiếu kì không ngừng tăng lên. Nhưng kiến thức của hắn phải nói là ít tới thê thảm, cuối cùng cũng chỉ có thể thầm nhủ trong lòng, nếu gặp sư phó đại sư huynh mấy người, sẽ tức khắc đem chuyện này ra hỏi, rồi theo sơn đạo xuống núi.

Bất quá Chu sư phó kể từ sau hôm đó, lại tăng cường quá trình huấn luyện cho A Tư Mạc. Hành trình lên xuống trên sơn đạo bây giờ, lại xuất hiện thêm khó khăn mới: hắn phải đeo trên người bao tay bao chân mà leo. Chỗ nào cần đeo bao, chỗ nào không; chỗ đeo thì đeo bao nhiêu lạng bao nhiêu cân, sư phó có vẻ đều tính toán rất kĩ. Bao tay bao chân không khắc phù trận thì cũng chứa dược liệu, mỗi khi hắn A Tư Mạc động, phù trận lại sáng lên, dược liệu hương lại tỏa hương thơm, thay nhau truyền ra hơi ấm ngấm vào người hắn. Nhưng chính xác công dụng là gì, A Tư Mạc cũng không nắm rõ, chỉ biết hơi ấm kia cũng chẳng có mấy tác dụng xoa dịu cho những bắp lưng bắp vai mỏi nhừ đang kêu gào phản đối của hắn. A Tư Mạc theo đó leo lên leo xuống, càng thêm khổ cực, mỗi bước đều là dùng hết lực lượng toàn thân, từng bước tiến trước.

Mà hiện tại, sau khi luyện thể xong, hắn lại chẳng bao giờ có thể về phòng luôn được, mà toàn bị sư phó xách lên, bay thẳng tới Hải Thượng viện. Trong viên, đã có một cài nồi lớn đợi hắn, trong nồi đựng đầy dịch đen nhánh, mùi dược vị đậm đặc xa gần có thể biết. Sư phó một lời cũng không nói, tiện tay ném A Tư Mạc vào thùng gỗ.

Tõm.

A Tư Mạc như một đám bùn nhão, bị chuẩn xác ném vào thùng gỗ. Nước thuốc nóng ban đầu còn ấm áp dễ chịu, khiến hắn thật sự muốn ngủ luôn trong đó. Nhưng rất nhanh nhiệt độ càng lúc càng tăng, sức nóng khủng bố khiến A Tư Mạc đang nhắm nghiền liền mở trợn tròn, đồng tử hắn co rút lại. Bất quá đó là phản ứng tự nhiên, hắn trải qua màn tra tấn này liên tục mấy ngày, biết không thể phản kháng, liền trong thùng nước khoanh chân đả tọa, vận hành Chung Nhật Thượng Thanh Đạo để tăng cường hấp thu dược lực. Hiệu quả của loại dịch thuốc này cũng rất rõ rệt, nếu không có nó, A Tư Mạc khẳng định không cách nào hoàn thành lượng huấn luyện sư phó an bài. Thứ nước thuốc này do chính tay sư phó pha chế, A Tư Mạc tự mình thể nghiệm liền nhận ra, hắn lao lực càng mệt, dược lực càng ngấm vào sâu, hiệu quả bồi bổ kích thích sự phát triển cơ thể càng tăng.

Hàng ngày đều tu luyện điên cuồng, lâu lâu lại tiến hành đặc huấn cùng tắm dược, A Tư Mạc thật sự không tìm ra chút thời gian rảnh nào để hỏi thăm về chuyện lưỡi dao kia. Mà kể cả có thời gian, hắn cũng không biết hỏi ai: sư phó trừ lúc giám sát hắn tu luyện, đều không có chút tung tích gì, hệt như thể bốc hơi mất vậy. Đại sư huynh thì kể từ hôm hắn phát hiện ra chuyện lạ kia cũng là lúc huynh ấy tiến vào Thủ Tĩnh Động bế quan một năm rưỡi. Nhị tỷ thì sau hôm đó, hết thời gian bế quan tu luyện đi ra liền chạy ngay về Khí Đường, những thời gian khác thì A Tư Mạc lại không có mặt, quả thực thời gian biểu hai người rất không hợp nhau.

A Tư Mạc theo đó cũng đành cố gắng dành chút thời gian chú ý đến lưỡi dao gia truyền ấy, mong rằng có thể tự mình tìm ra chút manh mối gì đó. Hàng ngày lên núi chặt củi, A Tư Mạc cũng không còn sử dụng thanh sài đao bình thường nữa, mà toàn dùng con dao gia truyền ấy, cứ thế thắm thoắt thoi đưa, lại qua một năm rưỡi thời gian.

Hiện tại A Tư Mạc mỗi ngày có thể chặt được hai cây Hắc Kim Tùng kích cỡ không nhỏ, nhưng như vậy vẫn còn kém xa Chu Đường Mộng, tỷ ấy một ngày có thể chặt đến mười mấy cây. Mà chuỗi ngày dài tháng rộng ấy cũng chẳng giúp hắn nghĩ ra được điều gì, ngược lại còn khiến A Tư Mạc đặt ra thêm một câu hỏi: lưỡi dao ấy không biết làm bằng vật liệu gì, mà suốt một năm trời ngày ngày bị đem ra chặt cây, vẫn không cùn đi tẹo nào. Không cần mài dũa chăm sóc gì vẫn sắc bén, người khác có thể cảm thấy là bảo vật, song hắn chỉ cảm thấy, lưỡi dao này thật khiến hắn đau đầu muốn chết. Được một thời gian, A Tư Mạc cũng đành bỏ cuộc, đem tất cả những câu hỏi đó vứt hết ra đằng sau, tập trung lao đầu vào tu luyện.

Niềm vui duy nhất của hắn, đó là hết khoảng thời gian một năm rưỡi đó, hắn liền đột phá được tầng thứ hai của Chung Nhật Thượng Thanh Đạo, lần hết tổng cộng hai năm rưỡi thời gian.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.