Pokemon: Thế Giới Đi Đến Hồi Kết

Chương 58: Ký Ức Bị Phong Ấn (Phần 1): Thôn Angas Và Đền Thờ Thần (1)



Triệu Phong rất mong chờ con pokemon này ra đời. Hiện tại Triệu Phong có một con Weedle, thế nhưng khi không có ai giúp đỡ, đến tận bây giờ hắn vẫn chưa dám thả nó ra. Bởi thế Triệu Phong mới đặt khá nhiều hi vọng vào con pokemon sắp nở. Chỉ cần nó chịu nghe theo lệnh của Triệu Phong, cho dù chỉ là tạm thời, thì không mất bao lâu là hắn có thể nhờ vào nó thu phục con Weedle kia, từ đó nắm giữ được hai con pokemon.

Triệu Phong lẳng lặng đứng yên tại chỗ như một hồn ma, yên tĩnh xuất thần. Hôm nay là một ngày nắng đẹp, cái nắng dịu nhẹ khẽ vuốt lên cơ thể Triệu Phong, khiến hắn cảm thấy thư thái và ấm áp. Ngày hôm nay có thể là thời cơ để hắn một bước lên trời, cũng có thể chỉ là một cái giấc mộng hời hợt. Rất khó để biết được nó sẽ là loại nào.

Trong lúc Triệu Phong chờ đợi, những tiếng “phạch phạch” của trực thăng làm Triệu Phong nhíu mày. Hôm nay trực thăng đi qua đây nhiều hơn hôm qua, tần suất hoạt động của chúng cũng tăng cao. Ngày hôm qua thỉnh thoảng mới có một chiếc trực thăng đi ngang qua khu vực này, hôm nay thì liên tục, cứ cách chừng 5 phút lại là có một chiếc bay qua. Triệu Phong không biết kết quả của cuộc chiến giữa quân đội và quái vật trong đêm qua, nhưng hoạt động bất thường của quân đội vào sáng hôm nay khiến hắn cảm thấy lo lắng.

Triệu Phong cố gắng suy nghĩ nguyên do, đắm chìm trong từng dòng suy luận của bản thân, bất tri bất giác đầu óc trở nên mơ hồ dần đi. Sau đó, hai mắt Triệu Phong nhắm lại, cả người hắn ngã xuống nền nhà, đột ngột rơi vào giấc ngủ.

Triệu Phong ngủ giữa ban ngày, giống như ngày hôm trước.

...

- Triệu Nguyên, có chuyện gì? – Một người đàn ông dùng giọng lạnh nhạt hỏi.

Trong cơn mơ hồ, Triệu Phong nghe được câu hỏi này. Hắn muốn mở mắt ra, nhưng không hiểu sao toàn thân lại bủn rủn, vô lực, đôi mắt không hề nghe hắn sai khiến.

- Modax, tôi cần anh giúp đỡ. – Một người đàn ông khác van xin.

“À, là ba mình và bác Modax.” – Triệu Phong thầm nghĩ, hắn có chút không hiểu vì sao mình lại ở trong hoàn cảnh này, nghe được câu chuyện này. Đây là lần đầu mẩu kí ức này xuất hiện trong đầu hắn, trong trí nhớ của hắn trước kia không hề có nó.

- Nói đi.

- Anh có thể dùng con Hypno của anh phong ấn ký ức hai năm nay của thằng bé được không?

“Chuyện gì thế này?” – Triệu Phong ngẩn ra, tự hỏi. – “Phong ấn ký ức? Vì sao?” Hắn rất muốn mở miệng cắt ngang cuộc trò chuyện của hai người, nhưng mà hắn hoàn toàn không thể làm gì. Hắn dường như bị một luồng sức mạnh nào đó áp chế, chỉ có thể hóa thân thành người thứ ba lắng nghe, mà không thể làm ra bất cứ chuyện nào khác.

- Được là được, nhưng chuyện này rất nguy hiểm, anh nhất định phải làm thế ư? Dù sao nó vẫn chỉ là một thằng bé 8 tuổi. – Nói đến hai chữ cuối cùng, giọng người đàn ông như rống lên.

- Tôi biết chứ, nó là con tôi! Nhưng vì an toàn của nó, hãy giúp tôi đi! – Người còn lại thấp giọng nói ra, giọng đầy đắng chát và đau khổ.

- Bao lâu? – Người được nhờ chần chừ một hồi, hỏi lại.

- Mãi mãi?

- Chuyện này là không thể nào.

- Vậy bằng tất cả khả năng của anh đi.

- Được. Trừ khi tôi chết, nếu không, nó không thể nhớ ra bất cứ thứ gì.

Nghe đến đây, đầu óc Triệu Phong trở nên quay cuồng, sự quay cuồng dần dần trở nên mãnh liệt chỉ trong chớp mắt. Đến cuối cùng, Triệu Phong không còn nghe thấy gì nữa, không còn cảm nhận được gì, tất cả mọi thứ đều trở nên tối sầm, Triệu Phong như lạc vào vũ trụ đen nhánh mênh mông, vô hạn. Trong cái vũ trụ đó, Triệu Phong như một cái xác, đi tới và đi tới, chỉ biết không ngừng bước tới.

Thời gian cứ thế trôi đi, Triệu Phong lạc trong thế giới đen tối, một thân một mình đầy cô độc.

Không biết qua bao lâu, Triệu Phong nhìn thấy một tia ánh sáng ở đằng trước. Theo từng bước đến gần, tia sáng kia từ nhỏ bé trở nên to lớn hơn. Cho đến khi Triệu Phong bước vào trong, nó đã to bằng một cánh cổng. Thứ ánh sáng này không chói mắt, cực kỳ dịu êm, Triệu Phong còn có cảm giác là nó hết sức quen thuộc, như thể trước kia hắn đã từng nhìn thấy nó, nhưng bản thân hắn bây giờ không hề biết tại sao lại như thế.

Vừa bước vào cánh cổng ánh sáng, đầu óc Triệu Phong lại quay cuồng lần nữa.

...

Phập! Lưỡi cuốc bổ vào những mảng tường đất, chạm phải vật rắn vô hình nào đó, nháng lửa, rồi cắm sâu và lớp đất sét. Cái cuốc vang lên một tiếng phập ngán ngẩm, rồi dừng lại.

- Chắc là nó đấy, Phong à.

Triệu Nguyên bò tới trước trong đường hầm chật cứng. Trong không gian tù túng, ông vã mồ hôi, thở hồng hộc, bắt đầu cào xới lớp đất một cách nóng nảy, hơi thở thoát ra đặc quánh trong không khí ẩm ướt.

Dưới quầng sáng kết hợp từ hai ngọn đèn pha gắn trên mũ bảo hộ của hai cha con, mỗi bụm đất được cào xới ra để lộ rõ hơn sàn ván gỗ cũ kĩ bên dưới, bày ra bề mặt nứt nẻ với các vân gỗ được tráng hắc ín.

- Đưa cho ba cái xà beng.

Triệu Phong lục lọi trong cái túi đeo lưng, tìm được một cây xà beng cùn ngắn củn, đưa cho ba nó. Ông đang chăm chú nhìn vào mảng gỗ trước mặt. Cố chèn đầu dẹt của cây xà beng vào giữa hai mảnh ván, Triệu Nguyên nghiến răng khi đè hết trọng lượng của cơ thể mình lên cái cán xà beng để tạo lực đòn bẩy. Rồi ông bắt đầu nạy từ mép này đến mép kia. Mấy mảnh ván kêu kèn kẹt, rên rỉ kháng cự lại những khớp lắp ghép gỉ sét, cho tới khi mảnh ván hết chịu nổi, vồng lên, rồi bục ra trong một tiếng kêu rắc rõ to. Triệu Phong hơi lùi lại khi một luồng gió nhẹ ẩm lạnh thoát ra từ lỗ hổng mà Triệu Nguyên vừa tạo nên.

Hai cha con hối hả rút thêm mấy mảnh ván nữa ra khỏi sàn, để lộ một lỗ hở rộng bằng bề ngang vai người, rồi dừng tay một lát trong im lặng. Cha và con quay đầu nhìn nhau, trao đổi một nụ cười thoáng qua đầy bí ẩn. Gương mặt của người này lờ mờ trong ánh sáng rọi ra từ chiếc đèn pha trên mũ của người kia, bê bết dấu vết cuộc vật lộn với bùn đất.

Hai người quay lại cái lỗ chăm chú nhìn những hạt bụi lơ lửng như những hạt kim cương tí ti, tựu rồi tan rồi tựu lại thành những chòm sao không tên trên nền tối như đêm của lỗ hổng.

Triệu Nguyên thận trọng chồm qua khoảng trống. Triệu Phong ép người bên cạnh cha để nhìn ké qua vai ông. Khi ánh sáng đèn pha rọi vào hố, một bức tường lát gạch hiện ra rất rõ. Đèn pha của họ rọi xuống sâu hơn, quét qua mấy tấm áp phích cũ đã long hồ ở góc, sút ra và phất phơ nhè nhẹ, như tua rong biển bị kẹt giữa những dòng chảy mạnh dưới đáy đại dương. Triệu Phong hơi ngẩng đầu lên một chút, để ánh sáng đèn pha quét xa hơn, cho tới khi nó bắt gặp một biểu tượng tráng men. Triệu Nguyên dõi theo ánh đèn của con trai cho đến khi ánh sáng hai ngọn đèn pha của họ trùng nhau để soi tỏ cái tên trên biểu tượng.

- Sương Mù! Đúng là nó rồi, Triệu Phong, đúng là nó! Chúng ta đã phát hiện ra nó!

Tiếng nói hồ hởi của Triệu Nguyên vang vọng trong khoảng không giới hạn ẩm ướt của ga xe lửa bỏ hoang. Hai cha con cảm thấy một làn gió nhẹ thoảng qua mặt họ như thể có cái gì đó thổi dọc sân ga, xuôi xuống đường ray, như thể cái đó bị kinh hoảng bấn loạn vì sự đột nhập thô bạo vào hầm mộ bị đóng kín và lãng quên sau hàng bao nhiêu năm trời này.

Triệu Phong đá loạn xị vào mấy sớ gỗ chân đế của chỗ thủng, làm những mảnh vụ gỗ ván mục bắn tung tóe, cho tới khi cái sàn dưới chân nó bỗng dưng trượt đi và banh ra thành một cái hang. Nó bò qua khoảng trống, vớ theo cái xẻng. Triệu Nguyên lập tức đuổi theo sau. Hai cha con gây ra mấy tiếng răng rắc khi vượt được mấy bước trên bề mặt rắn chắc của sân ga, tiếng chân họ vang vọng, ngọn đèn pha trên mũ họ soi những luồng sáng vào cõi mù mờ chung quanh.

Mạng nhện giăng chằng chịt trên nóc và Triệu Nguyên thổi phù phù khi một cái mạng nhện báo vào mặt. Khi ông nhìn quanh, ánh đèn pha của ông chiếu qua đứa con trai, một hình ảnh kỳ lạ của một mớ tóc trắng như rơm bị tẩy màu xù ra dưới cái mũ thợ mỏ đã cũ kĩ bầm dập, hai con mắt xanh nhạt của nó nhấp nhá sáng niềm say mê khi nó chớp mắt nhìn vào bóng tối. Khó miêu tả được áo quần của Triệu Phong, đại khái quần áo của nó có vẻ nhòe nhoẹt với đất sét bết vào khắp người nó, lên đến tận cổ, khiến nó giống như một bức tượng của một nhà điêu khắc được phả cho sự sống một cách huyền bí.

Còn Triệu Nguyên là một người đàn ông dẻo dai có chiều cao trung bình - người ta không thể miêu tả là ông cao, mà cũng không thể nói là ông lùn, đại khái là tầm thước. Mặt ông tròn trịa, đôi mắt nâu sáng trông càng sắc sảo nhờ đôi kính có tròng thạch anh và gọng vàng.

- Nhìn lên kia kìa, con à, nhìn cái đó!

Ông nói, đồng thời ánh đèn của ông soi vào một biển hiệu gắn trên cái lỗ trống mà hai cha con vừa chui vào. Cái biển ghi bằng chữ đen to đùng: Lối Ra. Hai cha con bật đèn soi cầm tay, và chùm ánh sáng kết hợp với ánh đèn yếu hơn gắn trên mũ cối xuyên thủng bóng tối để lộ nguyên ra một sân ga đầy đủ. Rễ cây lòng thòng dưới nóc, tường thì loang lổ từng mảng và vằn vện những sọc vôi bạc phếu ở những nơi kẽ nứt ngấm hơi ẩm. Hai cha con còn nghe thấy tiếng nước chảy ở đâu đó xa xa.

Với vẻ đắc thắng tự thưởng, Triệu Nguyên nói:

- Con thấy phát hiện này sao? Thử nghĩ coi, chưa từng một người nào từng đặt chân xuống đây kể từ khi thôn Angas được xây dựng lại.

Hai cha con đã đi tới đoạn cuối sân ga, Triệu Nguyên lúc này đang chiếu đèn soi vào khoảng trống của đường hầm xe lửa ở bên cạnh. Một đống gạch và đất đá vụn đã bít miệng đường hầm. Triệu Nguyên nói:

- Đầu kia cũng sẽ giống như vậy thôi, ắt là người ta đã bít cả hai đường hầm.

Khi hai cha con vạch đường đi dài theo sân ga chăm chú nhìn mấy bức tường, họ chỉ có thể nhận ra mấy mảnh gạch lát màu kem có cạnh màu xanh đen bị rạn nứt lung tung. Cứ cách khoảng ba thước thì nhô cao lên một ngọn đèn khí, trên chụp đèn bằng kính vẫn còn những con số.

Triệu Phong kêu lên:

- Ba! Ba ơi, lại đây! Ba thấy mấy áp phích này chưa? Còn đọc được đó. Con đoán mấy tấm áp phích này quảng cáo về đất đai hay gì đó. Tấm này còn rõ nè… Đoàn kịch Nam Á… sẽ diễn ra tại sân Tình Thương… ngày 10 tháng 2 năm 1775. Có một tấm hình kìa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.