Trên cỏ đặt một chiếc giỏ trúc. Nó nhận ra cái giỏ
ấy, là giỏ trúc của tiểu cô nương kia. Trong giỏ bay ra hương thơm của
cơm và canh thịt.
Nước miếng chảy đầy miệng. Nó biết cô sẽ trở lại, nhưng không ngờ cô sẽ
để lại thức ăn. Là quên mang đi sao? Hay cô còn trốn đâu đó ngoài kia,
chờ bắt nó? Bóng cây đã hoàn toàn che khuất ánh sáng mặt trời. Nó chần
chừ, ngờ vực, thấp thỏm không yên quan sát động tĩnh trong rừng cây,
ngẩng đầu lên, ngửi mùi trong không khí.
Ngoài mùi thức ăn, nó không ngửi được mùi nào khác.
Trong không khí có mùi thuốc trên người cô, nhưng rất rất nhạt, là còn sót lại.
Cô đã đi rồi.
Nhưng nhiều kinh nghiệm không tốt đã dạy nó bất an vểnh tai lắng nghe.
Yên tĩnh.
Ngay cả gió cũng ngừng thổi.
Bỗng nhiên.
Ùng ục ùng ục!
Đói quá, bụng nó phát ra tiếng kêu.
Tách!
Oa! Tiếng động ngay trước mắt!
Nó kinh hãi, vội lùi lại, nhưng không thấy cái gì cả. Phía trước chỉ có
một bãi chất lỏng bầy nhầy không rõ rơi trên mặt đất. Tò mò, nó lại tiến lên, nhíu mày, dùng móng tay sắc nhọn dính một ít. Cái này rất dính. Nó đưa ngón tay dính chất nhầy đến mũi, ngửi.
Ừm, thối quá!
Chết tiệt, là nước miếng của nó.
Nó nhăn mặt, chán ghét vẩy đầu ngón tay dính nước miếng, sau đó mới đột
nhiên nhận ra tiếng “tách” kia là tiếng nước miếng nó nhỏ xuống.
Thật mất mặt, lại bị chính tiếng nước miếng nhỏ xuống của mình dọa sợ.
Nó tức giận liếc mắt, bước hai bước tới bên cửa động.
Từ nãy tới giờ, nó nghe tới nghe lui, chỉ nghe thấy tiếng phát ra do cái bụng đói của nó, nó đã không thể chống lại được mùi thơm quyến rũ từ
cơm và canh thịt tỏa ra.
Một lần nữa, nó lấy can đảm, đi ra khỏi hang động u tối dưới bóng cây.
Bên trái không có ai. Bên phải không có ai.
Nó chậm chạp di chuyển hai tay hai chân, bò đến bên cạnh giỏ trúc.
Không có ai xông tới bắt nó, cũng không có pháp khí từ trên trời giáng xuống.
Phù, nó thở phào nhẹ nhõm, vươn móng vuốt mở nắp giỏ trúc. Trong giỏ
trúc có hai nắm cơm rất to, còn có một ống trúc đậy nắp. Nó bốc nắm cơm
lên, gặm một miếng thật to. Ngon quá, ngon quá. Nó vui vẻ ăn cơm nắm,
lại một lần nữa được nếm mùi vị cơm trắng quen thuộc khiến nó xúc động
đến chảy nước mắt.
Nhanh chóng gặm hết nắm cơm thứ nhất, nó bốc nắm cơm thứ hai lên, nhịn không được dùng đầu ngón tay chọc chọc nắp ống trúc.
Nắp ông trúc rơi xuống bên cạnh, mùi thịt lập tức tỏa ra xung quanh.
Òa òa! Quả nhiên là canh thịt!
Trong ống trúc là canh gà hầm măng.
Nó một tay cầm giỏ trúc lên, há to miệng, rót canh thịt vào trong miệng.
Uống thật đã, ăn thật ngon.
Nó vừa gặm cơm nắm bên tay trái, vừa uống canh gà bên tay phải, cắn bên
này một miếng, còn chưa kịp nuốt vào đã không nhịn được uống canh bên
kia. Ăn đến nỗi canh và cơm dính đầy tay và mặt, nhếch nhác không tả
nổi.
Nhưng nó tuyệt đối không quan tâm, chỉ ăn hăng say, cuối cùng ngay cả xương gà cũng nuốt luôn.
Sau khi ăn xong, nó thậm chí không nhịn được cầm ống trúc lên liếm, liếm mãi đến khi không còn mùi vị canh gà mới thôi. Nó thở dài, dường như
hơi buồn. Liếc nhìn mây trắng ung dung trên bầu trời, nó xoay người đi
về hang, gần tới cửa hang lại quay đầu nhìn. Giỏ trúc bị nó làm đổ trên
đất, nắp giỏ trúc bị văng ra xa, ống trúc đựng canh bị nó ném sang bên
cạnh.
Nó nhìn đống lộn xộn trên đất, nhớ tới cô nương kia, đứng một lúc lâu, rồi bò lại nhặt mọi thứ.
Dĩ nhiên, nó không hy vọng xa vời rằng cô lại mang đồ ăn cho nó.
Chỉ là… Nếu như có… Cũng tốt…
Nó cẩn thận mở giỏ trúc ta, bỏ ống trúc vào, đậy nắp lại, sau đó liếm móng tay bò trở lại bóng tối trong hang động.
Sáng sớm ngủ dậy, ngoài cửa đã có mấy thầy mo đứng đợi. Cô mở cửa, để
các thầy mo biết cô đã dậy. Các thầy mo từ khắp nơi tụ họp, lần lượt tới cửa, vài người bọn họ mang dược thảo từ phương xa cho cô, một số khác
mang đặc sản địa phương, có một số còn kể cho cô vài chuyện thú vị từng
thấy.
Sáng hôm đó, cô nhận được mấy bình gốm, một cái lược gỗ sơn mài khắc hoa văn hình đám mây, và một chiếc váy tơ tằm, còn có một con hổ bằng ngọc
lớn chừng một bàn tay. Đương nhiên mọi người cũng không quên mang theo
đồ cúng đến, đổi thủy tinh sạch với cô. Cô bận rộn cả sáng, buổi trưa
chỉ ăn qua loa, buổi chiều thì ra sau vườn hái rau, cho gà ăn. Thực ra
các thầy mo đã mang đến cho cô thức ăn, quần áo và các vật dụng cần
thiết, nhưng cô thích tự tay mình làm.
Quá chiều, các thầy mo từ phía đông tới.
Bọn họ cùng cô đàm luận về ảnh hưởng của chiến tranh, cô cho bọn họ nhiều dược thảo và gấp bội thủy tinh.
Lúc tiễn bọn họ ra về thì lại thấy một bà lão mang theo vài người đàn
ông cưỡi lừa đến. Bà ấy xuống lừa ở cửa thôn, tự mình dắt lừa đi vào
trong thôn.
Bà ấy nhìn rất mệt mỏi.
Lúc bà ấy dẫn những người đàn ông kia vào thôn, mọi người đều nhìn cô.
Tử Kinh còn nhớ, bà lão kia tên Mỗ Lạp. Bà ấy không phải là pháp sư, mà là thị nữ hầu hạ nữ pháp sư ở Bạch Tháp.
Linh – Nữ pháp sư Bạch Tháp không giống nữ pháp sư nơi đây, cô ấy có năng lực tinh lọc.
Linh là sự tồn tại đặc biệt và thần thánh.
Cô ấy chưa bao giờ tới đây cúng tế, bởi vì cô ấy có khả năng tinh lọc ác linh. Nhưng hàng năm Linh vẫn phái thị nữ đến đây dâng tơ lụa và gạo.
Không phải đời pháp sư Bạch Tháp nào cũng giống như vậy. Đại pháp sư mấy đời trước cũng từng đến đây cúng tế, bọn họ cũng cần dược thảo trong
núi, mà thôn này là nơi nghỉ chân. Bạch Tháp ở phía Bắc, còn xa hơn thôn Lạc Hoa, tọa lạc trên bình nguyên rộng lớn. Đó là một quốc gia giàu có
hùng mạnh.
Nhưng lần này, người khơi mào chiến tranh lại chính là đại vương của Mỗ Lạp.
Các thầy mo trong thôn đều nhìn lão bà mệt mỏi ấy, xì xào bàn tán.
Bà lão lưng thẳng tắp, cằm ngẩng cao không quan tâm đến ánh nhìn của các thầy mo bên cạnh, nhưng bộ dáng kiêu ngạo của bà cũng không tài nào
giấu được bước chân loạng choạng và vẻ mặt tang thương của bà.
Tử Kinh tiến lên chào hỏi bà.
“Mỗ Lạp, đã lâu không gặp.”
“Tử Kinh cô nương.” Mỗ Lạp cung kính khom người, định hành lễ với cô.
“Bà đừng đa lễ.” Cô vội đưa tay nâng vị thị nữ già bôn ba trăm sông ngàn núi đến nơi này, một tay giúp buộc dây cương của con lừa vào cây cột
nhà cô, nói: “Chúng ta lên nhà.”
Thị nữ già bảo bọn thị vệ đi theo chờ phía dưới.
Tử Kinh không để ý đến bộ dạng vũ trang của bọn họ, chỉ đỡ thị nữ già lên lầu, rót cho bà chén nước.
Nhưng Mỗ Lạp vừa thấy một bàn đầy hộp gỗ liền xám mặt quỳ xuống đất, dập dầu trước cô, giọng nói khàn khàn: “Xin lỗi, khiến cô thêm phiền toái.”
“Đừng nói vậy, đứng dậy đi.” Cô nâng thị nữ già dậy, đưa chén nước cho
bà. “Nào, trước uống chén trà cho nhuận họng.” Mỗ Lạp nhìn cô rồi đứng
dậy, nhận chén sứ, uống một hớp nước. Tử Kinh ngồi xuống bên cạnh, đợi
bà uống xong chén nước kia, bình ổn hô hấp, mới hỏi.
“Linh có khỏe không?”
Rất lâu trước đây, Linh từng cùng đại pháp sư Bạch Tháp đời trước tới
nơi này. Họ không tới để thờ cúng, chỉ tới để Linh học pháp trận từ thầy mo già.
Lúc đó, cả cô và Linh đều còn nhỏ, nhưng hai người nhanh chóng trở thành bạn.
Linh ở đây cùng cô học nửa năm, lúc Linh rời khỏi thôn, hai người còn
khóc thảm thiết. Tiếc là sau này đại pháp sư qua đời, tất cả mọi chuyện
của Bạch Tháp đều do Linh gánh vác, cô không có cơ hội gặp lại Linh.
Nhưng Linh cũng không quên cô, hằng năm đều sai thị nữ tới tặng quà, còn nhân tiện chuyển lời tới cô, Tử Kinh thì làm ít đồ trừ tà tặng lại cho
cô ấy.
Mỗ Lạp đặt chén gốm xuống, nhìn cô, xin lỗi: “Vì chuyện lần này, nữ pháp sư vốn tính tự mình đến đây một chuyến, nhưng lễ tế xuân sắp tới, đại
vương trở về thành, cô ấy muốn thuyết phục đại vương, xem có thể ngừng
cuộc chiến này hay không.”
“Bà giúp ta nói lại với Linh, bảo cô ấy đừng suy nghĩ nhiều, ta biết
cuộc chiến tranh này không phải là ý muốn của cô ấy.” Huống chi đó là
chuyện của ngoài thôn, dù cô muốn nhúng tay cũng không được.
Mỗ Lạp gật đầu, cảm kích: “Ta sẽ chuyển lời.” Nói xong Mỗ Lạp tháo bao
vải trên lưng xuống, đặt trên bàn, mở ra, lấy ra một con dao găm làm
bằng đồng. “Đây là nữ pháp sư sai ta đưa tới cho cô.”
Tử Kinh nhận lấy con dao găm bằng đồng trên cán có khắc hình Thao Thiết, tháo bao da, rút con dao ra xem.
Con dao găm này lưỡi dao sắc bén, phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh.
Ánh sáng vàng lấp lóe trong phòng, cô nắm con dao được chế tác tinh xảo này, mỉm cười.
“Rất đẹp!” Cô tán thưởng ngắm nghía con dao xinh đẹp.
Người làm con dao này vô cùng dụng tâm, ngay cả hình Thao Thiết cũng làm hết sức tinh tế, không chút qua loa.
“Con dao găm này là do nữ pháp sư dặn thợ rèn giỏi nhất nước ta đúc ra, không phải đao kiếm tầm thường.”
“Đã vậy thì ta không khách khí.” Cô đặt con dao găm xuống, vui vẻ nhìn Mỗ Lạp: “Cảm ơn.”
Thị nữ già mỉm cười trả lời. “Cô thích là được rồi. Nữ pháp sư không thể tự mình tới đây, cảm thấy vô cùng có lỗi, cô ấy nói cô ấy nhất định sẽ
thuyết phục đại vương, cố gắng chấm dứt trận chiến hồ đồ này nhanh nhất
có thể.”
“Linh thật quá khách khí, ta chỉ làm chuyện ta phải làm mà thôi.”
Tử Kinh đứng dậy nói, cô cầm cái hộp gỗ sơn son thật to, mở hộp gỗ lấy
ra một bộ quần áo màu trắng bằng tơ tằm do chính tay cô may, bày ra cho
Mỗ Lạp nhìn. “Đây là tự tay ta may, xin nhờ bà giúp ta mang bộ pháp y
này về cho Linh. Tuy kỹ thuật không tốt, nhưng ta có bày trận pháp trên
đó, cô ấy mặc lúc cúng tế hay bình thường đều có thể phòng thân.”
Lúc cô nói hai câu cuối lại không kìm được nụ cười, dường như có thể thấy khuôn mặt vui mừng của Linh khi nhận bộ pháp y này.
Bộ váy này mỏng và mát, vạt áo và ống tay áo đều được thêu hình mây và
lông chim bằng tơ trắng, chân váy lại thêu một đám thầy mo đầu đội mũ
quan, hai tay kết ấn.
Mỗ Lạp biết quần áo do Tử Kinh làm có pháp lực, vội dùng hai tay cung kính nhận lấy.
“Cảm ơn Tử Kinh cô nương, nữ pháp sư nhất định sẽ rất vui.”
Tử Kinh mỉm cười lấy từ hộp gỗ ra một sợi dây chuyền.
“Còn cái này là cho bà.”
Mỗ Lạp hơi sửng sốt, kinh ngạc nhìn cô. “Cho ta? Tử Kinh cô nương, cái này… lão thân… thứ cho lão thân không nhận nổi…”
Tử Kinh đeo vòng cổ được xâu bởi hạt đào và ngân châu lên cổ bà, chân
thành nói: “Đừng nói vậy, chỉ là một món đồ nhỏ, đây không phải là lần
cuối cùng bà vào núi sao? Cho ta thể hiện chút tâm ý đi.”
Mỗ Lạp đã cao tuổi, đường núi này quả thật quá khó khăn đối với một người già như bà.
Cô giúp Mỗ Lạp chỉnh lại vòng cổ trừ tà, thành tâm thành ý khẽ vuốt lên
khuôn mặt đầy nếp nhăn của người thị nữ già, cầu nguyện: “Hy vọng bà lên đường bình an, cầu cho Nguyệt thần và Nhật thần có thể phù hộ bà.”
Cảm động nhìn cô nương dịu dàng này, Mỗ Lạp nghẹn ngào: “Tử Kinh cô nương… Cảm ơn cô…”
“Ta mới cần phải cảm ơn bà, cảm ơn bà giúp ta mang tin tức của Linh đến.”
Cô đỡ người thị nữ già này dậy, dịu dàng nói: “Thôi, đừng để những thị vệ kia đợi lâu, ta cùng bà xuống dưới.”
Tuy cô muốn giữ Mỗ Lạp lại, nhưng cô biết trong số các thầy mo hiện giờ ở trong thôn có mấy người có quê hương bị chiến tranh tàn phá, để Mỗ Lạp
qua đêm trong thôn chỉ gây ra thêm tranh chấp không cần thiết.
Tới ngoài cửa, cô thấy đã có người đứng ở nhà trọ nhìn sang.
Cô đỡ Mỗ Lạp xuống, ngượng ngùng nói: “Xin lỗi, vốn nên giữ bà qua đêm, nhưng…”
Mỗ Lạp vỗ tay cô, mỉm cười hiểu ý, nói: “Không sao, ta hiểu, ta hiểu, ta cũng phải trở về hỗ trợ lễ xuân tế, không thể ở lâu.”
Tử Kinh biết đây chỉ là lời khách sáo.
Phải trèo đèo lội suối tới đây, Mỗ Lạp nhất định rất mệt mỏi, nhưng nếu
bà ở lại, Tử Kinh cũng không thể nào đảm bảo an toàn cho bà.
Tử Kinh chỉ là một người thờ cúng, một người giữ cửa.
Các thầy mo tôn trọng cô, nhưng bọn họ không thuộc quyền quản lý của cô.
“Bà phải bảo trọng.” Tử Kinh nắm chặt đôi tay thô ráp già nua của bà. Mỗ Lạp gật đầu, sau đó xoay người, mang theo bọn thị vệ vũ trang, dắt con
lừa của bà rời đi. Bà đi thẳng đến ngoài thôn mới cưỡi con lừa kia. Cô
đưa mắt nhìn theo người trên lưng lừa, lưng đã còng, người khom khom,
bóng dáng lắc lư lảo đảo đi xa. Cô biết, đây là lần cuối cùng cô nhìn
thấy Mỗ Lạp.
Mọi người luôn luôn đi qua cuộc đời cô như vậy.
Thành thật mà nói, cô cũng không biết kiếp này mình có thể được gặp lại Linh hay không, nhưng cuộc đời là vậy.
Cô sớm đã quen, cũng nhất định phải quen.
Bóng dáng Mỗ Lạp đã hoàn toàn biến mất, cô xoay người nhìn nắng chiều
nhuộm ngọn núi phía sau thôn thành một mảng đỏ diễm lệ ma mị.
Thoạt nhìn, ngọn núi kia cũng giống như lửa.
Màu đỏ giống như máu, làm người ta hơi bất an.
Có lẽ ngày mai, cô nên lên núi xem thử một chuyến.
Dưới chân núi đang có chiến tranh, đám ma khát máu đó có lẽ sẽ thức tỉnh.
Thầy mo già từng nói với cô, trước đây cũng từng xảy ra những chuyện
giống như thế này, chỉ cần có chém giết, yêu ma sẽ rục rịch, đó là cơ
hội để bọn chúng thoát ra khỏi ma cảnh.