“Vì nước, vì nhà, vì phụ hoàng, vì huynh đệ, vì ngàn vạn dân chúng của nước Chu, hi sinh hạnh phúc của một mình bản công chúa đổi lại sự yên ổn trong mấy năm có đáng là bao? Ta tin chắc, chỉ cần cho nước Chu thêm mười năm nữa, không, năm năm nữa,1phụ hoàng nhất định vẫn còn có thể kiên trì, đến lúc đó ngũ đệ cũng đã trưởng thành, nó sẽ hiểu trọng trách mà mình đang mang. Cho dù cuối cùng nước Sở không chịu tha cho nước Chu ta mà xuất binh xâm phạm, cũng sẽ không đến nỗi ta không có chút hi8vọng thắng nào, càng không thể nào thua đến mức nước mất nhà tan được.”
Tiểu Đậu khóc không thành tiếng.
“Tần gia đời đời là trung thần, cả nhà đều là trung tướng, là lực lượng chủ yếu giúp nước Chu ta chống lại nước Sở. Tần Hằng là con cháu của Tần gia, hắn sao có2thể nhìn nhân dân Chu quốc bị người nước Sở chà đạp, cùng bản công chúa lừa mình dối người mà hạnh phúc bên nhau? Nếu hắn như vậy, thì đó chẳng phải người đàn ông mà ta yêu. Mà cô gái như vậy, cũng chẳng phải người hắn yêu.”
Chu Lam Nhi cúi đầu, nhẹ nhàng4đỡ Tiểu Đậu đang quỳ rạp dưới chân nàng đứng dậy: “Giấy vĩnh viễn không gói được lửa, nếu như để nước Sở biết bản công chúa bỏ trốn, điều này đối với nước Sở vốn tự xưng mình là thiên hạ đệ nhất cường quốc kia chắc chắn là một sự sỉ nhục vô cùng lớn. Cho dù Chiến Thần vương chịu bỏ qua, hoàng đế nước Sở cũng không thể nào coi như không biết, triều đình và con dân nước Sở lại càng không thể. Đến lúc đó, binh mã hai nước Sở - Chu phải giao chiến làm chiến tranh bùng nổ, cái giá là nước mất nhà tan, cũng chỉ vì hạnh phúc của hai người chúng ta. Tiểu Đậu, đến lúc đó, tình yêu giữa ta và Tần Hằng, không chỉ không hạnh phúc, mà ngược lại chỉ có khổ đau.”
“Công... công chúa... hu... huhu... Nhưng mà như vậy, quá... quá thiệt thòi cho người rồi, nô... nô tỳ đau xót cho người.” Tiểu Đậu khóc nấc lên, nghẹn ngào nói.
Chu Lam Nhi giơ bàn tay tái nhợt, gầy rộc, dùng khăn lụa lau dòng nước mắt tuôn trào trên gương mặt Tiểu Đậu, nở một nụ cười cay đắng: “Trời cao không cho ta chết, chỉ nói rõ thiên ý là như vậy, đây là vận mệnh mà ta không cách nào trốn thoát được.”
…
Công chúa xuất giá là cảnh tượng tráng lệ như thế nào chứ?
Dùng câu “sắc đỏ trải dài mười dặm” cũng không nói quá một chút nào. Ba người Đề đốc đại tướng quân Bình Sơn Thành, Tổng binh Bình Sơn Thành, Tuần phủ binh ở Bình Sơn Thành cùng nhau đứng ngoài thành, đích thân đón tiếp.
Cửa thành mở lớn, từ cổng thành cho đến phủ tổng binh, trên cả con đường dài đó, dân chúng quỳ đầy ở hai bên đường.
Tiểu Đậu nhẹ nhàng buông xuống một góc rèm vừa vén lên. Những người này chỉ nghĩ đến việc hòa thân, kết đồng minh của hai nước Sở - Chu thì sẽ vĩnh viễn không có chiến tranh nữa. Thế nên, bọn họ đã quên mất rốt cuộc trong lòng công chúa được gả sang nước Sở để hòa thân kia có tâm trạng như thế nào.
Ngẩng mặt không ai thân quen, quay lưng là xa nhà. Nếu hai nước thật sự không bao giờ có chiến tranh nữa, có lẽ sự hi sinh của công chúa còn được xem như đáng giá, nhưng mà hai nước có thể vĩnh viễn không xảy ra chiến tranh sao?
Điều này là không thể, công chúa hiểu rõ, những người khác cũng hiểu rõ, chỉ là vì sự yên ổn trong khoảng thời gian vài năm, mười năm, tám năm, năm năm, hay thậm chí là ba năm. Cho dù chỉ là khoảng thời gian yên ổn rất ngắn, nhưng lại hi sinh cả đời của công chúa.
Đợi cho những ngày tháng yên ổn qua đi rồi, đợi đến lúc chiến tranh giữa hai nước bùng nổ, vậy công chúa phải làm sao? Lại biết đi về đâu? Tính cách của công chúa nàng rất rõ, đến lúc đó công chúa trừ việc lấy cái chết chứng minh lòng mình ra, nàng cũng chẳng còn lựa chọn nào khác.
Nghĩ đến đây, Tiểu Đậu đau lòng nhìn về phía công chúa sắc mặt trắng bệch nhưng lại cố gắng kiên cường nở nụ cười, không nói gì mà rơi nước mắt. Lúc này, nàng chỉ hận bản thân mình không giúp được gì cho công chúa cả.
Đôi môi trắng bệch của Chu Lam Nhi nặn ra một nụ cười: “Nha đầu ngốc, đừng khóc nữa, trên cả chuyến đi ngươi cứ khóc hoài vậy?” Những giọt nước mắt mà nàng không thể khóc đều đã bị Tiểu Đậu khóc hết rồi.
Sau khi đón tôn giá của công chúa vào phủ Tổng binh, Tần Tri Hoán quay về phủ Đề đốc, sắc mặt nghiêm trọng bước vào thư phòng, một đám tướng dưới trướng của hắn đều ngơ ngác nhìn nhau.
Trong số những người đứng đó, thiếu niên nhỏ tuổi nhất mặt mày sáng sủa, cả người mặc một bộ giáp bạc nhăn mày lại. Hắn nhìn cánh cửa thư phòng đóng chặt kia, nghĩ đến tin tức truyền tới từ Kinh thành, giống như có điều gì phải suy nghĩ. Xem ra, cha là bởi vì Tứ đường huynh nên mới trở thành như vậy.
Lúc trời tối, có tiếng bẩm báo, sau khi nhìn người bước vào, tất cả mọi người sau khi hiểu ra mọi chuyện lại bắt đầu nhíu chặt đầu mày.
Người đến là Tần Hằng, mọi người ở đó đều không lạ lẫm gì. Bọn họ tuy là thuộc hạ, nhưng dựa vào tuổi tác mà nói, bọn họ đều là những thúc thúc, bá bá nhìn hắn lớn lên.
Tần Tri Nhiên - cha của Tần Hằng là trưởng tử của Tần gia, mười lăm năm trước tử trận tại biên quan Bình Sơn này. Lúc sinh thời, ông có hai người con, Tần Hằng là con thứ, năm nay hai mươi tuổi!
Hiện nay, người làm chủ Tần gia là Nhị thúc của Tần Hằng, lão nhị của Tần gia Tần Tri Phong, là thống lĩnh đội quân tiên phong cánh trái, cũng chính là Tần tướng quân nhận chức sứ thần đi nước Sở đề nghị liên hôn cho thái tử mấy tháng qua, Tần Tri Phong có hai đứa con trai.
Tiếp đến chính là lão tam của Tần gia Tần Tri Hoán, Đề đốc biên quan Bình Sơn, canh giữ biên giới nước Chu, con trai duy nhất là Tần Ức sinh ra và lớn lên tại Bình Sơn, năm nay mười lăm tuổi.
Đại ca của Tần Hằng cũng đủ mạnh để chống đỡ một bên, là chủ của một đội binh trong trấn.
Tần Hằng không dẫn binh ra trận, mà gia nhập vào đội cấm quân bảo vệ an nguy của Kinh thành, vừa đến tuổi trưởng thành đã là tướng quân, nhưng không ngờ... Lần này, hắn xuất hiện tại biên quan, không phải là tướng quân tiễn giá, mà lấy thân phận cận vệ của công chúa mà đến.
Đường đường là nhị thiếu tướng của Tần gia, vậy mà hắn lại cam lòng xin làm cận vệ của công chúa hòa thân, theo nàng đi nước Sở. Tần gia vì chuyện này chắc chắn đã nổi lên một trận phong ba bão táp, nhưng không biết hoàng thượng nghĩ gì mà lại đồng ý với thỉnh cầu của Tần Hằng, khiến cho mọi người không ai đoán được thánh ý.
“Tần Hằng bái kiến các vị tướng quân.”
“Tứ ca, cha đệ đã đợi huynh trong thư phòng rồi.” Tần Ức cười bước lên trước, chắp tay nói.
Tần Hằng nhìn thiếu niên cao ngất trước mặt, gương mặt trầm lặng lộ ra một nụ cười nhàn nhạt. Lần trước, hắn gặp Ngũ đường đệ là lần Tam thẩm và Ngũ đường đệ cùng nhau đến Kinh thành thăm tổ mẫu vào bảy năm trước. Chỉ mới chớp mắt, Ức đường đệ đã thành người trưởng thành rồi.
Bước vào thư phòng, lưng Tần Tri Hoán đối diện với cửa, đứng trước giá binh khí, chăm chú lau chùi một thanh Kim Hoàn Đại Đao.
Tần Hằng nhìn cảnh này, gương mặt vốn đã trầm mặc lại càng thêm trầm mặc hơn.
“Thanh Kim Hoàn Đại Đao này là di vật cuối cùng cha con để lại cho thúc. Mỗi khi nhìn nó, thúc liền nhớ tới trận chiến thảm khốc ở chân núi Bình Thành mười lăm năm trước. Nhiều năm nay, ta vẫn luôn trấn thủ ở Bình Sơn Thành, vẫn âm thầm nói với bản thân mình, tuyệt đối không để chuyện mười lăm năm trước xảy ra lần nữa, quyết không để cho binh tướng nước Sở bước chân vào Bình Sơn Thành một bước.” Mà con trai duy nhất của ông lấy tên là Ức Nhi, cũng vì ông muốn luôn nhắc nhở bản thân mình cả đời này không được quên trận đại chiến năm xưa, đại ca bởi vì cứu ông nên đã chết trên chiến trường.
Tần Hằng không lên tiếng, ánh mắt lưu luyến nhìn thanh đại đao kia. Kí ức của hắn về cha vốn không nhiều, kí ức duy nhất chính là cha từng nắm tay hắn dạy cho hắn đao pháp của Kim Hoàn Đại Đao...
“Nhưng, ba ngày sau, cửa biên giới Bình Sơn rộng mở, để cho kẻ tặc nước Sở đường hoàng bước từng bước lớn vào. Vừa nghĩ đến đây, trái tim của Tam thúc ta âm thầm đau đớn.”
Tần Tri Hoán nhẹ nhàng đem thanh đao bỏ lại vào giá, quay đầu nhìn Tần Hằng, thở dài một tiếng: “Đường đường là nước Đại Chu, vậy mà lại để một nữ tử yếu đuối đi hi sinh. Đời đời Tần gia chúng ta làm tướng, trung thành tận tâm với hoàng thượng và triều đình, chỉ cần giặc Sở xâm phạm, Tần gia chúng ta tan xương nát thịt cũng không sợ. Nhưng Hằng Nhi, việc quốc gia đại sự này vốn không đơn giản như chinh chiến sa trường, đầu rơi máu chảy như chúng ta nghĩ vậy.”