Mặt trời đã ló dạng xuyên rạch tầng mây chiếu xuống nhân gian, đậu xuống trước chúng tăng đang ngồi nghỉ chân dưới đảo Kính Sơn. Sau cơn mưa ồ ạt, bầu trời trong xanh của Kỳ Linh Châu như được rửa sạch. Không Phạm vươn tay ra, cẩn thận đón những tia vàng vọt xuyên qua kẽ tay. Một lúc sau đứng dậy, nhẩm tính đã qua hai canh giờ, mang chúng tăng đi về phía Minh Kính sơn trang trên đỉnh núi.
Dọc đường đi cực kỳ lặng phắc, trong không khí còn thoảng mùi máu sau trận chiến kịch liệt, Không Phạm nhíu mày, dường như đã dự cảm được chuyện gì đó.
Còn chưa đi tới sườn núi, mùi máu xung quanh dần dần dậm đặc, trước mặt toàn là cảnh tượng hỗn loạn. Những tên đang nằm lầy lội khắp chốn cách đây không lâu còn đang muốn giết hết bọn họ chính là đám giang hồ chính phái. Nhìn từ những vết chém loang lổ mà thấy, đây đích thị là tách phẩm của đám hòa thượng Bồ Phong tự nhe răng múa vuốt.
Chỉ nhìn thảm thực vật trong núi dù vết thương thì chất chồng, mọi người trải qua mấy hồi ác chiến, mà người chết tình không quá nhiều, có thể là lúc trước sư huynh láy máu bức độc, gạt bọn họ nuốt viên thuốc kia.
Cũng không biết người nọ hiện tại đang ở phương nào, đã cởi bỏ khúc mắc với sư phụ chưa.
Không Phạm niêm tiếng A Di Đà Phật, biết bọn họ đến quá trễ, bảo đệ tử tùy thân đi cứu mấy hiệp khác đã ngã xuống vũng máu vẫn còn hơi thể, rồi chuyển mấy thi thể những người đã chết ra khỏi nơi bẩn thỉu kia, siêu độ bọn họ tại đây. Còn mình thì lần theo khí tức khó phát hiện phiêu đãng trong không khí đi tìm hai người kia.
Cuối cùng ở một gian trong mật trang ngửi được khí tức của sư huynh và sư phụ, hắn đi vào nhìn, trong đình viện chỉ có Thi Minh Phủ đôi mắt buồn bã, cùng với lão hòa thượng cuộn mình trên mặt đất không rõ sống chết.
Thi Minh Phủ lúc này mới tỉnh táo lại, thấy người tới là Không Phạm, cuống quýt áy náy thi lễ nói: “Không Phạm sư phụ, phúc trước Trúc Gian phái không biết rõ mặt người, đắc tội với các vị ở trong trang này. Chúng ta ngu dốt, mong sư phụ thứ lỗi.”
Không Phạm hơi gật đầu, không để mấy chuyện lúc trước trong lòng, nhíy mày nhìn lão tăng còn đang giãy dụa trên mặt đất, mở miệng nói: “Sư huynh ta…”
Thi Minh Phủ nghe xong nghẹn lời, không biết nên trả lời thế nào.
Không Phạm cúi người xuống dò hơi thở của Triệt Hải, phát hiện hắn còn sống, kinh ngạc nhíu mày, cho rằng sư huynh thả cho ma đầu này một con đường sống. Khắc sau lại phát hiện kinh mạch hắn bạo động, thân thể giống như vỏ cây xuất hiện vô số vết sưng nhỏ, lúc này mới đột nhiên lưi ra sau một nước, bóp mũi mình rởi xa lão tăng đang quằn quại kia.
Sư huynh hắn thật sự tàn nhẫn đến vậy, chẳng nhưng không dứt khoát gi.ết c.hết ma đầu này, còn thả trùng bị cấm nhiều năm trong Đại Ninh tự, tự do gặm nhấm xương máu của Triệt Hải, đồng thời cũng ám thị hắn không thể nào tự sát, có thể xưng là hình phạt độc ác tàn nhẫn nhất thế gian.
“Khiến cho Thi chưởng môn chê cười rồi.” Không Phạm chắp hai tay lại, xoay người nói với chưởng môn phái Trúc Gian đã chứng kiến hết thảy, “Những việc xảy ra hai ngày nay trong Minh Kính sơn trang không nên để người ngoài biết. Chung ta có để hai chiếc thuyền dưới chân núi, Thi chưởng môn có thể dẫn đệ tử về trước, những việc còn lại để Đại Ninh tự chúng ta làm là được.”
Không Phạm nói bình thản thong thả, cũng không hề mang ý uy hiếp cảnh cáo, giống như lời nhắc nhở thiện ý với người ngoài cuộc.
Thi Minh Phủ không nói gì, chỉ ôm quyền.
Mang theo một số đệ tử Trúc Gian Phái trở lại núi U Tranh, hắn nhìn cây trúc xanh mơn mởn trong núi, bỗng cảm thấy mệt mỏi, lần đầu tiên mới thấy mình thật sự đã già rồi.
Sau khi truyền vị trí chưởng môn cho đại đệ tử, Thi Minh Phủ rửa tay gác kiếm, từ nay về sau không hỏi chuyện trong giang hồ nữa.
Cũng bởi vậy từ nay về sau không ai biết, hắn là người duy nhất trong võ lâm biết quan hệ triền miên giữa hai đời yêu tăng sóng gió, cũng ôm bí mật này xuống dưới mồ.
Tiếng ác nhiều năm của Đại Ninh tự đã được rửa sạch, Bồ Phong tự trong một năm thân bại danh liệt, cũng bởi vì không ít danh sĩ giang hồ trải qua kiếp nạn trong Minh Kính sơn trang, thế lực thiên hạ một lần nữa lại xáo trộn.
Mà sau này, thế gian không còn ai thấy diễm tăng Triệt Liên xinh đẹp phong lưu kia nữa, kể cả danh hào nhiều năm trước của pháp sư Già Ngọc, dần dần đã bị phủ bụi trong trang sách dã sử muôn màu muôn vẻ giữa phố phường, không được người cõi tục nhớ đến.
……
Nhiều ngày sau trở lại Đại Ninh tự, trong núi đang là buổi chiều năng đẹp. Không Phạm nhạt phiến lá đậu trên vai, ra chiều suy nghĩ nhìn về phía thiền phòng phía Đông Nam.
Hắn ra khỏi La Hán đường, phủi đi lớp bụi dính trên tấm bia, dặn các đệ tử quét sạch sẽ rồi niệm kinh, còn mình thì đi thiền phòng lấp ló dưới mảng xanh biếc kia, đứng ngoài cửa sổ nhìn vào trong, do dự một lúc vẫn đẩy cửa, bước tới trước người đang say sưa nằm trước tượng Di Lặc kia.
Người nọ túy lúy không biết đã bao nhiêu ngày, thần trí mơ hồ không rõ dựa vào cạnh vò rượu ngủ, nghe tiếng vang cũng chỉ hé mắt phượng mông lung nhìn hắn, rồi vẫn gục đầu ngủ tiếp.
Không biết hắn ở trong mộng thúc dục công pháp gì, mái tóc đen dài như suối trải đến bên hông, chuỗi tràng bị kéo vương vãi trên giường, hai gò má hồng hồng cực kỳ phong tình, khắp người nóng hôi hổi. Không Phạm lẳng lặng nhìn hắn hồi lâu, ra cửa lấy chậu nước, đến ngồi bên cạnh vắt khăn khô nhẹ nhàng lau mồ hôi trên thái dương hắn.
Triệt Liên say bảy ngày liên tục, Không Phạm cũng để mặc hắn say bảy ngày, chỉ trộm pha nước trong mấy vò rượu nồng nặc của hắn, cuối cùng ép hắn tỉnh lại tỏng cõi mộng, đập bình rượu nhìn ra ngoài cửa sổ ngẩn người.
Không Phạm thấy hai mắt hắn đã tỉnh táo, trưởng mình đã giúp hắn giải rượu, bèn đi tìm kéo muốn cắt mái tóc dài kia. Ai ngờ Triệt Liên đột nhiên cảnh giác, tránh cái kéo của hắn thu mình vào một góc, lại mở một vò rượu mạnh mà hắn không biết đã bị hắn pha bao nhiêu nước.
Không Phạm thở dài, không hiểu nổi cái tính trẻ con trong cơn say của sư huynh, thấy chiếc lược ngà rời trên giường, hắn nhạt lên tiến đến chải đầu, chải hết những nút rối tung giữa hai đầu gối, bất lực nói: “Sư huynh, tội gì phải vậy?”
Triệt Liên cũng không nhìn hắn, vẫn nhìn bóng râm ngàoi cửa sổ, để hắn ở phía sau chải lại mái tóc dài do nội công bức sinh ra, hồi lâu mới nhấp ngụm rượu nhạt nhẽo, nhỏ giọng nói:
“…… Ngươi đã sớm biết Minh Nhi là sư phụ chuyển thế.”
Giọng điệu của hắn bình thản, trên mặt mặc dù đang chất vất, nhưng trong lời nói lại tràn đầy khẳng định.
“Không sai. Ta biết từ lúc người bảy tuổi.” Không Phạm ngừng một chút, buông chiếc lược ngà trong tay xuống, híp mắt nói, “Tính tình người nọ chưa bao giừo thay đổi. Thích người đẹp nhất.”
Dứt lời lại nói không rõ cười hàm tiếu: “Đáng tiếc hai đời luân hổi, y vẫn một lòng với ngươi, mà trong lòng người chỉ có báo thù, chưa từng yêu y. Hôm nay làm tổn thương y, cớ gì lại ngồi một mình uống rượu ở chỗ này?”
“Cái này gọi là gì.”
Triệt Liên cười khẽ, ném vò rượu trống rỗng, cuộn mình lại thì thào nói.
“Ta làm sao không yêu y… Làm sao ta không yêu y cho được?”
……
Triệt Liên còn nhớ rõ năm đó là lần đầu tiên nhìn thấy Thích Già Ngọc, mình đã là một lão tăng đang dạo một vòng ở Ải Cửa Quỷ, thân hình già nua héo tàn khô quắp queo quỳ ở đó, cầu xin y cứu mạng mình, nhưng không dám ngẩng đầu lên nhìn người nọ.
Từng là hòa thượng phong lưu nhất thế tục ở Bồ Phong tự, hắn tự cho rằng mình đã nhìn thấy hết mỹ nhân trên thế gian này, kiếp này sẽ không bao giờ rung động trước mỹ lệ nhân gian nữa, nhưng lần đầu tiên nhìn thấy y, lòng đã rung động, cứ vậy mà chìm đắm vào trong đó.
Lúc đó Thích Già Ngọc ngồi trên thềm đá, mặt không thay đổi đánh giá hắn, trong đối mắt câu hồn kia lóe ránh ánh sáng khiến hắn nhìn không rõ.
Hắn đã ở nhân gian hơn chín mươi năm, lần đầu tiên mê mẩn hoa mắt bởi tư thế quật cường của tăng lữ, đó là thứ mà ngay cả khi hắn còn trẻ cũng không thể sánh được.
Cuộc đời này có thể phong lưu một đêm với nhân vật thần tiên như vậy, hắn không còn gì nuối tiếc nữa.
Thích Già Ngọc muốn hắn làm đệ tử ấm giường của mình, hắn càng cầu còn không được.
Chỉ là khi đó hắn còn chưa hiểu tình yêu là gì, không biết nguồn gốc của tình triều dâng trào này kỳ thực là tình yêu nơi cõi tục, càng không biết người nọ nhìn mình bằng ánh mắt nóng bỏng, chỉ xem như Thích Già Ngọc thích vẻ phong tình trên giường cảu hắn, càng vì lòng báo thú tràn đầy, mà đã bỏ y suốt mười năm.
Mười năm sau Thích Già Ngọc lấy tu vi mật pháp Đoạt tướng độ hắn, không nói một lời hòa vào cõi trần muôn hồng nghìn tía. Mà hắn vì kinh mạch bị hao tổn ngủ say mấy năm, sau khi tỉnh lại thì điều dưỡng, ngăn chặn mật phát khó lắm mới ổn định ở tầng thứ sáu đang cắn trả, lúc này mới vội vàng xuống núi tìm y.
Tin tức từ từ thám tử rất ít ỏi, chỉ có một người để cho hắn ba chữ, Việt gia trang.
Sau khi nghe được Việt gia trang nằm ở Giang Châu, hắn suốt đêm chạy tới, muốn trước khi bị cắn trả tìm được Thích Già Ngọc, nào biết rằng mình vẫn chậm một bước. Lục phủ ngữ tạng đau như dao cắt khiến hắn dừng ở chân núi U Trang, vừa khổ sở nghĩ kế sách, vừa dời mắt vào tiểu công tử đang uống trà ngon lành.
Tiểu công tử diện mạo tuấn tú linh khí kia xuất thân từ gia đình giàu có, đang nhàn nhã ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh mưa đầu xuân ở núi U Tranh, thi thoảng dựng thẳng lỗ tai nghe mấy tên hiệp khách nói chuyện phiếm, khóe môi cong cong tựa như khinh thường.
Thấy hắn lên tiếng châm chọc mấy tên giang hồ l.ỗ mãng kia, không khí giằng co phủ khắp quán trà, Triệt Liên ra tay giải vây thay y, ý bảo y ngồi cạnh mình. Tiểu công tử kia không hề nghi ngờ hắn, mang theo đôi mắt lấp lánh ngồi xuống đối diện hắn. Khi nhìn thấy dung mạo của hắn cũng không nhịn được vẻ kinh ngạc trong mắt, thật sự rất hợp ý y.
Vì thế những thứ kế tiếp, cũng có thể gọi là thuận lý thành chương.
Hắn chưa bao giờ làm chuyện đó với ai khác ngoài Thích Già Ngọc, thân ở trong Đại Ninh tự không cần nói, ngày thường cũng không rảnh rỗi đi tuyên dâm khắp nơi. Vì bị cắn trả, nên mới mây mưa một lần với thiếu niên này, cảm giác cũng không tệ.
Sau đó hắn bị thiếu niên này quấn lấy không cách nào bỏ ra được.
Hắn trèo đèo lội suối đến Giang Châu tìm Việt gia trang, nhận được tin người nọ đã sớm tọa hóa. Hắn nhìn thấy thi thể của y, lại nhìn thấy thư tình của y, lúcnafy mới biết người nọ yêu hắn sâu đậm đến vậy. Đáng tiếc hắn đã bỏ lỡ bốn mươi năm, duyên phận kiếp này giữa hai người đã chấm hết.
Mà thật ra, hắn cảm tháy không quá buồn, như thể người kia chưa bao giừo thực sự rời khỏi hắn.
Có lẽ bởi vì bên cạnh có thiếu niên kế thừa huyết mạch của y.
Việt Minh Khê tuổi trẻ nhiệt tình, chân thành đáng yêu, khác hẳn với vị sư phụ thường xuyên châm chọc khiêu khích mình, mỗi lời nói mỗi hành động luôn khiến mình mê muội không thoát.
Mà tiểu công tử nhà giàu trải qua tình một đêm với mình lại tựa như quen thuộc với tất cả điểm mẫn cảm trên người hắn.
Kiếm khách trẻ tuổi mới đặt chân lên chốn giang hồ ở trong lò Bách Luyện lại có thể sử dụng thuật huyễn hóa mà ngay cả trưởng lão Tam Thanh giáo cũng chưa chắc đã am hiểu.
Việt Minh Khê thích ngọt yêu cay, thích thu thập các vật thủ công, mỗi lần thể hiện ra phong thái rất giống người nọ. Mới đầu Triệt Liên tưởng mình bị hồ đò rồi, lại để tiểu thiếu niên đơn thuần này làm thế thân của Thích Già Ngọc. Dần dã cũng cảm thấy khả năng có thể xảy ra.
Chỉ là hắn một bên tình nguyện an ủi mình, những điểm tương đồng này trong lòng hắn chỉ là do hai người có chung dòng máu. Việt Minh Khê vẫn là tiểu thiếu niên nằm trong ngực hắn, cho đến ngày đó khi hai người chia tay trong ảo cảnh, Thích Già Ngọc từ trong cõi chết đi ra.
“Nếu sư huynh ngươi đã nhận ra, vì sao lần lữa không chịu đồng ý, để y đi như vậy?” Không Phạm hỏi.
Triệt Liên trầm mặc một lúc lâu, cuối cùng cười khổ nói: “Ta không dám. Nếu tất cả những chuyện này chỉ là cảm giác tội lỗi của ta, y chỉ là một thiếu trang chủ Việt gia trang thích một diễm tăng, hai người chúng ta cả đời này nhất định sẽ đường ai nấy đi, trong lòng đều có chí hướng riêng. Nểu ta tu đến trường sinh bất lão, sau khi báo thù sẽ bầu bạn cạnh Thế Tôn chăm chỉ lễ Phật để chuộc tội, cho dù thật sự cởi bỏ áo tăng hoàn tục làm thê tử của y, cả đời này y cũng chỉ muốn làm khách tiêu dao khắp hồng trần. Trăm năm sau cuối cùng hắn cũng phải già đi, để lại một mình ta cổ lẻ trên thế gian. Thay vì kết quả lại phải trải qua nỗi đau ly biệt, chi bằng ta thà làm một Thích Triệt Liên vô tâm vô tình còn hơn.”
Hắn nhắm mặt lại, mệt mỏi nói: “Mà nếu y thật sự là Già Ngọc, sau khi trờ về với thân phận của mình vẫn làm pháp sư phong vân của Đại Ninh tự. Đệ tử dưới tòa có hàng ngàn hàng vạn, ta lại được y yêu thích, làm sao có thể độc chiếm được? Đúng như kiếp trước y tuyên bố yêu ta hết mực, nhưng vẫn nhận người làm. Năm đó ta chưa bao giờ ghen, nhưng giờ nghĩ lại, ta thấy rất buồn cười.”
Dứt lời rồi dừng lại, trong lời nói mờ mờ tỏ ra ý tự giễu
“…… Trước khi y xuất hiện, ta thực sự đã nghĩ như vậy. Mà bây giờ ta đã ngộ ra, chỉ trách mình ngu không thể tả. Muốn cùng y trở về như ban đầu thì quá muộn rồi. Y sẽ không bao giờ muốn đại mỹ nhân của mình nữa.”
“……”
Không Phạm nghe xong, một đôi mày thanh tú nhíu càng chặt, cuối cùng dở khóc dở cười nói một câu: “Sư huynh, ta không biết ngươi quả nhiên là một tên vô cùng ngu ngốc đến thế.”
Thấy Triệt Liên sửng sốt, hoang mang nhìn về phía mình, Không Phạm thở dài nói: “Mắt thấy nhất định là thật sao? Ngươi nói ta từng là khách của y, cũng chỉ mới gặp y ở lại tăng phòng của ta, sao nhất định biết ta với y từng làm chuyện kia?”
Không đợi Triệt Liên phản ứng, hắn tiếp tục nói: “Ngoại trừ quá khứ bị lão già độc ácTriệt Hải cưỡ.ng hiếp khi còn trẻ, y chưa bao giờ mây mưa với bất kỳ đệ tử nào trừ ngươi, tâm tư y giành cho ngươi cả Đại Ninh tự này đều nhìn thấy rõ.”
Triệt Liên run rẩy trong lòng, ngồi bật dậy trên trường kỷ, đôi mắt say rượu mơ hồ lóe sáng: “Ta. Y…”
“Y hiện tại đang trở về Việt gia trang. Mau đuổi theo đi, hết thảy vẫn còn kịp.”
Xuân Độ
Thấy sư đệ nói chắc nịch, trái tim vốn đang trì trệ của Triệt Liên cũng dấy lên một tia hy vọng. Lập tức xuống giường thay quần áo, thu dọn hành lý lên đường. Hắn vén mái tóc dài ra sau, ánh mắt rơi vào chiếc lược ngà vẫn nàm trong tay Không Phạm, bỗng nhiên ảm đạm hẳn:
“Nhưng ngày đó y từng nghiêm túc thông báo cho ta, nếu ta thật sự chỉ đi cùng y tới đó, thì cho dù ngày sau ta có hội hận đi nữa, muốn bám riết theo y, y cũng tuyệt đối không mềm lòng. “
Không Phạm nghe xong thở dài nói, “Sư huynh, ngươi đã làm đệ tử ở núi Đại Ninh này mười năm, còn không biết sư phụ miệng cứng lòng mềm hay sao? Chuyện khác thì không nói tới, năm đó y giận ngươi la hét đòi đuổi ngươi ra ngoài không dưới một lần, nhưng có lần nào làm thật đâu?”
Triệt Liên bật tỉnh trong mộng, không chần chờ thêm, đứng dậy cầm lấy kéo Không Phạm đặt trên bàn, cắt mái tóc dài chấm gối đến ngang vai, lại lấy Độ Duyên [1]của mình ra nhìn vài lần, hai mắt tối dần, một khắc sau giơ tay xé nát nó.
Hắn nhìn Không Phạm đang ngạc nhiên không thôi, cười nói:
“Sư độ tốt, ta đi tìm y trở về đây. “
Không Phạm ngẩn người hồi lâu, cúi đầu lướt mắt qua những vật tăng lữ bị sư huynh vứt ở một bên, nhìn thấy một quyển trục đen kịt lẫn trong đó, nhướng mày hỏi:m “Sư huynh, Đoạt tướng này…”
“Không cần. Ngươi cứ cầm lấy đi, cất giữ cho tốt, sau này tu luyện với các đệ tử trong chùa là được.” Triệt Liên nói xong đội nón, khong thèm liếc mắt nhìn Đoạt Tướng mình từng ước mơ nhiều năm, ném Phật châu cầm kiếm trong tay, “Nếu y muốn trường sinh, ta sẽ tiếp tục tu luyện cùng y. Nếu y muốn trải qua luân hồi, ta sẽ theo đến cùng, vứt bỏ công pháp này cùng già đi với y.”
Không Phạm nhìn hắn đổi trang phục của võ sĩ bình thường, không nhìn tăng y áo áo bị mình vứt bỏ, quyết tâm hoàn tục, trong lòng khắc khoải không nguôi, cuối cùng đứng dậy gật đầu với hắn, nói:
“Thuận buồm xuôi gió.”
……
……
Nhiều năm trước khi Không Phạm lần đầu tiên nhìn thấy Thích Già Ngọc, danh tiếng của y trong giang hồ này chói như mặt trời ban trưa, tình nùng ý mật với Triệt Liên, mang nhóm tăng lữ trong chùa cùng xuống núi bố thí, giày cỏ giẫm lên con đường cũ kỹ quanh co, trong đôi mắt đầy sao lơ đãng nhìn y, dễ dàng len lỏi vào trái tim hắn.
Hắn xuất thân từ nơi khói hoa mịt mùng, cha mẹ tỷ muội đều là người chốn lầu hồng, qua tuổi nổi danh sẽ dần đi xuống, giành chỗ ngủ miếng ăn với đám người ăn xin quần áo rách rưới, nhưng lại không nỡ ròi đi, trốn phái sau mọi người nhìn Thích Già Ngọc, cuối cùng bị y phát hiện.
“Liên nhi, ngươi xem kìa.” Hắn thấy Thích Già Ngọc nói chuyện với tăng nhân bên cạnh, cười tủm tỉm nói, “Đứa nhỏ này đúng là ngọc đẹp lẫn trong bụi trần, sinh nhầm vào nhà ăn xin, rất giống với Liên nhi.”
Hắn nghe vậy trong lòng tự hỏi, không biết pháp sư Đại Ninh tự trẻ tuổi này vì sao lại gọi mình là đứa nhỏ, nhưng hắn không mở miệng, chỉ mặc cho tăng nhân bên cạnh nâng cái nón trên đỉnh đầu, thản nhiên nhìn mình.
“Ngươi nói đúng.” Tăng nhân kia khẽ cười ra tiếng, chấp nhận cách nói này.
Xuyên qua chiếc mũ màu xanh, hắn thấy dung mạo của tăng nhân kia, đoan chính phong lưu tuấn mỹ hoàn toàn khôgn giống với Thích Già Ngọc, nhưng cũng là nhân vật thần tiên. Hắn không biết mình có năng lực gì, lại được đem ra so sánh với diễm tăng, chỉ đành cúi đầu im lặng.
Thích Già Ngọc đánh giá hắn, dáng vẻ cực kỳ hứng thú, một lúc sau đề nghị: “Tiểu mỹ nhân, không bằng ngươi đừng làm ăn xin nữa, lên Đại Ninh tự chúng ta tu hành an thân thì sao? Nơi này không giống như những chùa Phật bình thường, không cần thủ năm giới, còn có thể dạy ngươi công pháp trường sinh bất lão.. Ngươi nghĩ thử xem?”
Lời này nghe như không thật, nhưng vì đôi mắt tràn đày ý cười dịu dàng kia, không hề mang ý nghi ngờ nào, vừa vặn cùng hợp với ý nghĩa mới nảy sinh trong đầu Không Phạm. Hắn vội vàng gật đầu, về nhà từ biệt đại tỳ tử, thu dọn hành lý theo chúng tăng lên núi Đại Ninh.
Hắn từng có một cái tên vô cùng tục khí, sau khi Thích Già Ngọc cân nhắc thật lâu, đặt pháp danh Không Phạm này cho hắn.
Từ đó về sau hắn vô cùng thích pháp danh của mình, tạm biệt quá khứ khó nhọc trong chốn bụi hồng kia, ở trong Đại Ninh tự này thành Diễm tăng Không Phạm đời thứ hai.
Hắn đã để ý Thích Già Ngọc từ sớm, không giống như sư phjuj luôn lo lắng không chịu bày tỏ tình ý của mình, cuộ cống nhiều năm ở lầu hồng khiến hắn cực kỳ nhạy cảm với những cảm xúc như vậy, vì vậy sáng sớm hắn đã thổ lộ mọi chuyện với Thích Già Ngọc, nhưng Thích Già Ngọc chỉ ngẩn người sau đó cường gượng từ chối hắn.
Tuy rằng trong lòng hắn biết mình không xứng với người thần tiên như vậy, nhưng lòng lại trùng xuống, “Chẳng lẽ sư phụ chê xuất thân của ta không sạch sẽ, không cách nào sánh vai với người sao?” Lúc đó hắn đã hỏi vậy.
“Nào có lý này.” Thích Già Ngọc cắt dứt dòng suy nghĩ của hắn, bất đắc dĩ giải thích, “Thiện hạ không ai có thể quyết đinh xuất của mình, chỉ cần tâm minh tịnh, sao lại nói sạch với không sạch? Chỉ trách tình cảm của ta đã sớm nở, khi còn trẻ đã quyết chung tình cả đời với người, gặp Phạm nhi quá muộn mà thôi.”
Không Phạm suy nghĩ một hồi, sực tỉnh nói, “Chẳng lẽ sư phụ chung tình với sư huynh sao?”
Rầm một tếng, chân Thích Già Ngọc lảo đảo, vẻ mặt đỏ bừng đứng phắt dậy che miệng hắn, liếc Triệt Liên đang giảng đạo lý cho các đệ tử cách đó không xa, vội vàng đằng hắng.
Không Phạm hiểu ngay, đôi mắt phượng cực kỳ giống Triệt Liên kia chớp chớp, sau đó bình tĩnh lại.
Trong lòng hắn, người trên thế gian có thể xứng đôi với sư phụ hiếm như lông phượng giác lân. Nhưng nếu người nọ là sư huynh, mặc dù hắn không cam lòng, nhưng cũng không có ý kiến gì.
Vì thế cũng đành phải miễn cưỡng thu lại phần suy nghĩ này, nên làm đệ tử quy củ nhất, dưới sự bày mưu tính kế của sư phụ bảo vệ bí mật này thay hắn. Mỗi lần y nhìn Triệt Liên nhu tình như nước, thỉnh thoảng thì mặt mày lạnh lùng. Cũng bởi vì được coi là người duy nhất biết bí mật của sư phụ, thi thoảng lại bị Thích Già Ngọc gọi tới than thở, tựa hồ cực kỳ oán hận sư huynh.
“Mới vừa rồi ta gặp hắn ở cửa phòng Phạm nhi, hắn hỏi ta trễ vậy muốn đi đâu, ta hừ lạnh nói tối nay song tu Phạm nhi, ngươi đoán xem hắn nói gì?”
Không Phạm lắc đầu, Thích Già Ngọc nói tiếp: “Hắn lại trả lời: Như thế cũng tốt, mấy nay muốn đọc chút thi thư, sư phụ cứ ở cạnh sư đệ thêm mấy ngày, ta cũng muốn được thanh tịnh.”
Thích Già Ngọc tức giận kêu bù lu bù loa, dứt lời nhảy phắt lên giường, vùi đầu vào gối mềm, lăn qua lộn lại mấy vòng sau đó chửi rủa:
“Hòa thượng thối! Con lừa trọc chết tiệt! Ta nói muốn mây mưa với người khác, ngươi không thèm để ý? Muốn thanh tịnh đúng không, vậy sẽ như ngươi mong muốn!”
Không Phạm nghe được á khẩu, rất muốn nói một câu kỳ thật sư phụ ngài cũng là con lừa trọc chết tiệt của hòa thượng thối mà…
Nhưng hắn chỉ cười khổ, biết sư phụ chỉ là đứa nhỏ không biết biểu lộ tình cảm mình, nên dung túng vài phần. Nghe nửa câu giận dỗi kia, tỏng lòng hắn không ngăn nổi tia gợn sóng kia, ánh mắt chưa tia kỳ lạ nhìn Thích Già Ngọc, phát hiện y đã sớm nằm sấp trên giường mình ngủ say khò khò.
Vì thế chỉ thở dài, xoày người lấy chiếu trong tủ ra, trải bên giường vừa một người ngủ.
Sau đó cuộc sống vẫn như xưa, Thích Già Ngọc và Triệt Liên ở chung không mặn không nhạt, Không Phạm nhìn thấy, trong lòng cũng sốt ruột thay sư phụ. Đáng tiếc sư phụ không cho phép hắn nói với Triệt Liên, thân là người ngoài cuộc hắn cũng không thể nói được gì.
Thân là đệ tử đồng môn ái mộ Thích Già Ngọc, tình cảm của hắn đối với Triệt Liên không tính là ghen ghét, nhưng cũng tuyệt đối không thể gọi là tốt đẹp. Mỗi khi Thích Già Ngọc đến Lân Châu giảng đạo trở về, cùng chúng tăng trong chùa phát lễ vật, Không Phạm sẽ cố ý vô tình tranh một phần vốn thuộc về mình với Triệt Liên, mấy lần sau người nọ cũng nhận ra sư đệ không thích mình, nhưng cũng lười suy nghĩ nguyên nhân trong đó.
Không Phạm biết sư phụ luôn dành thứ tốt nhất cho sư huynh, nhưng vẫn muốn dành một phần tín vật riêng cho hắn, mà Thích Già Ngọc cũng dễ dàng thỏa mãn nguyện vọng này của hắn.
Y tốn cả một năm sàng lọc mài giũa một chuỗi tràng hồ phách cho Không Phạm, ngâm trong suối thuốc rồi tự mình chú pháp ấn lên, xứng đáng là một món trân phẩm. Ngày đó Không Phạm nhận chuỗi tràng này từ trong tay sư phụ, hai tay khép lại vu.ốt ve một lát, cuối cùng cũng nở nụ cười.
Nhưng hắn biết Thích Già Ngọc tặng sư huynh chuỗi xá lợi tử kia, kỳ thật là dùng răng của y tinh luyện mà thành.
Ai nặng ai nhẹ, vừa nhìn đã biết.
Nhưng hắn thực sự hài lòng.
Chùag cổ ẩn sâu trong núi vẫn luôn yên bình thanh tĩnh, mặt trời từng ngày lặng lẽ trôi qua, sư phụ chung quy không thể trở thành đôi thần tiên quyến lữ với sư huynh khiến người ta hâm mộ. Vào một ngày y thu dọ hành lý, giao toàn bộ sự vụ trong Đại Ninh tự cho hắn, đột nhiên xuống núi, nói là đã chán kiếp sống tăng lữ, xuống nhân gian ngắm muôn hồng nghìn tía.
Mấy chục năm sau, sư huynh vẫn ngủ mê mệt không tỉnh.
Mới đầu Không Phạm còn nhớ rõ lời dặn dò của sư phụ, không chủ động xuống núi tìm hắn, chỉ canh giữ Đại Ninh tự đợi sư huynh tỉnh lại, dần dà cũng ý thức được khả năng nào đó. Những năm gần đây hắn ở trong chùa dốc lòng nghiên cứu bói quẻ, cuối cùng vào một ngày tính ra ngày sư phụ chuyển thế, liền xuống núi hỏi tìm, đi theo la bàn chỉ dẫn chạy tới Giang Châu.
Lúc bước vào cửa thành, hắn nghe nói con trai của người giàu nhất Giang Châu Việt Minh Khê mắc bệnh lạ, Việt gia trang đang bỏ ra số tiền lớn tìm kiếm danh y giang hồ khắp nơi, cúi đầu nhìn phương hướng la bàn, trong lòng nói là không uổng công đến đây.
Hắn nhìn bố cáo, lên núi Việt Gia thăm đứa nhỏ bệnh nặng kia, quả nhiên liếc mắt một cái đã nhận ra y chính là sư phụ chuyển thế. Lúc đó Việt Minh Khê tuy chỉ mới bảy tuổi, đã sớm mở thần trí, tuy không nói ra lời, nhưng thườngh xuyên la hét khiến đôi vợ chồng trẻ Việt thị nghe không rõ, suốt ngày khóc nháo tỏng trang, Không Phạm chạy tới thì đã sốt cao nhiều ngày, hấp hối đến nơi.
Không Phạm áp lòng bàn tay lạnh lẽo lên trán y, cẩn thận đỡ y dậy đút thuốc, lại xoa bóp châm cứu cho y, thấy y trở mình trong giấc ngủ mê man., trong miệng lẩm bẩm: Liên nhi.
Bảy năm đầu luân hồi chuyển thế, sư phụ chỉ tâm niệm mỗi cái tên này, khóc lóc đòi Liên nhi của y.
Trong lòng y hốt hoảng, khôgn biệt là nên cảm động ahy thất vọng, cuối cùng chỉ có thể điều trị cho vị tiểu thiếu gia bảy tuổi này, tìm cách xóa bỏ toàn bộ ký ức không biết vì sao bị mang tới đây của y, rồi im lặng rời đi.
Không thể không nói hắn thật sự mừng thầm. Kiếp trước sư phụ gặp sư huynh sớm, lấy lý do này không chịu tiếp nhận tâm ý của mình nữa, nhưng kiếp này, hắn lại thực sự gặp sư huynh đi chung với y.
Chỉ tạm thời kiên nhẫn chờ đợi ở Đại Ninh tự, đợi đến mười năm sau Việt Minh Khê trưởng thành, hắn sẽ xuống núi cùng y tiếp tục tiền duyên.
……
Nhưng hắn vẫn chậm một bước.
Cuối cùng nhìn sư huynh cở bở khúc mắc, trút tăng y xé bỏ Độ Duyên, trong cảnh xuân muôn màu cầm kiếm, cưỡi ngựa, đi tìm người nọ.
Không Phạm ở dưới bóng râm trong thiền phòng ngồi bất động đến chạng vạng, cất kỹ đống đồ của sư huynh, cầm cuốn Đoạt tướng khó lắm mới lấy lại khóa lại trong Tàng Kinh Các,, sau đó gọi hai đệ tử mình đến, tạm thời giao sự vụ trong chùa cho bọn họ, nhẹ giọng nói lời tạm biệt với bọn họ.
Đạo Giác cùng Đạo Tĩnh hai mặt nhìn nhau, khó hiểu hỏi: “Sư phụ, ngài sẽ xuống núi à?”
Không Phạm cười nói: “Đúng vậy. Có lẽ trở lại, có lẽ sẽ không trở lại; Còn xem duyên phận sau này.”
Nói xong liền nắm chặt chuỗi Hổ Phách Niệm Châu được hắn coi như trân bảo kia, đội nón bước trên con đường gập gàng trong núi. Hắn quay đầu lại nhìn Đại Ninh tự xinh đẹp mà sạch sẽ dưới ánh trăng, phất phất vạt áo nhiễm sương, đi theo la bàn chỉ dẫ về phía dưới chân núi.
Nhân gian còn phồn hoa, hắn muốn đi ngắm nhìn nó.
[1] (度牒, dochō): còn gọi là Độ Duyên (度緣), là giấy chứng nhận do quan phủ cấp khi Tăng Ni xuất gia, tức Chứng Điệp Tu Sĩ, trên đó có ghi ngày tháng năm xuất gia, tên các vị quan chứng minh và dấu ấn. Dưới thời Bắc Ngụy đã tồn tại chế độ này rồi. Vào năm thứ 17 (729) niên hiệu Khai Nguyên (開元) nhà Đường, nhà vua hạ chiếu ra lệnh tất cả Tăng Ni trong thiên hạ phải làm Tăng Tịch. Theo phần Từ Bộ Điệp Phụ (祠部牒附) của Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) quyển Trung, ở Trung Quốc, chế độ này được bắt đầu tiến hành vào năm thứ 6 (747) niên hiệu Thiên Bảo (天寳) đời vua Huyền Tông (玄宗), nhà vua ra lệnh cho tăng ni phải lệ thuộc vào vị quan sứ công đức, do Từ Bộ Ty (祠部司) của Thượng Thư Tỉnh (尚書省) cấp, cho nên nó được gọi là Từ Bộ Điệp (祠部牒). Các Tăng Ni lấy điệp này làm bằng chứng về thân phận của mình và có thể được miễn lao dịch. Vào năm thứ 10 (856) niên hiệu Đại Trung (大中) đời vua Tuyên Tông (宣宗), người ta bắt đầu tiến hành cấp giấy chứng nhận thọ giới cho các giới tử đã đăng đàn thọ giới. Nó được gọi là Giới Điệp (戒牒). Vị tăng nào không có Độ Điệp, được gọi là Tư Độ Tăng (私度僧), tức không được quan lại địa phương công nhận và chế độ này kéo dài cho đến thời nhà Thanh thì chấm dứt. Đến thời Dân Quốc, Hội Phật Giáo Trung Quốc có cấp cho Tăng Ni Giới Điệp, chứ không phải Độ Điệp. Tại Nhật Bản, nó cũng được thi hành từ sau thời Nại Lương (奈良, Nara), khi xuất gia thì được cấp Độ Điệp và khi thọ giới thì được cấp Giới Điệp. Về sau, chế độ này càng lúc càng lỏng lẻo. Dưới thời Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) của Nhật Bản, Thiền Sư Phật Thừa (佛乘, Busshō) đã cấp trong 1 ngày cả 2 điệp này. Từ sau thời Minh Trị (明治, Meiji) trở đi, vị Quản Trưởng của các tông phái chịu trách nhiệm cấp Chứng Điệp này.