Phương Nhu im lặng lẻ loi, bàn tay trắng nõn chấp bút, cổ tay vung lên, nữ quan bên người đốt lư hương, cột khói đơn độc, tỏa ra hương thơm hoa lan.
Nữ quan bước đi nhẹ nhàng, cúi người khuyên nhủ: “Trưởng công chúa, đã qua canh ba, ngày mai còn phải đi đường, nên sớm nghỉ ngơi!”
Phương Nhu thản nhiên liếc mắt nhìn nàng một cái, khôn mặt như tranh vẽ nhiễm chút u ám lo âu, chậm rãi buông bút, lẩm bẩm nói: “Đã qua cửa ải rồi sao?” Cũng không nghỉ ngơi, ngược lại lấy kiện da cừu, tự khoác lên người, hướng lều đi đến.
Nữ quan vội vàng đuổi theo: “Trưởng công chúa, trưởng công chúa...”
Phương Nhu vén mành cửa, cũng không quay đầu lại: “Bản cung không mệt, một chốc nữa nghỉ cũng không muộn!”
Nữ quan chần chờ một lát, nâng tay mang noãn lô nhỏ đi theo ra khỏi mành, đem noãn lô đưa cho Phương Nhu: “Bên ngoài rét lạnh, trưởng công chúa cầm đi!”
Phương Nhu khe khẽ cười: “Ngươi luôn thật cẩn thận, đa tạ!” Đưa tay nhận lấy, cầm ở trong tay.
Hồi nhạc phong tiền sa tự tuyết, thụ hàng thành ngoại nguyệt như sương.
(Cát in trước núi ngời như tuyết,
Trăng rọi bên thành trắng tựa sương.
Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch (I) – Lý Ích)
Tại sao mà trăng khuyết cũng giống như Hán đô, hào quang trong trẻo nhưng lạnh lùng thấu suốt, chiếu khắp vùng quê bao la, lại càng làm lộ ra bầu trời mênh mông lạnh lẽo.
Phương Nhu ngửa mặt, thấp giọng ngâm khẽ: “Nguyệt thị cố hương minh ()...” Giọt nước mắt sáng trong lặng yên rơi, theo hai má non mềm trắng noãn chậm rãi chảy xuống: “Trăng kia sao lại thiếu hơn phân nửa?”
()Nghĩa là trăng quê nhà luôn sáng (hơn trăng đất khách)
Nguyệt dạ ức xá đệ – Đỗ Phủ
Nữ quan từ thuở nhỏ hầu hạ Phương Nhu, nhìn nước mắt trong suốt kia nhẹ nhàng rơi, trong lòng chua xót, miễn cưỡng cười nói: “Trưởng công chúa, từ khi rời kinh đến nay, đã qua nửa tháng, trăng đương nhiên là không thể toàn vẹn, tiếp qua nửa tháng nữa, tự nhiên lại tròn thôi!”
Phương Nhu chậm rãi quay đầu, cúi đầu thở dài: “Đã nửa tháng rồi sao? Lộ trình này cũng thật dài!”
Nữ quan lấy khăn lụa thay nàng lau nước mắt: “Công chúa, đường có dài, cuối cùng cũng có thể đi đến đích! Người đừng khổ sở, nếu là ngày sau lại tưởng nhớ, có thể thỉnh Đại Hãn cho phép người quay về Hán thăm người thân!”
“Không sai!” Một thanh âm hùng dũng bỗng vang lên, hai nữ nhân nhìn về sau, sau lều một người bước ra, hùng tư anh phát (oai hùng oanh liệt), thân cao đĩnh đạt, khí thế như núi, đúng là thủ lĩnh Di tộc, Hãn vương Tô Hách Ba Lỗ.
Từ lúc tự đón dâu đến nay, Tô Hách Ba Lỗ theo Hán chế (quy định của người Hán), không động phòng không làm việc vợ chồng, cho nên một đường đi đối đãi Phương Nhu trước sau nho nhã lễ độ, tận lực giữ đạo nghĩa, không có nửa phần bất kính, dù có khi tâm viên ý mã (), cũng tự giác kiềm chế, tuyệt không động tay động chân, khinh bạc giai nhân.
() Tâm viên: Tâm như con vượn nhảy nhót lưng tưng.
Ý mã: ý như con ngựa chạy lăng quăng đây đó.
Tâm viên, ý mã diễn tả tình trạng những ý nghĩ trong óc của con người biến chuyển rất nhanh: con người đang nghĩ chuyện trên trời, chuyển sang chuyện dưới biển, đang chuyện bên Tàu sang chuyện bên Tây.
Phương Nhu ban đầu cũng có vài phần lo lắng, sợ người Di dã man, chính mình thân đan lực bạt (một mình sức yếu), võ nghệ thô thiển, không đủ chống lại, hãy còn lo sợ bất an. Không thể tưởng được Tô Hách Ba Lỗ đối mình càng thêm kính trọng, vẫn chưa có ý xem thường, không khỏi nhẹ giọng, đối với vị Hãn vương uy vũ này thêm vài phần hảo cảm.
Trưởng công chúa cùng nữ quan dịu dàng hạ người bái lạy: “Đại Hãn!”
Tô Hách Ba Lỗ cuống quít vội muốn đỡ lấy thân thể như liễu mềm đón gió yêu kiều kia, đầu ngón tay chạm đến áo lông cừu của Phương Nhu, đột nhiên rụt tay lại, nhẹ nhàng hư thoát: “Trưởng công chúa đa lễ! Tái ngoại đêm lạnh gió rét, trưởng công chúa không thể ở lâu, cần phòng bị cảm lạnh!”
Phương Nhu thản nhiên cười yếu ớt: “Hôm nay ánh trăng rất đẹp, trong lều ngột ngạt, cho nên ra ngoài một chút!”
Tô Hách Ba Lỗ ngửa đầu nhìn vầng trăng khuyết giữa trời, ngữ khí có chút nhã nhặn: “Không biết bổn Hãn có thể có may mắn bồi công chúa ngắm trăng?” Nói xong, vung tay lên, một nữ hầu mặc y phục Hán từ sau lều đi ra, trong tay cầm một kiện nghê y (y phục màu cầu vồng).
Tô Hách Ba Lỗ tiếp nhận mở ra, Phương Nhu chỉ cảm thấy trước mắt sáng ngời, nghê y kia có chút dày, màu sắc sặc sỡ, nhìn thấy dường như là dệt từ ngàn vạn chiếc lông chim nhiều sắc màu khác nhau, bồng bồng (rậm rạp rối bù), gió nhè nhẹ thổi, lông chim theo gió tung bay, dưới ánh trăng, màu sắc càng thêm diễm lệ, làm người ta hoa cả mắt.
Hãn vương tiến nhanh tới, đem y phục lông vũ bảy màu khoác lên người Phương Nhu, lui bề sau một bước, tinh tế nhìn ngắm, giai nhân trước mắt như ngọc, nhịn không được khen: “Vinh diệu thu cúc, hoa mậu xuân tùng. Phảng phật hề nhược khinh vân chi tế nguyệt, phiêu phiêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết.”
(Rực rỡ thu cúc,
Tươi rạng xuân tùng.
Phảng phất như mây che bóng nguyệt,
Phiêu diêu như gió bay làn tuyết.
Lạc thần phú – Tào Thực)
Phương Nhu hé miệng cười, môi hồng khẽ mở: “Phi la y chi thôi sán hề, nhị dao bích chi hoa cư. Đái kim thúy chi thủ sức, chuế minh châu dĩ diệu khu. Đại Hãn có tâm, bản cung vô cùng cảm kích!”
(Khoác áo lụa ngời sáng chừ,
Khuyên tai toả sắc xanh.
Tay đeo lông thuý vàng làm trang sức,
Người kết ngọc minh châu xung quanh.
Lạc thần phú – Tào Thực)
Tô Hách Ba Lỗ cười lanh lảnh: “Công chúa thích, bổn Hãn cũng lấy làm vinh hạnh! Y phục này chính là năm đó Ba quốc vương tặng cho, bổn Hãn thầm nghĩ, chỉ có một mình công chúa xứng với y phục này! Lần đón dâu này, mang theo, công chúa lần đầu ra khỏi Hán quan (cửa ải biên quan nhà Hán), nhất định không thích đất bắc thanh lãnh, có vũ y này, cũng có thể chắn gió lạnh.”
Trưởng công chúa mỉm cười, vũ y này mặc trên người, nhẹ như lông hồng, cũng ấm áp dị thường, quả nhiên là một bảo vật. Đưa noãn lô trong tay cho nữ quan, ngẩng đầu nhìn trời, ngân câu (trăng khuyết màu bạc) bị một áng mây mỏng khẽ che, mang chút sương mù.
Tô Hách Ba Lỗ nhìn giai nhân dung nhan thanh trong tú lệ tuyệt luân, theo đôi mắt long lanh như nước ngước nhìn, thanh âm lại càng ôn nhu: “Không biết ánh trăng vùng quan ngoại so với bên trong cửa ải như thế nào?”
Phương Nhu chuyển ánh mắt nhìn sang nam nhân khí vũ hiên ngang bên cạnh, ngữ khí nhẹ nhàng từ tốn: “Trăng vốn giống nhau, như thế nào so sánh được? Bản cung cũng chưa từng nghĩ đến, Hãn vương hiểu biết Hán học, tinh thông thi phú!”
Hãn vương tiêu sái cười: “Không dối gạt công chúa, mẫu phi của bổn Hãn là người Hán, thuở nhỏ chịu ảnh hưởng từ mẫu phi, đối với Hán học có chút hiểu biết. So với công chúa, sợ là khổng thể theo kịp a!”
Trưởng công chúa bỗng nhiên giật mình một lúc lâu, trước mắt lướt qua một thân ảnh thon dài thanh tao cô độc, như tách biệt với thế giới, kẻ khác chỉ có thể ở xa nhìn mà không thể tiếp cận, thở dài trong lòng: nếu luận về sơ học (mới học), có ai có thể so được với hắn? Nhất thời không còn tâm tư ngắm trăng, hạ mắt vái chào: “Đại Hãn, ta hơi mệt, muốn sớm nghỉ ngơi!”
Tô Hách Ba Lỗ hơi khó hiểu, không biết vị trưởng công chúa Thánh triều tuyệt lệ này đến tột cùng có ý niệm gì xoay chuyển trong đầu, mới vừa rồi còn hưng trí bừng bừng, nói muốn ngắm trăng, trong phút chốc liền đột nhiên nói mệt mỏi cái gì, hắn tuy nghi ngờ, lại nghĩ trưởng công chúa sinh ra tôn quý, nuông chiều từ bé, dù cho có chút tâm tư đề phòng, chút tiểu tiết cũng phải làm, vội nói: “Thỉnh công chứa sớm nghỉ ngơi, ngày mai khởi hành sớm chỉ sợ mỏi mệt!”
Phương Nhu thấp giọng: “Còn mấy ngày nữa mới đến Hãn đô (kinh đô của nước Di)?”
Tô Hách Ba Lỗ mỉm cười nói: “Ra khỏi quan ải thì nhanh, nhiều nhất chỉ ba ngày liền tới đô thành!” Phương Nhu gật đầu, theo nữ quan dìu đỡ vào trướng bồng (lều).
Hãn vương hãy còn đứng ngoài lều, trơ mắt nhìn dáng người vô cùng tốt đẹp kia biến mất ở cửa, bùi ngùi thở dài, nữ quan bên người nhỏ giọng xin chỉ thị: “Đại Hãn cũng quay về lều nghỉ ngơi?”
Tô Hách Ba Lỗ giật mình sững người trong chốc lát, mắt thấy trong lều ngọn đèn tối đi chút ít, nghĩ giai nhân quả thật mệt mỏi, đã tắt đi ngọn đèn lớn nghỉ ngơi, mới chậm rãi xoay người: “Quay về lều thôi!”
Phương Nhu vẫn chưa ngủ, chỉ nằm một lát, khoác lại áo choàng, làm cho nữ quan hầu hạ ngồi ở trên giường, dựa vào gối gấm, đắp cái chăn thêu, khinh ngạc nhìn nến phượng nhỏ giọt đầu giường, không biết vì sao nhưng lại cảm thấy một chút hồi hận.
Vì sao quật cường như thế, nhẫn nhịn nhiều năm như thế, phút cuối lại không nguyện nhẫn nữa, bỏ hắn mà đi... Nhớ tới nét tươi cười nhàn nhạt ôn hòa trong trẻo của người nọ nhớ tới áo trắng người nọ bồng bềnh, dáng người đơn độc nghênh phong (đón gió) nhớ tới người nọ một mình tại Vĩnh Yên cung, đơn độc cô tịch mà kiên cường nhớ tới kinh mạch suy yếu của người nọ, môi tím nhạt, dưới ánh trăng tay gầy trơ xương khẽ vuốt ngực, dường như luôn mạnh mẽ kiềm nén mà thấp giọng ho khan... Bỗng nhiên ngồi thẳng người: Vì cái gì đoạn tuyệt vứt bỏ hắn mà đi? Vì cái gì không nghĩ đến tình cảnh của hắn có bao nhiêu gian khổ? Vì cái gì muốn nói lời tổn thương người? Vì cái gì đến giờ cuối cùng cũng không cho hắn một nụ cười cảm thông?
Nữ quan dưới đèn thêu thùa, nhìn thấy chủ tử bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, vội vàng ngừng việc, đi qua hỏi: “Công chúa, xảy ra chuyện gì?”
Phương Nhu đưa tay nắm lấy bàn tay mềm mại của nữ quan đưa tới: “Tú Bình, ngươi nói, ta có làm sai hay không?”
Nữ quan thấy bên thái dương vốn trơn bóng như ngọc của nàng lại chảy ra từng giọt từng giọt mồ hôi, cảm thấy thương tiếc, lấy khăn lụa thay nàng lau, ôn nhu nói: “Công chúa, người lần này là vì lợi ích quốc gia dân tộc, có cái gì mà sai?”
Phương Nhu chua chát cười: “Cái gì lợi ích quốc gia dân tộc, ta chỉ vì tránh một người thôi! Tú Hà, ta sao cảm thấy lần này là sai lầm rồi...” Khe khẽ phát run: “Hắn... bệnh nguy kịch, nếu là... Tú Bình, lần này đến Di Bang, sau này còn thể thể gặp lại hắn không?”
Tú Bình than nhẹ, đưa tay vén lên lọn tóc dài buông xuống bên má cửa trưởng công chúa: “Gặp lại thì như thế nào? Gặp lại xem như không thấy. Công chúa, không cần nhung nhớ thái phó, nô tỳ đã xem nhiều ngày nay, Hãn vương đối với người thật tình thâm ý trọng, có lẽ có thể trở thành tri kỷ!”
Phương Nhu kinh ngạc, nắm chặt tay nữ quan còn chưa thả lỏng, thấp giọng thở dài: “Ta từ mười sáu tuổi liền nghĩ muốn hắn, cho tới bây giờ hơn hai mươi năm, làm sao có thể nói không nghĩ liền không nghĩ được? Tú Bình, ta chỉ là sợ hãi, dù sao vẫn cảm thấy lần này từ biệt, sẽ không có ngày gặp lại!”
Tú Bình ôn hòa vỗ vỗ tay nàng, cảm giác tay kia lạnh như băng, lấy noãn lô ở đầu giường đặt vào tay nàng, làm cho nàng cầm lấy, nhẹ giọng an ủi: “Công chúa, người nghĩ nhiều rồi. Đại Hãn hôm nay sai người tặng sữa dê, nô tỳ thay người hâm nóng, uống vừa khéo có thể an thần?”
Phương Nhu cầm noãn lô, hạ mắt trầm tư, thở dài một tiếng, chậm rãi gật đầu, thân thể chậm rãi dựa vào chiếc gối thêu hoa.
Tú Bình đi tới cái nồi đang bốc hơi một bên góc lều, lấy bình sữa đặt vào nước đang sôi, vừa muốn đem bình sữa trở lại, đã thấy mành cửa nhẹ lay, một bóng người chợt tiến vào.
Tú Bình giật nẩy người, song chưởng xuất ra, miệng quát: “Người nào?”
Người nọ lặng lẽ không nói, tay phải khẽ nâng ngăn chưởng phong của Tú Bình đánh tới, tay trái nhẹ vung, lại có hai bóng người lặng yên đi vào trong lều, trong đó có một người nhanh tay xuất chưởng đánh về phía Tú Bình, Tú Bình chỉ cảm thấy chưởng phong ác liệt, mình hoàn toàn không thể cản được, vừa muốn há miệng kêu to, lại nghe một thanh âm thanh thúy: “Đừng hô, chúng ta là người của thái phó!”
Tú Bình giật mình dừng lại, bàn tay mềm mại dừng giữa không trung, rồi buông xuống bên người, mắt nhìn trưởng công chúa trên giường đã vén chăn xuống giường, đi đến trước bàn vuông giữa lều ngồi xuống.
Gương mặt Phương Nhu như ngọc hơi trầm, im lặng không nói, chỉ đánh giá ba người lẻn vào lều. Nhưng thấy một người gương mặt anh tuấn, tuổi chưa qua bốn mươi, hắc y mạnh mẽ một người mặt mày tuấn tú, khoảng hai mươi tuổi chính trực người còn lại cũng là một thiếu niên xinh đẹp như nữ tử, nhìn bộ dáng kia chỉ khoảng mười sáu xuân thu (tuổi) thôi.
Hắc y nhân lớn tuổi tiến lên một bước, đầu gối quỳ xuống đất: “Mạt tướng Sử Tông tham kiến trưởng công chúa điện hạ!” Hai thanh niên thấy hành động của tướng quân, vội quỳ xuống cùng, dập đầu thỉnh an.
Cổ tay trắng trẻo của Phương Nhu khẽ nâng: “Sử tướng quân xin đứng lên!”
Sử Tông cùng hai người lập tức đứng dậy lui về một bên, trưởng công chúa đứng lên, chậm rãi nói: “Trấn quốc tướng quân không ở trong kinh, lại ngầm vào biên cương nước Di, đêm hôm lẻn vào lều bạt của bản cung, là đạo lý gì?”
Sử Tông nhíu mày, nghĩ đến vì hai chữ “lẻn”, “ngầm” kia không có cảm giác hờn giận, cũng không thể phát tác, chỉ vái lạy nói: “Tuân theo ký thác của thái phó, cứu công chúa rời đi!”
Sử Tông bản tính u buồn trầm lặng, từ sau cái chết của Vân Ngọc, ngày càng cứng nhắc, trong triều người có giao tình đã ít lại càng ít, khi Vân Ngọc còn sống có cùng thái phó giao hảo (qua lại), cho nên quen biết Úy Oản. Ban đầu đối với vị thái phó nhìn như thư sinh văn nhược bình thường kia nhìn không thuận mắt, thật bất ngờ là cùng Úy Oản tiếp xúc lâu ngày, đối với thái phó tướng mạo thanh tú, ý chí thao lược dần nổi lòng khâm phục, đến khi Vân Ngọc chết, lại chỉ tín nhiệm lời nói của một mình thái phó. Chẳng qua, một người ở kinh thành, một người thường trú biên quan, lui tới không dễ dàng, trong triều biết đến quan hệ của hai người không nhiều.
Lần này đình chiến quay về kinh, hắn từ miệng Tiêu Hàn Xa biết được thái phó đối với việc hòa thân chưa bày tỏ thái đội gì, cảm thấy hơi bất mãn, ngay cả binh bộ thượng thư Triều Tổ cũngkhông hiểu sao tức giận, khó hiểu chính là vì sao ngay cả thái phó cũng không ngăn cản. Cho nên đến khi nhận được thư tín của Úy Oản chuyển tới, mới hiểu được thái phó cũng không phải không muốn ngăn cản, mà là không tiện công khai chống lại mệnh lệnh quân vương, ám độ trần thương (), lệnh hắn mang theo hai đệ tử truyền tin lẻn vào biên giới nước Di, tùy thời cứu người hòa thân ra.
() Điển cố: Thời Hán-Sở tranh hùng, Lưu Bang bị Hạng Vũ ép vào đóng quân trong vùng Ba Thục hẻo lánh khó ra được Trung Nguyên. Hàn Tín bèn bày kế vờ sửa đường sạn đạo nhưng lại ngầm dẫn quân đi đường núi hiểm trở để đánh úp ải Trần Thương, mở đường ra Trung Nguyên cho quân Hán.
Nghĩa: Ngầm Vượt Trần thương, một trong 36 kế của Binh Pháp Tôn Tử, vờ tấn công mặt chính đối phương, khi chúng tập trung phòng thủ trước mặt thì vòng ra sau để tấn công. Thuần Việt là “Giương đông kích tây”
Phương Nhu có chút giật mình sững sờ, đôi mắt đẹp long lanh, thủy quang ẩn hiện, nhìn hai người trẻ tuổi: “Nhị vị là?”
Nam thanh niênmỉm cười, chắp tay vái lạy: “Tại hạ Duẫn Trúc Phong, vị này là sư muội Trúc Tuyết, Úy thái phó là sư phụ của chúng tôi!”
Phương Nhu kinh ngạc: “Hắn đã từng thu nhận đệ tử? Ta còn tưởng rắng hắn cả đời chỉ dạy một mình bệ hạ thôi!”
Duẫn Trúc Phong cười cười: “Hai người chúng ta thuở nhỏ bị người vứt bỏ, được Vân Tụ sơn trang Bồ trang chủ nhặt về trang nuôi nấng, hai năm trước trang chủ phát hiện sư phụ bệnh khó nói, cho nên bảo hai huynh muội ta vào kinh phụng dưỡng sư phụ. Sư phụ không muốn chúng ta tự xem là bầy tôi, thu làm đồ đệ, chỉ dùng danh phận thầy trò!”
Phương Nhu khẽ gật đầu: “Tại sao bản cung chưa bao giờ gặp qua các ngươi?”
Vẻ mặt Duẫn Trúc Phong buồn bả, chưa kịp nói, Duẫn Trúc Tuyết bên cạnh đã giành mở miệng trước, thanh âm như hoàng oanh xuất cốc: () “Sư phụ không cho chúng ta tiến cung, bảo là hoàng đế không vui. Có một lần, ta cùng ca ca không yên lòng, lẻn vào hoàng cung muốn nhìn sư phụ một cái, sư phụ sau khi phát hiện rất giận dữ, sau đó không dám tiến cung nữa, sợ sư phụ sinh khí! Lần này nếu không phải sư phụ thả chim bồ câu trắng, chúng tavẫn không dám tiến cung!” Nàng mở miệng liền nói không dừng, nói liền một chuỗi dài.
() tiếng chim hoàng oanh hoang dã, một giống chim quý có giọng hót rất hay, trong trẻo mà quý phái
Phương Nhu cùng Sử Tông liếc nhìn nhau một cái, trong mắt đều có chút kinh nghi(ngạc nhiên nghi ngờ), người ôn hòa như nước thế nhưng cũng sẽ giận dữ? Trưởng công chúa lại nghĩ đến nguyên do, chắc là vì hoàng đế đối với thái phó luôn phòng bị, Úy Oản sợ Phương Huyễn lại nghi ngờ, cho nên không để đệ tử tiến cung chiếu cố, đang muốn đáp lời, lại nghe nữ quan Tú Bình đứng im một bên vội vàng dậm chân nói: “Các ngươi đã đến cứu công chúa, liền mau chút mang công chúa rời đi, những lời này ngày sau nói cũng không muộn, chớ để bị người phát giác!”